Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Skkn tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo với chủ đề dạy học “hs với di sản vă...

Tài liệu Skkn tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo với chủ đề dạy học “hs với di sản văn hóa địa phương” để rèn luyện kỹ năng thuyết trình, viết quảng cáo, lập kế hoạch cho học sinh lớp 10

.DOC
59
197
74

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NINH BÌNH TRƯỜNG THPT KIM SƠN A SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2016 – 2017 TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO VỚI CHỦ ĐỀ DẠY HỌC: “HỌC SINH VỚI DI SẢN VĂN HÓA ĐỊA PHƯƠNG” ĐỂ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH, VIẾT QUẢNG CÁO, LẬP KẾ HOẠCH CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT - Họ và tên: TRẦN THỊ LAN PHƯƠNG - Chức vụ: Tổ trưởng Tổ Văn - GDCD - Địa chỉ: Trường THPT Kim Sơn A - Điện thoại: 0168.615.7488 - Email: [email protected] Kim Sơn, tháng 05 năm 2017 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TỈNH Tôi ghi tên dưới đây: TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác Chức vụ Tỷ lệ (%) Trình độ đóng góp chuyên môn vào việc tạo ra sáng kiến 1 Trần Thị Lan Phương 15/4/1980 Trường THPT Tổ trưởng Thạc sĩ 100% Kim Sơn A 1. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo với chủ đề dạy học: “Học sinh với di sản văn hóa địa phương” để rèn luyện kỹ năng thuyết trình, viết quảng cáo, lập kế hoạch cho học sinh lớp 10 THPT. Lĩnh vực áp dụng: Môn Ngữ văn lớp 10 THPT. 2. Nội dung a. Giải pháp cũ thường làm: * Cách tổ chức dạy học: Trong chương trình Ngữ văn 10 THPT đã có ba tiết học gồm: Trình bày một vấn đề (Học kỳ I), Lập kế hoạch cá nhân (Học kỳ I), Viết quảng cáo (Học kỳ II). Giải pháp cũ thường làm đối với các tiết học này như sau: giáo viên tổ chức dạy học theo đúng Phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bám sát các nội dung cơ bản trong sách giáo khoa. Trong đó các tiết học thường bắt đầu bằng việc tìm hiểu lý thuyết, sau đó thực hành. Về lý thuyết, các bài học này đều tập trung vào một số vấn đề cơ bản như ý nghĩa, yêu cầu, cách tiến hành với mỗi kỹ năng. Ở cuối các tiết học có một khoảng thời gian ngắn dành cho việc luyện tập các kỹ năng này. Về phương pháp, giáo viên áp dụng các phương pháp quen thuộc như thuyết trình, đàm thoại,… Các tiết học được bố trí cách xa nhau, rời rạc, thiếu sự liên kết. * Ưu điểm và hạn chế của giải pháp cũ: - Về ưu điểm: + Việc đưa các nội dung này vào chương trình giúp học sinh được tiếp cận với kiến thức và kỹ năng mang tính thực tiễn cao, là những vấn đề các em vẫn gặp trong đời sống hàng ngày, là những kỹ năng mà một con người trong xã hội hiện đại cần trang bị cho mình. + Các tiết học trong chương trình bao gồm những nội dung kiến thức rất cô đọng, mạch lạc, dễ tiếp nhận, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh lớp 10 THPT. Việc tiến hành theo các phương pháp cũ như làm việc với SGK, thuyết trình, đàm thoại giúp học sinh tiếp nhận kiến thức một cách bài bản, rõ ràng, có hệ thống. Từ kiến thức thu nhận được trong các tiết học trên lớp, các em có thể suy ngẫm, liên hệ với thực tiễn để mở rộng hiểu biết của bản thân. - Về hạn chế: + Thứ nhất, các tiết học này tách rời nhau trong chương trình, không tạo nên sự kết nối liền mạch. Khi tiến hành dạy theo đúng phân phối chương trình và phương pháp dạy cũ, học sinh sẽ không cảm nhận được các nội dung này thực tế có mối liên hệ rất gần nhau, có thể bổ sung, kết hợp với nhau. + Thời lượng dành cho các tiết học này rất hạn chế. Thực tế cả ba tiết học đều là những kỹ năng quan trọng, có ý nghĩa lớn với con người hiện đại. Cũng không thể dễ dàng và nhanh chóng rèn luyện những kỹ năng này một cách nhuần nhuyễn trong thời gian ngắn. Thời lượng như vậy thực tế chỉ đủ để dạy lý thuyết cơ bản, không có thời gian để học sinh thực hành, rèn luyện kỹ năng thực sự. Như vậy thì việc đổi mới chỉ dừng lại ở việc điểm qua các nội dung cơ bản, học sinh chưa thể áp dụng vào đời sống thực tế của mình. Trong khi đó, một con người thành đạt trong xã hội hiện đại không thể không biết trình bày, thuyết trình một vấn đề nào đó trước đám đông, lên kế hoạch cho các công việc và cuộc đời của mình, không biết tìm tòi cách thức để quảng bá cho sản phẩm mình tạo ra hay một ý tưởng nào đó của cuộc sống. + Các tiết học này không có thời gian dành cho hoạt động thực hành, trải nghiệm cuộc sống đúng nghĩa. Việc thực hành mới được bố trí cuối mỗi tiết học với thời gian ngắn ngủi khó tránh được thực tế là thực hành còn mang nặng tính hình thức, chưa chú trọng việc học sinh có cơ hội trải nghiệm thực sự, có thể sáng tạo ra sản phẩm có chất lượng với mỗi bài học. b. Giải pháp mới cải tiến: b1. Tích hợp các tiết học thành một chủ đề dạy học: * Cách xây dựng chủ đề dạy học: Toàn bộ ba tiết học: Trình bày một vấn đề, Lập kế hoạch cá nhân, Viết quảng cáo được tập hợp lại và thống nhất thành một chủ đề chung. - Về thời lượng, chủ đề vẫn gồm ba tiết học. Trong đó thời gian dành để tìm hiểu lý thuyết là một tiết. Thời gian để thực hành là hai tiết cộng với thời gian học sinh làm việc ngoài giờ học. - Về nội dung chủ đề: Giáo viên và học sinh bàn bạc để thống nhất lựa chọn một chủ đề chung có thể kết nối ba tiết học. Đó là nội dung: Học sinh với di sản văn hóa địa phương. Với chủ đề này, học sinh có thể rèn luyện các kỹ năng như trình bày ý kiến của cá nhân về vấn đề bảo vệ di sản văn hóa của địa phương, có thể sáng tạo các sản phẩm quảng cáo để quảng bá về các di sản văn hóa địa phương. Trong quá trình thực hiện học sinh rèn luyện kỹ năng lập kế hoạch cá nhân. * Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp: Như vậy, việc xây dựng các tiết học rời rạc thành một chủ đề thống nhất đã đáp ứng được nhiều yêu cầu: - Tạo sự kết nối liền mạch và logic giữa các tiết học. Trong một chủ đề chung, học sinh đồng thời rèn luyện tất cả các kỹ năng cần thiết với yêu cầu của chủ đề. - Giảm nhẹ thời gian học lý thuyết xuống còn một tiết học. Thời lượng của chủ đề chủ yếu dành cho việc thực hành. Điều này phù hợp với thực tiễn dạy học hiện nay, bởi lẽ học sinh không phải chỉ cần học thuộc lý thuyết, điều các em cần là thực hành, trải nghiệm, áp dụng được những lý thuyết đó vào thực tiễn đời sống. - Gắn lý thuyết với thực tiễn đời sống của học sinh: các nội dung Trình bày một vấn đề, Lập kế hoạch cá nhân và Viết quảng cáo rất cần có một nội dung chung để tạo sự liên kết giữa các tiết học này. Do vậy, tôi hướng học sinh đến vấn đề về di sản văn hóa địa phương. Đây là vấn đề khá gần gũi với học sinh, có hệ thống tư liệu phong phú, cũng là vấn đề khá thuận lợi với điều kiện mọi mặt của học sinh. Để thực hiện nội dung này, học sinh cần về địa phương của mình, tìm hiểu thực tế, trên cơ sở đó có chất liệu để trình bày quan điểm cá nhân cũng như làm các sản phẩm quảng bá di sản văn hóa địa phương. - Tổng hợp kiến thức, kỹ năng của nhiều môn, nhiều lĩnh vực: để hoàn thành chủ đề này, học sinh cần tìm hiểu kiến thức của nhiều môn. Với môn Ngữ văn, học sinh cần nắm vững cách trình bày một vấn đề, cách viết kịch bản, lời thoại quảng cáo… Ngoài ra học sinh cần có hiểu biết về địa lý, lịch sử địa phương, các kiến thức về văn hóa, các kỹ năng làm nghề thủ công… Để sản phẩm của nhóm thuyết phục hơn, các em còn cần tìm hiểu, vận dụng kiến thức của các bộ môn KHTN như Hóa học để góp ý, tuyên truyền cho người dân nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra những sản phẩm thủ công bền, đẹp về mẫu mã, hình thức, đảm bảo an toàn cho sức khỏe của người tiêu dùng và tăng giá trị của sản phẩm đang được quảng cáo… b2. Dạy học theo chủ đề gắn với hoạt động trải nghiệm sáng tạo * Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo: Ngoài việc xây dựng nội dung thành một chủ đề dạy học thống nhất, tôi đã hướng dẫn và tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh. Chủ đề dạy học này không thể tách rời hoạt động trải nghiệm. Về cơ bản, hoạt động trải nghiệm trong chủ đề này được xác định như sau: - Thời gian tổ chức hoạt động trải nghiệm: tiết 2 của chủ đề và thời gian ngoài giờ lên lớp. - Cách tổ chức hoạt động trải nghiệm: giáo viên phân công lớp thành 6 nhóm (hoặc học sinh tự đăng ký vào các nhóm theo sở thích, mối quan tâm của cá nhân). Các nhóm thống nhất nội dung, thời gian tổ chức hoạt động trải nghiệm, kế hoạch trải nghiệm, nhiệm vụ của mỗi thành viên, thời hạn hoàn thành nhiệm vụ cá nhân và sản phẩm chung của nhóm. * Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp: - Hoạt động trải nghiệm sáng tạo thực sự là cầu nối nhà trường, kiến thức môn học với thực tiễn một cách có tổ chức, có định hướng, góp phần tích cực vào việc hình thành, phát triển năng lực học sinh. Về kiến thức, nội dung của các bài học được học sinh tiếp nhận một cách chủ động, tích cực. Các em không chỉ học trong lớp mà chủ động tìm hiểu trước khi giờ học bắt đầu. Khi trải nghiệm thực tế, các em cũng luôn luôn phải nhìn lại để nắm vững và vận dụng lý thuyết để tạo ra sản phẩm chất lượng. - Trong quá trình tham gia hoạt động trải nghiệm, học sinh được rèn luyện rất nhiều kỹ năng: làm việc nhóm, xây dựng kế hoạch, giao tiếp, thuyết trình… Các nhóm phải tự bàn bạc, thống nhất, xây dựng kế hoạch trải nghiệm, phân công nhiệm vụ cho các thành viên, lên kế hoạch cá nhân, luyện tập để thuyết trình,… Học sinh có cơ hội để rèn luyện kỹ năng sử dụng CNTT, tìm kiếm và sử dụng các phần mềm tin học một cách thành thạo, hiệu quả, biết xử lý ảnh, sắp xếp theo chủ đề phù hợp với triển lãm, cắt ghép video, ghép nhạc, ghi âm, lồng tiếng một cách khá chuyên nghiệp. Hơn thế học sinh còn có cơ hội trở thành người mẫu trình diễn sản phẩm thủ công mỹ nghệ của quê hương mình, quảng bá các sản phẩm đó đến bạn bè khắp nơi,… Để có thể hoàn thiện sản phẩm trải nghiệm thành công, học sinh còn cần tự đi liên hệ, xin phép cá nhân, tổ chức có liên quan để được tiếp cận các thông tin cần thiết, liên hệ để mượn sản phẩm cho nhiệm vụ của nhóm,… - Về không gian học tập: Với hoạt động trải nghiệm, học sinh không còn học trong lớp học mà học trong thực tế cuộc sống, không thụ động tiếp thu tri thức mà tự tìm hiểu lý thuyết cũng như thực tế đời sống. Không gian học tập được mở rộng thực sự rất có ý nghĩa với học sinh, giúp các em được cảm nhận, đắm mình trong không gian văn hóa của quê hương mình. b3. Kế hoạch dạy học: Thời Tiến trình Hoạt động của học gian dạy học sinh - Học sinh căn cứ vào Hoạt động sách giáo khoa và 1: Tìm thực tiễn đời sống, hiểu lý các tư liệu GV cung Tuần thuyết về cấp đề tìm hiểu lý 1 Trình bày thuyết. một vấn - HS cùng thảo luận đề, Viết về yêu cầu và cách quảng cáo thực hiện từng nhiệm và Lập kế vụ (trình bày vấn đề, hoạch cá viết quảng cáo, lập kế nhân. hoạch) - Các nhóm trình bày kết quả thảo luận. - Học sinh nhận nhiệm vụ học tập: Làm sản phẩm quảng bá về di sản văn hóa địa phương, trình bày quan điểm về vấn đề Hoạt động bảo vệ di sản văn hóa 2: Xây ở địa phương. dựng kế (Phiếu HT: Phụ lục Hỗ trợ của giáo viên - Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu lý thuyết thông qua các video, hình ảnh. - Giáo viên hỗ trợ học sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập. Giáo viên nêu tính cấp thiết của dự án và chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh bằng các câu hỏi định hướng. Kết quả/ sản phẩm dự kiến - Học sinh trình bày trên bảng nhóm và thuyết trình về yêu cầu, cách trình bày một vấn đề, viết quảng cáo và lập kế hoạch cá nhân. - Bản kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của nhóm. - Bản kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của cá nhân. Tuần hoạch và 1 tổ chức hoạt động trải nghiệm 1) - Học sinh thảo luận, xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động trải nghiệm để thực hiện nhiệm vụ. (Tài liệu hỗ trợ: Phụ lục 2) - HS báo cáo kết quả làm việc của nhóm. (Phiếu đánh giá sản phẩm: Phụ lục 3) - Lắng nghe và đánh giá kết quả sản phẩm của nhóm (Phiếu đánh giá Hoạt động hoạt động cá nhân: 3: Báo cáo Phụ lục 4) Tuần kết quả 2 hoạt động trải nghiệm - Cung cấp tư liệu, hình ảnh mang tính chất định hướng, hỗ trợ học sinh. - GV trợ giúp HS xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm. - GV lắng nghe các nhóm trình bày - Nêu câu hỏi - Tiến hành đánh giá sản phẩm của các nhóm - Nhận xét và tổng kết hoạt động nhóm Chương trình truyền hình “Kim Sơn quê hương tôi”: (Hình ảnh sản phẩm: Phụ lục 5) - Video quảng bá các di sản văn hóa địa phương (Lễ hội, Cồn Nổi). - Triển lãm ảnh về DSVH huyện Kim Sơn. - Quảng cáo về các di sản văn hóa địa phương. - Trình diễn thời trang để quảng bá các sản phẩm thủ công mĩ nghệ từ cây cói của huyện Kim Sơn. - Chuyên mục Talk Vietnam bàn về vấn đề bảo vệ di sản văn hóa huyện Kim Sơn. 3. Hiệu quả kinh tế, xã hội dự kiến đạt được a. Hiệu quả kinh tế: - Chủ đề “Học sinh với di sản văn hóa địa phương” mà tôi đã thực hiện có tiềm năng rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động tuyên truyền cho các di sản văn hóa địa phương. Thông thường, hoạt động tuyên truyền bảo vệ và phát triển di sản văn hóa địa phương thường được tiến hành bằng hình thức treo băng rôn, khẩu hiệu, gần đây là treo các biển quảng cáo với hình ảnh có gắn đèn led chiếu sáng ban đêm nhằm tăng hiệu quả. Trong chủ đề dạy học đã thực hiện trên đây, học sinh đã sáng tạo ra các sản phẩm quảng cáo, video giới thiệu về Khu sinh cảnh Bãi Ngang – Cồn Nổi, triển lãm ảnh về di sản văn hóa Kim Sơn, quảng bá sản phẩm chiếu cói bằng hình ảnh,… Những sản phẩm này hoàn toàn có thể tải lên các trang mạng xã hội, giúp mở rộng không gian, thời gian và đối tượng để quảng bá sản phẩm. - Chủ đề này cũng rất có tiềm năng trong việc góp phần quảng bá và phát triển du lịch địa phương. Qua các sản phẩm của học sinh, nhiều người biết đến những nét đẹp trong không gian văn hóa Kim Sơn, đó cũng là cách để học sinh góp phần phát triển di sản văn hóa địa phương. Hơn nữa, các sản phẩm chiếu cói mỹ nghệ được tạo nên từ bàn tay tài hoa, khéo léo và chăm chỉ của người Kim Sơn sẽ được biết đến nhiều hơn, góp phần vào việc tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sự phát triển của ngành thủ công mỹ nghệ Kim Sơn. b. Hiệu quả xã hội: - Việc kết hợp kiến thức thực tiễn vào để giải quyết một vấn đề nào đó trong một môn học là việc làm cần thiết. Điều đó đòi hỏi người giáo viên bộ môn không chỉ nắm chắc môn mình dạy mà còn phải không ngừng trau dồi kiến thức các môn học khác, kiến thức thực tiễn để tổ chức, hướng dẫn các em giải quyết các tình huống, các vấn đề đặt ra trong môn học một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. - Đặc biệt trong giáo dục, dạy học gắn với chủ đề và hoạt động trải nghiệm, giải quyết các vấn đề trong một môn học sẽ giúp học sinh hiểu rộng hơn, sâu hơn về vấn đề đặt ra trong môn học, góp phần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. - Về tư tưởng, tình cảm, hoạt động trải nghiệm sáng tạo gắn với chủ đề dạy học “Học sinh với di sản văn hóa địa phương” đã giúp học sinh hiểu sâu hơn về các di sản văn hóa của địa phương. Các em đã đến với những đền, chùa, đình miếu cổ kính, hòa mình vào không gian lễ hội trang trọng thiêng liêng tưởng nhớ người có công khai khẩn miền đất quê hương mình, hòa trong không khí náo nức của đêm Noel ở giáo xứ Phát Diệm, được đón nhận không khí thoáng đãng, khoáng đạt của vùng Bãi Ngang – Cồn Nổi, đến với những làng nghề truyền thống của quê hương, thưởng thức các món đặc sản,… Những trải nghiệm đó thực sự thú vị và hấp dẫn, giúp các em cảm thấy rõ hơn, sâu hơn sự gắn bó giữa môn học với đời sống thực tế, góp phần bồi đắp tình cảm yêu mến, trân trọng các di sản văn hóa này. Cao hơn, hoạt động trải nghiệm sáng tạo đã góp phần giáo dục học sinh ý thức phát triển để nâng cao giá trị của các di sản này, từ đó đưa di sản văn hóa của địa phương đi xa hơn, được biết đến nhiều hơn. - Đây là tư liệu cho giáo viên và học sinh tham khảo và áp dụng vào hoạt động dạy và học mang lại hiệu quả tốt. Nhiều giáo viên và học sinh sau khi áp dụng sáng kiến này vào công việc dạy và học của mình đã rất ấn tượng, thích thú và mong muốn được phát triển mở rộng hơn nữa giới hạn áp dụng của sáng kiến này vào nhiều các phần nội dung kiến thức ở các khối lớp. 4. Điều kiện và khả năng áp dụng a. Về điều kiện áp dụng: - Điều kiện cơ sở vật chất: nhà trường có phòng học chung với không gian trang thiết bị phù hợp để học sinh chuẩn bị và trình bày sản phẩm. - Điều kiện về con người: + Giáo viên: giáo viên cần tích cực, năng động, dám mạnh dạn thử nghiệm cái mới, có hiểu biết vững vàng về việc tổ chức dạy học theo chủ đề, tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Giáo viên cần có hiểu biết về CNTT, có sự cộng tác tốt với các giáo viên có chuyên môn Tin học để các giáo viên này hướng dẫn cho cả thầy và trò trong những trường hợp vướng mắc. + Học sinh: học sinh cần chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập, sẵn sàng tiếp cận với kiến thức mới, có hiểu biết cơ bản về sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại, các phần mềm cắt ghép video, chỉnh sửa ảnh, trình chiếu trên Power Point,... Trên hết, học sinh không ngại thử nghiệm, trải nghiệm và có tư duy sáng tạo. Với tinh thần ấy, học sinh có thể tiếp cận và làm quen với nhiều kiến thức, kỹ năng mới. b. Về khả năng áp dụng: Chủ đề này có thể áp dụng rộng rãi vì dạy học theo chủ đề, dạy học gắn với hoạt động trải nghiệm sáng tạo không chỉ phù hợp với định hướng giáo dục hiện đại mà còn rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh THPT. Lứa tuổi này các em đam mê tìm tòi khám phá, các em cũng rất tích cực, chủ động, nhanh nhạy với cái mới và thích khẳng định bản thân. Việc trải nghiệm sáng tạo giúp học sinh phát huy được năng lực toàn diện. Về thời gian, sự linh hoạt của chủ đề cho phép học sinh chủ động trong việc làm nhiệm vụ. Các em không cần phải mất quá nhiều thời gian để thực hiện mà cơ bản nhất là lên kế hoạch hợp lý, lựa chọn thông tin phù hợp để sau đó xử lý. Việc thực hiện chủ đề có thể kết hợp giữa làm trên lớp với hoạt động ngoài giờ, giữa việc làm theo nhóm với hoạt động cá nhân. Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi ở tất cả các trường THPT trong toàn tỉnh Ninh Bình nói riêng, cả nước nói chung bởi nó không đòi hỏi đầu tư nhiều về kinh tế. Để chuẩn bị cho một bài dạy theo chủ đề này giáo viên cần chủ động tìm hiểu tư liệu (thông qua mạng Internet), sử dụng các PTDH hiện có của nhà trường hoặc giáo viên thiết kế. Vấn đề cơ bản nhất là giáo viên định hướng để học sinh tự triển khai, thực hiện nhiệm vụ và hướng dẫn, đồng hành cùng học sinh. Các phần mềm Tin học học sinh có thể sử dụng phần mềm miễn phí trên mạng Internet, các phương tiện phục vụ cho việc thực hiện sản phẩm cũng khá đơn giản trong xã hội hiện nay (điện thoại có chức năng quay phim, ghi âm, chụp ảnh…). Tóm lại xét trên mọi phương diện, sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi và linh hoạt ở nhiều địa phương khác nhau. Hơn nữa, với tinh thần đổi mới, tích cực xây dựng chủ đề dạy học, tăng cường tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh THPT, sáng kiến có thể tiếp tục phát triển để có thể ứng dụng tốt hơn và phát huy năng lực của học sinh hiệu quả hơn. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO ĐƠN VỊ Kim Sơn, ngày 21 tháng 9 năm 2017 Người nộp đơn (Ký và ghi rõ họ tên) Trần Thị Lan Phương SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2016 - 2017 I. TÊN SÁNG KIẾN: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO VỚI CHỦ ĐỀ DẠY HỌC: HỌC SINH VỚI DI SẢN VĂN HÓA ĐỊA PHƯƠNG ĐỂ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH, VIẾT QUẢNG CÁO, LẬP KẾ HOẠCH CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT II. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN - Họ và tên: TRẦN THỊ LAN PHƯƠNG - Chức vụ: Tổ trưởng Tổ Văn - GDCD - Địa chỉ: Trường THPT Kim Sơn A III. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Giải pháp cũ thường làm 1.1. Tiến trình dạy học Có thể khẳng định rằng việc đổi mới giáo dục căn bản và toàn diện là nhu cầu cấp thiết của thời đại. Thế giới đang trong quá trình toàn cầu hóa, nếu xã hội nói chung ngành giáo dục nói riêng không đổi mới để đáp ứng với yêu cầu của thời đại thì thế hệ học sinh chúng ta đào tạo sẽ ngày càng tụt lại ở khoảng cách xa hơn với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong nỗ lực đưa chương trình đến gần với đời sống hiện đại, chương trình Ngữ văn 10 THPT đã có một số tiết học như: - Trình bày một vấn đề (Học kỳ I) - Lập kế hoạch cá nhân (Học kỳ I) - Viết quảng cáo (Học kỳ II) Tuy nhiên, các tiết học này được sắp xếp tách rời nhau trong chương trình với khoảng cách khá xa, ở cuối học kỳ I và học kỳ II chương trình Ngữ văn 10 THPT. Hơn nữa, việc dạy và học những nội dung này vẫn thường được tiến hành theo phương pháp cũ, chưa có sự đổi mới rõ rệt. Giải pháp cũ thường làm đối với các tiết học này như sau: Về tiến trình và nội dung dạy học, giáo viên tổ chức dạy học theo đúng Phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bám sát các nội dung cơ bản trong sách giáo khoa. Trong đó các tiết học thường bắt đầu bằng việc tìm hiểu lý thuyết, sau đó thực hành. Về lý thuyết, các bài học này đều tập trung vào một số vấn đề cơ bản như ý nghĩa, yêu cầu, cách tiến hành với mỗi nội dung. Ở cuối các tiết học có một khoảng thời gian ngắn dành cho việc luyện tập các kỹ năng này. Có thể hệ thống các nội dung kiến thức cơ bản ở ba hai học này như sau: STT BÀI NỘI DUNG KIẾN THỨC 1 Trình bày một - Tìm hiểu tầm quan trọng của việc trình bày một vấn vấn đề đề. 2 3 - Công việc chuẩn bị để trình bày một vấn đề. - Cách thức trình bày một vấn đề (Mở đầu, trình bày nội dung chính, kết thúc và cảm ơn). - Luyện tập. Lập kế hoạch cá - Sự cần thiết của việc lập kế hoạch cá nhân. nhân - Cách lập kế hoạch cá nhân. - Luyện tập. Viết quảng cáo - Vai trò và yêu cầu chung của văn bản quảng cáo. - Cách viết văn bản quảng cáo. - Luyện tập. 1.2. Phương pháp dạy học Các phương pháp giáo viên thường sử dụng trong các tiết dạy này là: Làm việc với sách giáo khoa: - Ưu điểm: học sinh làm việc một cách độc lập, tích cực, tạo không khí sôi nổi trong học tập và phát huy năng lực tư duy của học sinh. - Nhược điểm: Kiến thức trong SGK chỉ hạn chế trong lượng kiến thức của môn học, chưa đề cập được hết tất cả các kiến thức, tình huống mà HS sẽ gặp trong cuộc sống. Phương pháp đàm thoại (vấn đáp): - Phương pháp đàm thoại (vấn đáp) là phương pháp giáo viên đặt ra những câu hỏi để học sinh trả lời nhằm gợi mở cho học sinh sáng tỏ những vấn đề mới; tự khai phá những tri thức mới bằng sự tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích lũy được trong cuộc sống, nhằm giúp học sinh củng cố, mở rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hóa những tri thức đã tiếp thu được và nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá và giúp học sinh tự kiểm tra việc lĩnh hội tri thức. Phương pháp thuyết trình nêu vấn đề: - Là phương pháp để trình bày, giải thích nội dung bài học một cách chi tiết, dễ hiểu cho học sinh tiếp thu. Đối với học sinh qua nghe giảng giải nhanh chóng hiểu được vấn đề và học được phương pháp trình bày vấn đề học tập một cách có hệ thống. Giáo viên thường sử dụng phương pháp này khi tiến hành nội dung các kiến thức cần nhớ trong bài học, thể hiện mối liên hệ kiến thức trong một phần hoặc toàn bộ chương trình. - Tuy nhiên, đây là phương pháp độc thoại, học sinh dễ rơi vào tình trạng thụ động, phải cố gắng nghe để hiểu, ghi nhớ và không có cơ hội trình bày ý kiến riêng của mình dẫn đến thói quen thụ động chờ đợi ý kiến giải thích của giáo viên. Tiết học thường buồn tẻ, thiếu hứng thú nếu sử dụng phương pháp này quá nhiều. 1.3. Ưu điểm và hạn chế của giải pháp cũ Việc đưa các nội dung này vào chương trình và sắp xếp như vậy có những ưu điểm và hạn chế nhất định: - Về ưu điểm: + Việc đưa các nội dung này vào chương trình giúp học sinh được tiếp cận với kiến thức và kỹ năng mang tính thực tiễn cao, là những vấn đề các em vẫn gặp trong đời sống hàng ngày, là những kỹ năng mà một con người trong xã hội hiện đại cần trang bị cho mình. Học sinh hiện nay rất cần biết trình bày một vấn đề trước đám đông, tự tin và bản lĩnh thể hiện suy nghĩ, quan điểm của bản thân trước các vấn đề của thực tiễn xã hội. Các em cũng rất cần học tập việc lập kế hoạch cho cuộc sống của mình ở các giai đoạn ngắn hạn cũng như dài hạn sau này. Về quảng cáo, các em vẫn hàng ngày xem, nghe đọc trên rất nhiều phương tiện thông tin, từ đài truyền hình, đài phát thanh, báo viết cho đến trên các báo điện tử, các trang mạng xã hội. Vì vậy, rất cần cung cấp cho các em kiến thức nền tảng về quảng cáo, đặc biệt là những nguyên tắc căn bản của một văn bản, một sản phẩm quảng cáo. + Các tiết học trong chương trình bao gồm những nội dung kiến thức rất cô đọng, mạch lạc, dễ tiếp nhận, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh lớp 10 THPT. Việc tiến hành theo các phương pháp cũ như làm việc với SGK, thuyết trình, đàm thoại giúp học sinh tiếp nhận kiến thức một cách bài bản, rõ ràng, có hệ thống. Từ kiến thức thu nhận được trong các tiết học trên lớp, các em có thể suy ngẫm, liên hệ với thực tiễn để mở rộng hiểu biết của bản thân. - Về hạn chế: + Thứ nhất, các tiết học này tách rời nhau trong chương trình, không tạo nên sự kết nối liền mạch. Khi tiến hành dạy theo đúng phân phối chương trình và phương pháp dạy cũ, học sinh sẽ không cảm nhận được các nội dung này thực tế có mối liên hệ rất gần nhau, có thể bổ sung, kết hợp với nhau. + Thời lượng dành cho các tiết học này rất hạn chế. Thực tế cả ba tiết học đều là những kỹ năng quan trọng, có ý nghĩa lớn với con người hiện đại. Cũng không thể dễ dàng và nhanh chóng rèn luyện những kỹ năng này một cách nhuần nhuyễn trong thời gian ngắn. Thời lượng như vậy thực tế chỉ đủ để dạy lý thuyết cơ bản, không có thời gian để học sinh thực hành, rèn luyện kỹ năng thực sự. Như vậy thì việc đổi mới chỉ dừng lại ở việc điểm qua các nội dung cơ bản, học sinh chưa thể áp dụng vào đời sống thực tế của mình. Trong khi đó, một con người thành đạt trong xã hội hiện đại không thể không biết trình bày, thuyết trình một vấn đề nào đó trước đám đông, lên kế hoạch cho các công việc và cuộc đời của mình, không biết tìm tòi cách thức để quảng bá cho sản phẩm mình tạo ra hay một ý tưởng nào đó của cuộc sống,… + Các tiết học này không có thời gian dành cho hoạt động thực hành, trải nghiệm cuộc sống đúng nghĩa. Việc thực hành mới được bố trí cuối mỗi tiết học với thời gian ngắn ngủi khó tránh được thực tế là thực hành còn mang nặng tính hình thức, chưa chú trọng việc học sinh có cơ hội trải nghiệm thực sự, có thể sáng tạo ra sản phẩm có chất lượng với mỗi bài học. 2. Giải pháp mới cải tiến Trên cơ sở phân tích những ưu điểm và hạn chế của giải pháp cũ thường làm, tôi đã nghiên cứu và tiến hành phương pháp dạy học mới với ba tiết học trên. Về cơ bản, giải pháp mới cải tiến như sau: 2.1. Tích hợp các tiết học thành một chủ đề dạy học 2.1.1. Vài nét khái quát về dạy học theo chủ đề tích hợp: - Khái niệm dạy học theo chủ đề tích hợp: + Tích hợp là một hoạt động mà ở đó cần phải kết hợp, liên hệ, huy động các yếu tố có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết một vấn đề, qua đó đạt được nhiều mục tiêu khác nhau. + Dạy học tích hợp: là định hướng dạy học trong đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn để học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kỹ năng,… thuộc nhiều lĩnh vực (môn học/HĐGD) khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập; thông qua đó hình thành những kiến thức, kỹ năng mới; phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và thực tiễn cuộc sống. + Tích hợp liên môn: là hình thức tích hợp trong đó nội dung học tập được thiết kế thành một chuỗi vấn đề, tình huống đòi hỏi muốn giải quyết phải huy động kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học khác nhau để nghiên cứu và giải quyết tình huống. Dạy học tích hợp liên môn là hình thức dạy học tích hợp ở mức độ cao: ở mức độ này đòi hỏi phải xử lí các nội dung kiến thức trong mối liên quan với nhau, bảo đảm cho HS vận dụng được tổng hợp các kiến thức đó một cách hợp lý để giải quyết các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống. Chủ đề tích hợp liên môn là những chủ đề có nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học, thể hiện ở sự ứng dụng của chúng trong cùng một hiện tượng, quá trình trong tự nhiên hay xã hội. - Mục tiêu của dạy học tích hợp: + Hình thành và phát triển năng lực học sinh, nhất là năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn. + Tạo mối quan hệ giữa các môn học với nhau và với kiến thức thực tiễn. + Tránh sự trùng lặp về nội dung giữa các môn học khác nhau. 2.1.2. Xây dựng chủ đề “Học sinh với di sản văn hóa địa phương” * Cách xây dựng chủ đề: Toàn bộ ba tiết học: Trình bày một vấn đề, Lập kế hoạch cá nhân, Viết quảng cáo được tập hợp lại và thống nhất thành một chủ đề chung. - Về thời lượng, chủ đề vẫn gồm ba tiết học. Trong đó thời gian dành để tìm hiểu lý thuyết là một tiết. Thời gian để thực hành là hai tiết cộng với thời gian học sinh làm việc ngoài giờ học. - Về nội dung chủ đề: Giáo viên và học sinh bàn bạc để thống nhất lựa chọn một chủ đề chung có thể kết nối ba tiết học. Đó là nội dung: Học sinh với di sản văn hóa địa phương. Với chủ đề này, học sinh có thể rèn luyện các kỹ năng như trình bày ý kiến của cá nhân về vấn đề bảo vệ di sản văn hóa của địa phương, có thể sáng tạo các sản phẩm quảng cáo để quảng bá về các di sản văn hóa địa phương. Trong quá trình thực hiện học sinh rèn luyện kỹ năng lập kế hoạch cá nhân. * Hiệu quả của việc dạy học theo chủ đề: Như vậy, việc xây dựng các tiết học rời rạc thành một chủ đề thống nhất đã đáp ứng được nhiều yêu cầu: - Tạo sự kết nối liền mạch và logic giữa các tiết học. Trong một chủ đề chung, học sinh đồng thời rèn luyện tất cả các kỹ năng cần thiết với yêu cầu của chủ đề. - Giảm nhẹ thời gian học lý thuyết xuống còn một tiết học. Thời lượng của chủ đề chủ yếu dành cho việc thực hành. Điều này phù hợp với thực tiễn dạy học hiện nay, bởi lẽ học sinh không phải chỉ cần học thuộc lý thuyết, điều các em cần là thực hành, áp dụng được những lý thuyết đó vào thực tiễn đời sống. - Gắn lý thuyết với thực tiễn đời sống của học sinh: các nội dung Trình bày một vấn đề, Lập kế hoạch cá nhân và Viết quảng cáo rất cần có một nội dung chung để tạo sự liên kết giữa các tiết học này. Do vậy, tôi hướng học sinh đến vấn đề về di sản văn hóa địa phương. Đây là vấn đề khá gần gũi với học sinh, có hệ thống tư liệu phong phú, cũng là vấn đề khá thuận lợi với điều kiện mọi mặt của học sinh. Để thực hiện nội dung này, học sinh cần về địa phương của mình, tìm hiểu thực tế, trên cơ sở đó có chất liệu để trình bày quan điểm cá nhân cũng như làm các sản phẩm quảng bá di sản văn hóa địa phương. - Tổng hợp kiến thức, kỹ năng của nhiều môn, nhiều lĩnh vực: để hoàn thành chủ đề này, học sinh cần tìm hiểu kiến thức của nhiều môn. Với môn Ngữ văn, học sinh cần nắm vững cách trình bày một vấn đề, cách viết kịch bản, lời thoại quảng cáo… Ngoài ra học sinh cần có hiểu biết về địa lý, lịch sử địa phương, các kiến thức về văn hóa, các kỹ năng làm nghề thủ công… Để sản phẩm của nhóm thuyết phục hơn, các em còn cần tìm hiểu, vận dụng kiến thức của các bộ môn KHTN như Hóa học để góp ý, tuyên truyền cho người dân nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra những sản phẩm thủ công bền, đẹp về mẫu mã, hình thức, đảm bảo an toàn cho sức khỏe của người tiêu dùng và tăng giá trị của sản phẩm đang được quảng cáo… 2.2. Dạy học theo chủ đề gắn với hoạt động trải nghiệm sáng tạo 2.2.1. Vài nét khái quát về hoạt động trải nghiệm sáng tạo - Khái niệm hoạt động trải nghiệm sáng tạo: + Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của gia đình, nhà trường, cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động. Qua đó, mỗi học sinh phát huy năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. + Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động mang xã hội, thực tiễn đến với môi trường giáo dục trong nhà trường để học sinh tự chủ trải nghiệm trong tập thể, qua đó hình thành và thể hiện được phẩm chất, năng lực; nhận ra năng khiếu, sở thích, đam mê; bộc lộ và điều chỉnh cá tính, giá trị; nhận ra chính mình cũng như khuynh hướng phát triển bản thân; bổ trợ và cùng với các hoạt động dạy học trong chương trình giáo dục thực hiện tốt nhất mục tiêu giáo dục + Hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhấn mạnh đến sự trải nghiệm, thúc đẩy năng lực sáng tạo của người học và được tổ chức một cách linh hoạt, sáng tạo: từ nội dung, hình thức, quy mô, địa điểm, lực lượng phối hợp... Khoa học đã chứng minh tham gia hoạt động trải nghiệm sáng tạo sẽ giúp cho học sinh có được kết quả học tập tốt hơn. - Đặc điểm của hoạt động trải nghiệm sáng tạo: + Trải nghiệm và sáng tạo là dấu hiệu cơ bản của hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Trong đó hai quá trình trải nghiệm và sáng tạo không tách rời nhau, trải nghiệm là nền tảng cho sự sáng tạo. Và ngược lại, sự sáng tạo khẳng định hiệu quả của hoạt động trải nghiệm. + Nội dung: nội dung của hoạt động trải nghiệm sáng tạo mang tính tích hợp và phân hóa cao, tổng hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giá trị sống, giáo dục nghệ thuật, thẩm mĩ, giáo dục thể chất, an toàn giao thông, giáo dục môi trường… + Hình thức: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng như: Hoạt động tự chủ: Nhà trường tổ chức các hoạt động tự chủ lấy học sinh làm trung tâm, để học sinh tham gia một cách năng động vào các hoạt động đó. Các hình thức cụ thể bao gồm: hoạt động thích nghi, hoạt động tự trị, tổ chức sự kiện, các hoạt động sáng tạo… Hoạt động câu lạc bộ: Học sinh sẽ chủ động tham gia vào các hoạt động nhóm cùng sở thích, xây dựng và hình thành thái độ làm việc tập thể, qua đó phát triển sở thích cũng như những kĩ năng của bản thân. Có nhiều hình thức thể hiện như: hoạt động học thuật, hoạt động văn hóa nghệ thuật, hoạt động thể thao, hoạt động thực tập, hoạt động đoàn và thanh thiếu niên… Hoạt động hướng nghiệp: thông qua các hoạt động phát triển bản thân phù hợp với sở thích và hứng thú, khả năng và cá tính của học sinh để tra cứu và xây dựng định hướng nghề nghiệp tương lai. Hoạt động này bao gồm: hoạt động giúp hiểu rõ bản thân, hoạt động tìm hiểu thông tin hướng nghiệp, hoạt động kế hoạch hướng nghiệp và hoạt động thể nghiệm trực tiếp nghề nghiệp. Hoạt động tình nguyện: học sinh thực hiện các hoạt động chia sẻ và giúp đỡ cộng đồng và những người xung quanh và tham gia bảo vệ môi trường. Hoạt động này bao gồm: hoạt động tình nguyện trong trường, hoạt động tình nguyện tại khu vực, hoạt động bảo vệ môi trường, các hoạt động chiến dịch + Sự phối hợp của các lực lượng giáo dục: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo đòi hỏi sự phối hợp, liên kết nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo có khả năng thu hút sự tham gia, phối hợp, liên kết nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường như: giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên bộ môn, cán bộ Đoàn, Ban Giám hiệu nhà trường, cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương các Hội, tổ chức, doanh nghiệp, các nghệ nhân… Tùy nội dung và tính chất từng hoạt động mà sự tham gia của các lực lượng có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp; có thể là chủ trì hoặc phối hợp, có thể là những mặt khác nhau: kinh phí, phương tiện, địa điểm tổ chức, đóng góp về chuyên môn, trí tuệ, chất xám hay ủng hộ tinh thần. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo tạo điều kiện cho học sinh được học tập và giao tiếp với nhiều lực lượng giáo dục; được lĩnh hội các nội dung giáo dục qua nhiều kênh khác nhau. Điều đó làm tăng tính đa dạng, hấp dẫn và chất lượng, hiệu quả của hoạt động. 2.2.2. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo với chủ đề “Học sinh với di sản văn hóa địa phương”. * Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo: Ngoài việc xây dựng nội dung thành một chủ đề dạy học thống nhất, tôi đã hướng dẫn và tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh. Chủ đề dạy học này không thể tách rời hoạt động trải nghiệm. Về cơ bản, hoạt động trải nghiệm trong chủ đề này được xác định như sau: - Thời gian tổ chức hoạt động trải nghiệm: tiết 2 của chủ đề và thời gian ngoài giờ lên lớp. - Cách tổ chức hoạt động trải nghiệm: giáo viên phân công lớp thành 6 nhóm (hoặc học sinh tự đăng ký vào các nhóm theo sở thích, mối quan tâm). Các nhóm thống nhất nội dung, thời gian tổ chức hoạt động trải nghiệm, kế hoạch trải nghiệm, nhiệm vụ của mỗi thành viên, thời hạn hoàn thành nhiệm vụ cá nhân và sản phẩm chung của nhóm. * Ý nghĩa của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo: - Hoạt động trải nghiệm sáng tạo thực sự là cầu nối nhà trường, kiến thức môn học với thực tiễn một cách có tổ chức, có định hướng, góp phần tích cực vào việc hình thành, phát triển năng lực học sinh. Về kiến thức, nội dung của các bài học được học sinh tiếp nhận một cách chủ động, tích cực. Các em không chỉ học trong lớp mà chủ động tìm hiểu trước khi giờ học bắt đầu. Khi trải nghiệm thực tế, các em cũng luôn luôn phải nhìn lại để nắm vững và vận dụng lý thuyết để tạo ra sản phẩm chất lượng. - Trong quá trình tham gia hoạt động trải nghiệm, học sinh được rèn luyện rất nhiều kỹ năng: làm việc nhóm, xây dựng kế hoạch, giao tiếp, thuyết trình… Các nhóm phải tự bàn bạc, thống nhất, xây dựng kế hoạch trải nghiệm, phân công nhiệm vụ cho các thành viên, lên kế hoạch cá nhân, luyện tập để thuyết trình,… Học sinh có cơ hội để rèn luyện kỹ năng sử dụng CNTT, tìm kiếm và sử dụng các phần mềm tin học một cách thành thạo, hiệu quả, biết xử lý ảnh, sắp xếp theo chủ đề phù hợp với triển lãm, cắt ghép video, ghép nhạc, ghi âm, lồng tiếng một cách khá chuyên nghiệp. Hơn thế học sinh còn có cơ hội trở thành người mẫu trình diễn sản phẩm thủ công mỹ nghệ của quê hương mình, quảng bá các sản phẩm đó đến bạn bè khắp nơi,… Để có thể hoàn thiện sản phẩm trải nghiệm thành công, học sinh còn cần tự đi liên hệ, xin phép cá nhân, tổ chức có liên quan để được tiếp cận các thông tin cần thiết, liên hệ để mượn sản phẩm cho nhiệm vụ của nhóm,… - Về không gian học tập: Với hoạt động trải nghiệm, học sinh không còn học trong lớp học mà học trong thực tế cuộc sống, không thụ động tiếp thu tri thức mà tự tìm hiểu lý thuyết cũng như thực tế đời sống. Không gian học tập được mở rộng thực sự rất có ý nghĩa với học sinh, giúp các em được cảm nhận, đắm mình trong không gian văn hóa của quê hương mình. 2.3. Tiến trình dạy học: Chủ đề dạy học: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO VỚI CHỦ ĐỀ DẠY HỌC HỌC SINH VỚI DI SẢN VĂN HÓA ĐỊA PHƯƠNG ĐỂ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH, VIẾT QUẢNG CÁO, LẬP KẾ HOẠCH CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT I. MỤC TIÊU DẠY HỌC 1. Về kiến thức Học sinh nắm được kiến thức trọng tâm: + Trình bày một vấn đề: Tìm hiểu tầm quan trọng của việc trình bày một vấn đề. Công việc chuẩn bị để trình bày một vấn đề. Cách thức trình bày một vấn đề (Mở đầu, trình bày nội dung chính, kết thúc và cảm ơn. + Lập kế hoạch cá nhân: Sự cần thiết của việc lập kế hoạch cá nhân. Cách lập kế hoạch cá nhân. + Viết quảng cáo: Vai trò và yêu cầu chung của văn bản quảng cáo. Cách viết văn bản quảng cáo. 2. Về kĩ năng - Rèn luyện kĩ năng thuyết trình một vấn đề, kỹ năng lập kế hoạch chung cho nhóm và kế hoạch của cá nhân, viết, sản xuất một sản phẩm quảng cáo. - Kĩ năng thu thập thông tin, phân tích, so sánh, đánh giá, xâu chuỗi các nội dung có liên quan đến vấn đề di sản văn hóa địa phương. - Kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan