Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn thiết kế và sử dụng thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành và ...

Tài liệu Skkn thiết kế và sử dụng thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành và phát triển tư duy của học sinh

.DOC
49
118
50

Mô tả:

Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh MỤC LỤC Lời nói đầu:........................................................................................................Trang PHẦN I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG TRONG THỰC HÀNH HÓA HỌC......... Bài 1: PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC VÀ CÁCH TIẾN HÀNH THÍ NGHIỆM..... Bài 2: DỤNG CỤ PHÒNG THÍ NGHIỆM VÀ THAO TÁC SỬ DỤNG............... PHẦN II: PHẦN THỰC HÀNH............................................................................. I- HỌC SINH XEM THÍ NGHIỆM BẰNG VIDEO............................................. II- HỌC SINH LÀM THÍ NGHIỆM....................................................................... Bài thực hành số 1....................................................................................... Bài thực hành số 2....................................................................................... Bài thực hành số 3....................................................................................... PHẦN III: CÁC BÀI TẬP ĐỀ NGHI...................................................................... KẾT LUẬN................................................................................................................ GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 1 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh MỞ ĐẦU Trong tình hình hiện nay của đất nước, nói đến việc phát huy nguồn lực con người thì trước hết, nền tảng phải là sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo vững chắc. Tất cả chúng ta đang cùng hướng tới xây dựng một nền giáo dục toàn diện, đổi mới, hiệu quả, không tiêu cực, không bệnh thành tích. Vậy thì, vấn đề cần được chú ý đầu tư là việc dạy và học trong trường học. Việc đổi mới phương pháp dạy, đổi mới phương pháp học, đặc biệt là ở trường phổ thông thực ra đã được nói đến và đã thực hiện. Tuy nhiên với tình hình phát triển khoa học – kỹ thuật như vũ bão của thế giới thì sự nghiệp Giáo dục vẫn luôn là vấn đề cấp bách, là quốc sách hàng đầu, cần được chú trọng thực hiện mỗi ngày mỗi giờ. Khi chương trình sách giáo khoa mới được đưa vào giảng dạy, nhiều giáo viên và học sinh vẫn còn bỡ ngỡ, chưa định hướng được một phương pháp dạy và học thích hợp cũng là điều tất yếu. Chất lượng giáo dục sẽ đạt hiệu quả cao, nếu người giáo viên biết vận dụng và kết hợp tối ưu các phương pháp dạy học. Đối với bộ môn hóa học, người giáo viên muốn giảng dạy tốt, học sinh muốn tiếp thu, vận dụng kiến thức một cách tích cực, thì trước hết là phải nắm vững các kiến thức cơ bản của hóa học. Trong chương trình hóa học phổ thông thì việc sử dụng thí nghiệm để học sinh nghiên cứu kiến thức mới và củng cố kiến thức cũ, thông qua quá trình dạy học là vấn đề rất cần thiết và được nhiều người quan tâm. Việc giao cho học sinh nhiệm vụ thiết kế, chế tạo, tìm kiếm và thực hiện một số thí nghiệm hóa học đơn giản có tác dụng nhiều mặt như: Góp phần củng cố kiến thức, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, phát huy khả năng làm việc độc lập, sáng tạo, gây hứng thú học tập. Khi nghiên cứu về hóa học, người ta nghiên cứu chất, tính chất của chất, sự biến đổi từ chất này thành chất khác, chung quy lại chính là để nghiên cứu hiện tượng và giải thích các hiện tượng liên quan thông qua phản ứng hóa học. Muốn nắm vững lý thuyết về hóa học và rèn luyện kỹ năng, khả năng vận dụng kiến thức lý thuyết thì cần phải nắm vững, đào sâu các kiến thức về cả lý thuyết và thực hành. Có thể bằng nhiều cách khác nhau để hình thành và phát triển kiến thức và tư duy cho học sinh, nhưng đối với hóa học, thông qua việc làm các thí nghiệm thực hành, giải thích bản chất các hiện tượng của thí nghiệm hóa học sẽ là một trong những phương pháp tích cực để giúp học sinh lĩnh hội tri thức một cách chủ động, hứng thú. Qua thực tế Giáo dục và kinh nghiệm giảng dạy của bản thân tôi đưa ra chuyên đề “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH HÓA HỌC TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA HỌC SINH” với mong muốn góp phần mang lại một số hiệu quả trong đổi mới phương pháp dạy học hóa học ở trường phổ thông. Trong phạm vi đề tài này tôi chỉ đưa ra và nghiên cứu Chương trình hóa học ở lớp 12 bậc trung học phổ thông. Nội dung của đề tài được trình bày thành 3 phần: - Một số vấn đề chung trong thực hành hóa học. - Phần thực hành. GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 2 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh - Bài tập đề nghị. Trong quá trình thực hiện, chuyên đề sẽ không tránh khỏi sự sai sót. Mong Quý Thầy Cô, các bạn đồng nghiệp tận tình góp ý và giúp đỡ để tôi hoàn thành tốt chuyên đề này. Chân thành cảm ơn. GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 3 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh PHẦN I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG TRONG THỰC HÀNH HÓA HỌC Bài 1: PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC VÀ CÁCH TIẾN HÀNH THÍ NGHIỆM I. Phương pháp tổ chức Các thí nghiệm được tổ chức theo bài, mỗi bài có từ 4-5 đơn vị thí nghiệm hoặc nhiều hơn tùy thuộc vào nội dung bài học mà giáo viên cần truyền tải sao cho phù hợp với thời gian, dung lượng của tiết học. Mỗi bài thí nghiệm được chia thành nhóm, mỗi nhóm có từ 6- 10 học sinh. Trong một lần làm thí nghiệm, 1 nhóm học sinh phải hoàn thành một bài thí nghiệm được phân công kể cả trong phòng thí nghiệm hay làm thí nghiệm tại lớp học. II. Tiến hành thí nghiệm 1- Chuẩn bị ở nhà Khi làm một bài thí nghiệm, học sinh phải chuẩn bị trước ở nhà, đọc các vấn đề lý thuyết liên quan tới bài thực hành trong sách giáo khoa hay sách hướng dẫn thực hành, tìm hiểu về tính chất của các chất ban đầu và sản phẩm cũng như tính độc và cách đề phòng, tìm hiểu các điều kiện phản ứng, các dụng cụ cho bài thực hành. Trên cơ sở đó làm đề cương cho bài thực hành để sau khi làm xong thí nghiệm, bổ sung thêm thành bài tường trình nộp cho giáo viên. Chuẩn bị kỹ phần lý thuyết và phương pháp tiến hành bài thí nghiệm được phân công, các dụng cụ ghi hình. Thí nghiệm học tập và nghiên cứu đều phải bố trí một cách khoa học có định hướng, không được làm mò mẫm, trước khi làm thí nghiệm các em trong nhóm phải bàn bạc kỹ để nhất trí bố trí thời gian, số người làm thí nghiệm và số người ghi hình ảnh tránh các động tác thừa và thời gian chết. Bản thân mỗi em phải hiểu biết thật kỹ mục đích, nguyên tắc, phương pháp thí nghiệm, phải dự kiến được các hiện tượng xảy ra và giải thích nó, viết phương trình phản ứng và kết luận các vấn đề đã khảo sát. Phải nhớ và tuân thủ một nguyên tắc: không chuẩn bị đầy đủ, không hiểu nội dung thí nghiệm không được làm thí nghiệm. 2- Trong phòng thí nghiệm - Mọi học sinh phải trau dồi một tác phong cẩn thận tỉ mỉ trong thao tác thí nghiệm. - Khi làm thí nghiệm phải chú ý quan sát, ghi chép các hiện tượng xảy ra, ghi lại bằng hình ảnh và các số liệu cần thiết khác để tiện cho việc tính toán khi cần. - Khi làm thí nghiệm các nhóm học sinh phải chịu trách nhiệm về tất cả các thiết bị, dụng cụ trên bàn do nhóm mình phụ trách. Mỗi học sinh phải làm việc ở một GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 4 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh chỗ quy định. Khi muốn sử dụng các dụng cụ hoặc hóa chất khác phải hỏi giáo viên phụ trách phòng thí nghiệm hoặc giáo viên hướng dẫn. Làm bài thí nghiệm đã được giáo viên thông qua và dưới sự giám sát của giáo viên. Không được làm thí nghiệm một mình trong phòng thí nghiệm. Cấm người ngoài đến thăm học sinh trong phòng thí nghiệm. Cấm ăn uống, hút thuốc trong phòng thí nghiệm. - Mọi học sinh đều phải tuân thủ nội quy do phòng thí nghiệm đề ra. Phải giữ trật tự, im lặng; phải có tính nghiêm túc, chính xác, trung thực và khoa học; phải tuân theo các quy tắc bảo hiểm và giữ chỗ làm việc gọn gàng, sạch sẽ. Cấm vứt giấy lọc, các chất rắn, axit, kiềm, chất dễ cháy, chất dễ bay hơi vào bể nước rửa mà phải đổ vào chỗ quy định của phòng thí nghiệm. Dung môi bẩn phải đổ vào bình chứa dung môi bần để tinh chế lại. Khi thao tác phải hết sức cẩn thận tránh gây đổ vở hoặc các tai nạn đáng tiếc. Nếu có sự cố: đổ vỡ, hỏa hoạn, tai nạn cho người làm thí nghiệm thì phải kịp thời báo ngay cho giáo viên phụ trách phòng thí nghiệm hoặc giáo viên hướng dẫn và bình tĩnh xử lí mọi tình huống sự cố theo sự chỉ đạo chung. Thiếu trách nhiệm và thiếu trung thực trong phòng thí nghiệm là điều không thể chấp nhận được. - Các nhóm học sinh chỉ làm những thí nghiệm ở bàn đã được phân công. Không được làm thí nghiệm với dụng cụ bẩn. Không được tự tiện mang dụng cụ hóa chất ra khỏi phòng thí nghiệm. Không được sử dụng dụng cụ máy móc không thuộc phạm vi bài thí nghiệm cũng như khi chưa hiểu tính năng và cách sử dụng. Khi làm thí nghiệm phải mặc áo choàng, phải có khăn mặt và khăn lau bàn ở chỗ làm việc. Không được di chuyển dụng cụ và hóa chất trên bàn sang chổ khác. Không được làm các thí nghiệm mà chưa được phép của giáo viên hướng dẫn. - Tất cả các dụng cụ trước khi dùng phải lau rửa sạch, tráng lại bằng nước cất. Sau khi sử dụng cũng phải tráng rửa sạch sẽ và để vào chổ cũ. - Các lọ hóa chất phải luôn luôn đậy nút kín. Không được cắm ống hút (pipet, ống nhỏ giọt) từ lọ hóa chất này sang ọ hóa chất khác. - Các em cần lưu ý là khi tiến hành các bài tổng hợp cần lấy lượng hóa chất chính xác theo bài hướng dẫn. Với các thí nghiệm thử tính chất được tiến hành theo phương pháp lượng nhỏ, vì vậy lượng dung dịch cần sử dụng lấy vào ống nghiệm không bao giờ quá 1/3 ống. - Các dụng cụ thí nghiệm, hóa chất phải được để gọn gàng, ngăn nắp, các dụng cụ dùng chung cho cả bàn như bình chưng cất, bình nón (bình tam giác), chổi rửa ống nghiệm…phải để một chổ nhất định gần vòi nước hoặc đầu bàn. - Khi làm việc với các hóa chất độc hại, dễ cháy nổ phải tuân thủ đúng theo nguyên tắc an toàn dưới sự quy định và hướng dẫn của giáo viên phụ trách. - Sau khi làm thí nghiệm xong các nhóm học sinh phải rửa sạch dụng cụ thí nghiệm, vệ sinh bàn thí nghiệm và khu vực mà nhóm mình phụ trách, sắp xếp gọn gàng, tắt điện, nước và báo cáo giáo viên phụ trách trước khi ra về 3- Báo cáo thí nghiệm GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 5 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh Sau khi làm thí nghiệm các em phải làm báo cáo hoàn chỉnh theo mẫu dưới đây nộp lại cho giáo viên phụ trách ( có thể từ các số liệu thu thập được, xử lí kết quả theo yêu cầu, xử lí các hình ảnh nếu cần). Họ và tên …………………. Lớp ………………. Nhóm Bài thí nghiệm số…………. Tên bài thí nghiệm…………………………… Tên TN Dụng cụ và hóa chất Cách tiến hành thí nghiệm Giải thích hiện tượng và phương trình phản ứng TN1 TN2 TN3 ….. Nếu thí nghiệm không đạt phải báo cáo rõ và giải thích nguyên nhân. Không được chỉnh sửa số liệu và kết quả thí nghiệm. Thiếu trung thực trong nghiên cứu khoa học là điều không thể chấp nhận được đối với một người nghiên cứu khoa học. III. Một số vấn đề cần lưu ý và cách xử lý tai nạn khi làm thí nghiệm 1- Một hóa chất dễ cháy nổ, độc hại nguy hiểm: Đại đa số các hợp chất hữu cơ đều độc. Khi tiếp xúc với hóa chất, cần phải biết đầy đủ tính độc, khả năng dễ nổ và dễ cháy của nó cũng như các quy tắc chống độc, chống cháy và chống nổ. - Khi làm việc với các hóa chất độc như KCN, NaCN, HCN, dimetylsulfat, dimetylamin, Cl2, SO2, NO, NO2, H2S, N2O4, cloranhidrit của các axit đơn giản, cũng như khi tiến hành những phản ứng có tách ra khí độc đều phải đeo mặt nạ hay kính bảo hiểm, phải làm trong tủ hốt, phải có sự hướng dẫn của giáo viên hay nhân viên phòng thí nghiệm. - Các kim loại kiềm được giữ trong bình dầu hỏa đậy bằng nút bấc. Phải dùng cặp lấy kim loại ra ( không dùng tay), lau khô bằng giấy lọc, tránh cho kim loại tiếp xúc với nước hay CCl4. Phải hủy Na hay K sau phản ứng bằng một lượng nhỏ ancolbutylic hay amylic. - Thủy ngân được giữ trong bình nút kín, đặt các thiết bị có chứa thủy ngân trong khay men hay nhựa, thu hồi thủy ngân rơi vãi bằng bản hỗn hống đồng hay dùng mao quản qua bình nối với bơm hút dòng nước. - Brom được giữ trong bình dày có nút nhám, lấy brom trong tủ hốt, đeo kính bảo hiểm và găng tay, mỗi lần lấy brom cho vào bình phản ứng qua phễu nhỏ giọt đã được thử trước độ kín và không được quá 10 ml. - Khi làm việc với acid H2SO4 đặc, oleum, phải rót cẩn thận qua phễu và làm trong tủ hốt, pha loãng acid trong bình chịu nhiệt bằng cách rót từng phần acid vào nước khi khuấy, không pha loãng oleum, không dùng H2SO4 đặc trong bình làm khô chân không. GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 6 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh - Khi làm việc với các chất dễ cháy như benzen, ete, aceton, etylaxetat, CS2, ete dầu hỏa, phải để xa ngọn lửa, đun nóng hay chưng cất bằng bếp cách thủy, cách dầu hay cách cát hoặc bếp điện bọc. - Ete được giữ trong bình nút chặt có mao quản hay ống CaCl2. Không chưng cất ete etylic,tetrahydrofuran, dioxan khi chưa loại peoxit. Tất cả các hóa chất ở chỗ làm việc phải chứa trong lọ có nhãn rõ ràng và có phủ màng parafin. Không làm thí nghiệm với hóa chất không có nhãn rõ ràng. - Các phản ứng dễ nguy hiểm: Na, K với nước, bột nhôm với dung dịch amoni persunphat, oxyt crom( CrO3) với S, Glixerol, Oxi với dầu mỡ, đốt cháy các polime 2- Cách sơ cứu thông thường khi bị tai nạn trong khi làm thí nghiệm a- Xử lý bỏng: - Bỏng nhiệt: Bỏng do lửa và chạm phải các vật nóng: Lấy bông gòn tẩm dung dịch NaHCO3 loãng hoặc ancol hoặc dung dịch KMnO4 bôi nhẹ vào chỗ bị bỏng rồi dùng thuốc mỡ chứa ZnO hoặc vaselin hoặc glicerol hay sunfidin bôi lên. - Bỏng axit: rửa ngay bằng một lượng lớn nước lạnh rồi lấy bông gòn tẩm dung dịch NaHCO3 loãng bôi. Nếu bỏng nhiều thì phải bôi thuốc sát trùng ( mỡ kháng sinh) và đi ngay đến ý tế để kịp xử lí. - Bỏng bazơ: rửa ngay bằng một lượng lớn nước lạnh rồi rửa bằng dung dịch CH3COOH 1%. Nếu bỏng nhiều thì phải bôi thuốc sát trùng và đi ngay đến ý tế để kịp xử lí. - Bỏng Br2: lấy bông tẩm dầu, mỡ, bôi sạch hết Br 2, sau đó xoa glicerol hoặc : Rửa nhiều lần bằng ancol etylic rồi bằng dung dịch Na2S2O3 10%, sau đó bôi vazơlin vào chỗ bỏng. - Bỏng Na: nếu bị mảnh Na bắn vào cơ thể phải lấy ngay ra và rửa bằng nước lạnh và cuối cùng bôi dung dịch CH3COOH 1%. - Khi bị bỏng phenol: Rửa nhiều lần bằng glicerol cho tới khi màu da trở lại bình thường rồi bằng nước, sau đó băng vết thương bằng bông tẩm glicerol. - Khi rơi chất hữu cơ lên da: Trong đa số trường hợp rửa bằng nước không có tác dụng thì rửa bằng dung môi hữu cơ (ancol etylic ) nhưng cần rửa nhanh và bằng một lượng lớn dung môi, tránh tạo thành dung dịch đặc chất hữu cơ trên da. - Khi thở phải khí clo hay brom: Ngửi bằng dung dịch amoniac loãng hay ancol etylic rồi đi ra chỗ thóang. - Khi bị đầu độc bởi hóa chất: Uống một lượng tương đối nhiều nước sau đó nếu bị đầu độc bởi acid thì uống một cốc NaHCO3 2%, nếu bởi kiềm thì uống một cốc acid acetic hay acid limonic 2%. - Khi bị thương bởi mảnh thủy tinh: Gắp hết mảnh thủy tinh ra khỏi vết thương, bôi cồn Iod 3% rồi băng vết thương lại. Nếu chảy máu nhiều thì cột garo rồi đưa đi bệnh xá. GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 7 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh b- Các hóa chất bắn vào mắt: - Nếu là axit phải rửa bằng dung dịch NaHCO3 1%. Nếu axit đặc trước tiên phải rửa bằng nước lạnh sau đó mới rửa bằng dung dịch NaHCO3 1%. - Nếu là baz: phải rửa bằng nước lạnh sau đó mới rửa bằng dung dịch HBO3 1%. c- Chữa cháy: - Tắt hết đèn hay bếp điện trần, phủ ngọn lửa bằng khăn hay chăn amiăng hoặc cát, nếu cần dùng bình khí CO2. - Nếu cháy các chất hữu cơ thì phải dùng cát. - Cháy do điện trước tiên phải cắt cầu dao rồi dùng cát hoặc bình chửa cháy bằng CO2. Trong mọi trường hợp nếu bị đầu độc nặng hay bị cháy lớn phải gọi y, bác sĩ hay cơ quan phòng chữa cháy. IV. Vai trò của thí nghiệm thực hành trong việc hình thành và phát triển tư duy của học sinh. 1. Vai trò của thí nghiệm hóa học: Hóa học là môn khoa học thực nghiệm, có thể nói thí nghiệm hóa học là cơ sở để học sinh học tập và rèn luyện kỹ năng thực hành. Do vậy thí nghiệm hóa học không thể thiếu trong hoạt động nhận thức, là phương tiện nhận thức, là nguồn tri thức, là phương tiện trực quan có hiện quả nhất giúp học sinh dễ hiểu hơn và tạo ấn tượng sâu sắc các hiện tượng hóa học xảy ra. Sử dụng thí nghiệm hóa học đơn giản trong thực hành củng như trong giảng dạy trên lớp học, mang nội dung gắn sát với thực tiễn đời sống hằng ngày và giải thích được hiện tượng xảy ra trong tự nhiên giúp cho học sinh nắm được kiến thức một cách hứng thú và sâu sắc. Bằng các vật liệu có sẵn, các hóa chất trong phòng thí nghiệm học sinh có thể thiết kế và thực hiện một số thí nghiệm hóa học đơn giản, các em dễ dàng quan sát được các hiện tượng phản ứng và ghi lại hình ảnh mà các em quan sát được bằng các dụng cụ như máy ảnh hoặc máy quay phim để làm tư liệu cho bản thân, đồng thời có tác dụng tốt đối với các hoạt động nhận thức, giúp cho các em hiểu rõ tính năng, tác dụng của các dụng cụ, nguyên tắc hoạt động của chúng và tự tin khi sử dụng đến các phương tiện hiện đại sau này. Thông qua thí nghiệm, từ thí nghiệm, giúp học sinh phát triển kỹ năng thực hành, năng lực sáng tạo trong việc tìm ra các giải pháp để cho các dụng cụ thí nghiệm hoạt có hiệu quả, gắn liền kiến thức hóa học với thực tiễn đời sống và với hoạt động sản xuất, tự rút ra kiến thức và đi đến hình thành khái niệm, kiến thức cho nên khái niệm, kiến thức được khắc sâu, đảm bảo dẫn học sinh tới sự khái quát đúng đắn và toàn diện, tránh sự suy luận sai lầm, lệch lạc. Cần có sự lựa chọn các thí nghiệm sao cho có tính khái quát và tính đại diện để hình thành khái niệm và kiến thức hóa học cho học sinh một cách khoa học và có độ chính xác cao. GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 8 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh Việc giáo viên tổ chức cho học sinh làm các thí nghiệm theo phương pháp nghiên cứu kiến thức mới sẽ làm cho học sinh hoạt động một cách tích cực. Để đạt hiệu quả cao khi tiến hành tổ chức học sinh làm thí nghiệm thì giáo viên cần hướng dẫn học sinh tiến hành các hoạt động như:  Nhận rõ vấn đề cần nghiên cứu, nhiệm vụ cần đạt được.  Tiến hành phân tích tính chất của các chất cần nghiên cứu.  Đề xuất các thí nghiệm để kiểm tra những dự đoán mà mình đưa ra.  Đề xuất cách tiến hành thí nghiệm.  Tiến hành làm thí nghiệm, quan sát hiện tượng và xác nhận tính đúng đắn của các giả thiết.  Kết luận. 2. Sử dụng thí nghiệm khi luyện tập, ôn tập: Sử dụng thí nghiệm trong các bài luyện tập, ôn tập có tác dụng tăng cường, rèn luyện kỹ năng làm thí nghiệm và kỹ năng vận dụng kiến thức hoá học vào thực tiễn. Học sinh biết vận dụng kiến thức để giải bài toán bằng lý thuyết rồi sau đó tiến hành thí nghiệm để kiểm nghiệm những phương án giải bằng lý thuyết sau đó đưa ra kết luận. Để sử dụng thí nghiệm thực nghiệm giáo viên cần hướng dẫn học sinh làm theo các bước sau:  Bước 1: Giải bài bằng lý thuyết: học sinh phân tích lý thuyết, xây dựng các bước giải, dự đoán hiện tượng, kết quả thí nghiệm, lựa chọn hoá chất và dụng cụ thí nghiệm.  Bước 2: Học sinh tiến hành thí nghiệm theo các hướng giải bằng lý thuyết. Các dạng bài: a) Bài tập thực nghiệm kiểm nghiệm tính chất các chất, qui luật: Ví dụ: Hãy tiến hành thí nghiệm hoá học chứng tỏ độ hoạt động của các kim loại giảm dần theo thứ tự sau: Al, Cu, Ag. Học sinh tiến hành các hoạt động:  Chọn phản ứng hoá học chứng minh độ hoạt động hoá học của các kim loại giảm dần và dự đoán các hiện tượng xảy ra: Al tác dụng với CuSO4, Cu tác dụng với AgNO3, Al tác dụng với AgNO3.  Học sinh chọn dụng cụ hoá chất để làm thí nghiệm.  Quan sát các các chất và dự kiến các hiện tương có thể xảy ra.  Tiến hành thí nghiệm và quan sát hiện tượng xảy ra.  Rút ra kết luận. b) Bài tập thực nghiệm về nhận biết các chất: Học sinh tiến hành các hoạt động: GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 9 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh   Giải bằng lý thuyết: o Phân tích đề bài o Đề xuất các phương án có thể dùng để nhận biết các chất o Thiết lập sơ đồ nhận biết các chất. Tiến hành thí nghiệm: o Lựa chọn 1 phương án tối ưu và xây dựng quy trình tiến hành thí nghiệm. o chuẩn bị dụng cụ hoá chất. o Xây dựng cách tiến hành cụ thể, thứ tự các bước, ghi lại hiện tượng hoá học, kết luân các chất. Ví dụ: Nhận biết các dung dịch không màu sau: KCl, K2SO4, H2SO4, HCl. - Học sinh tiến hành phân tích đề: 2 axit và 2 muối. - Các phương án nhận biết: - Chọn phương án 1 - Tiến hành thí nghiệm:  Ghi số thứ tự 1, 2, 3, 4 cho từng dung dịch.  Lấy mỗi lọ một giọt dung dịch, sau đó nhỏ vào giấy quỳ tím. - Không đổi màu quỳ tím là KCl và K2SO4. ( Nhóm A) - Làm quỳ tím chuyển đỏ là HCl và H2SO4. (Nhóm B)  Lấy 1ml dung dịch trong mỗi lọ của hai nhóm A, B. Nhỏ từ từ dung dịch BaCl2 vào từng ống nghiệm. Nhóm A: Dung dịch nào xuất hiện kết tủa trắng là H2SO4. Dung dịch còn lại không xuất hiện hiện tượng gì là HCl Nhóm B: dung dịch nào xuất hiện kết tủa trắng là K2SO4, dung dịch không xuất hiện hiện tượng là KCl. Kết luận về chất. GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 10 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh Bài 2: DỤNG CỤ PHÒNG THÍ NGHIỆM VÀ THAO TÁC SỬ DỤNG I. Các dụng cụ thủy tinh: Hình 1 Hình 2 Hình 4 Hình 5 Hình 3 Hình 6 Hình 1-Bình Wurtz (a) và Claisen (b) nhánh (b). Hình 3 -Bình Bunsen (a) và ống nghiệm Hình 3: Các loại ống sinh hàn không khí (a), thẳng (b), bầu (c), xoắn (d). Hình 4: Phễu chiết (a) và phễu nhỏ giọt (b). Hình 5: Phễu lọc xốp (a), phễu lọc nóng (b), phễu lọc lạnh (c). GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 11 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh Hình 6: Bình làm khô (a), bình làm khô chân không (b), thiết bị làm khô đơn giản (c), máy làm khô (d). Pipet có bóp cao su đô Lấy dd vào buret Giá đở buret để chuẩn * Việc cần đặt ra ở đây là làm thế nào chúng ta hướng dẫn cho học sinh cách chọn dụng cụ thí nghiệm phù hợp với bài thực hành. 1) Chọn dụng cụ thuỷ tinh Ở phòng thí nghiệm trường phổ thông thường hay dùng loại ống thuỷ tinh có đường kính 4 – 6mm và có bề dày 1 – 2mm. Các loại ống thuỷ tinh sản xuất trong nước có thể đảm bảo được yêu cầu này của phòng thí nghiệm. - Chịu hóa chất: là thủy tinh trung tính, chịu được hầu hết các hóa chất, dung dịch ăn mòn mạnh ở nhiệt độ cao (ngoại trừ HF là dung dịch acid có độ ăn mòn cao nhất thậm chí tại nồng độ thấp). - Tính chất nhiệt: chịu được nhiệt độ cao, shock nhiệt. - Ngoài ra dụng cụ thủy tinh dùng cho phòng thí nghiệm cần phải sạch về mặt hoá học (không dính các chất hữu cơ hoặc vô cơ). Do vậy, trước khi sử dụng thì cần được rửa sạch. GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 12 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh Bình tam giác(erlen) Bình cầu đáy tròn môt cổ (a), hai cổ (b),ba cổ (c), cổ dài (d), đáy bằng e), quả lê (g) Thường sử dụng để chuẩn độ, chứa đựng môi trường, dung dịch, thực hiện các phản ứng, bình cầu còn thích hợp cho các phản ứng cần xúc tác nhiệt độ. Bình tam giác, bình cầu thường có thể tích từ 50ml đến 10 lít tùy theo dung dịch chứa để chọn loại bình thích hợp. Có vạch chia thể tích dùng để đong những khối lượng dung dịch không cần phải có độ chính xác cao. Khi đong, nên chọn ống đong nào có khối lượng gần nhất với khối lượng cần đong để có độ chính xác cao hơn. Ví dụ: đong 45 ml dùng ống đong loại 50 ml, đong 850 dùng ống đong 1000 ml. Để tránh sai lầm trong lúc đọc mức đong, phải đặt ống đong trên một mặt phẳng và tầm mắt ngang tầm với bề mặt chất lỏng. Ống đong các loại 2) Lắp dụng cụ thí nghiệm Trước khi lắp dụng cụ thí nghiệm cần phác hoạ sơ đồ dụng cụ, thống kê các bộ phận cần thiết, chọn đủ các dụng cụ ấy rồi mới lắp. Cần lắp các bộ phận đơn giản trước. Nếu có dùng những hoá chất có tác dụng với cao su thì nên lắp ống thuỷ tinh làm ống dẫn, chỉ các chỗ nối mới lắp ống cao su. Đường kính bên trong của ống cao su phải hơi nhỏ hơn đường kính bên ngoài của ống thuỷ tinh. Không nên để một ống thuỷ tinh dài uốn cong nhiều khúc mà nên thay bằng những đoạn nối bằng ống cao su để tránh bị gẫy ống dẫn khi đang làm thí nghiệm. Đoạn ống cao su để nối đó không nên GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 13 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh dài, nhất là khi làm thí nghiệm với các chất ăn mòn được cao su. Khi lắp dụng cụ cần chú ý hai yêu cầu sau: – Thuận tiện cho thí nghiệm. – Hình thức bên ngoài gọn, đẹp, kích thước các bộ phận tương xứng với nhau. Sau khi lắp xong, cần thử lại xem dụng cụ đã kín chưa, nhất là đối với các dụng cụ dùng trong những thí nghiệm có chất khí tham gia. Có hai cách thử: – Dùng miệng thổi vào và nhỏ nước lên các chỗ nối để kiểm tra. – Nhúng đầu ống dẫn vào nước, dùng tay nắm chặt ống nghiệm hoặc bình cầu. Nếu dụng cụ đã được lắp kín, thì do thân nhiệt của bàn tay, không khí trong ống nghiệm hoặc bình cầu nở ra sẽ đẩy nước mà thoát ra ngoài thành những bọt khí. VD: Thí nghiệm nghiên cứu phản ứng của sắt với dung dịch muối. Cho mỗi nhóm chuẩn bị 2 đinh sắt (mới), 2 ống nghiệm đựng 2 dung dịch MgCl2 và CuSO4. Sau khi giáo viên nêu vấn đề cần giải quyết qua thí nghiệm này, thì nhóm trưởng cho tiến hành thí nghiệm: Bỏ từng đinh sắt vào mỗi ống nghiệm, các thành viên khác quan sát sau đó trao đổi cùng nhau về mô tả hiện tượng: Ống nghiệm (1) không có hiện tượng gì xảy ra, ống nghiệm (2) đinh sắt được phủ một lớp màu đỏ, màu xanh của dung dịch nhạt dần. Nhóm đi đến kết luận: Fe không tác dụng với dd MgCl2, Fe tác dụng với dd CuSO4 tạo thành Cu màu đỏ và dd FeSO4: Fe + CuSO4 → FeSO4 + Cu↓ Sau các báo cáo và giải thích của các nhóm, giáo viên kết luận: Sắt tác dụng với dung dịch muối của kim loại hoạt động yếu hơn (đứng sau Fe trong dãy hoạt động hoá học) tạo thành muối sắt (II) và giải phóng kim loại trong muối. - Trong quá trình học sinh làm thí nghiệm, giáo viên cần hướng dẫn thêm, đi xuống từng nhóm nhắc nhở, hỗ trợ các em làm việc. Đặc biệt chú ý việc lắp đặt dụng cụ, cách tiến hành để thí nghiệm đảm bảo an toàn, có kết quả.  Một số lưu ý khi cho HS thảo luận nhóm: + Phải để cho các em luân phiên nhau làm nhóm trưởng. + Phải buộc tất cả cùng hoạt động, tham gia đóng góp ý kiến. + Chỉ thay đổi nhóm 1 lần trong một tiết học (nếu có nhiều lần thảo luận nhóm) + Học sinh chỉ làm những thí nghiệm đơn giản, ít nguy hiểm GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 14 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh 2. Phương pháp sử dụng cân Các loại cân phân tích môt buồng a- Cân kỹ thuật: Để cân các vật (hóa chất) có khối lượng lớn và cân sơ bộ các hóa chất có khối lượng nhỏ. Trước khi cân các hóa chất cần phải cân đồ đựng. - Cách cân: Ngồi ngay ngắn trước cân để đọc các kết quả cho chính xác, đặt vật đựng trên đĩa cân (nếu cân có hai đĩa thì đặt vật đựng trên đĩa cân bên phải). Chọn và đặt các quả cân thích hợp lên đĩa cân bên trái hoặc đòn cân (tùy theo cân). Di chuyển quả cân nhỏ trên du xích đến vị trí nào đó để cho đòn cân thăng bằng. Giá trị của vật cân bằng tổng giá trị của các quả cân cộng với số chỉ trên du xích. - Cân hóa chất: Lấy hóa chất vào vật đựng rồi đặt vật đựng có hóa chất trên đĩa cân và làm tương tự như trên. Với cân điện hiện số sẽ có hướng dẫn riêng. b- Cân phân tích: Dùng để cân chính xác một lượng hóa chất nào đó. Hiện nay có nhiều loại cân phân tích (thường, cân điện, và cân điện tử hiện số), sai số và độ chính xác cũng khác nhau. Tuy nhiên về cách cân thì không khác nhau là mấy. α- Cân phân tích thường và điện(cân có du xích quang học): có 2 loại 1 buồng và 2 buồng. - Yêu cần về sử dụng: Vật đựng phải làm bằng vật liệu không bị oxi hóa và ăn mòn, không hút ẩm(thường dùng mặt kính đồng hồ hoặc cốc cân có nắp). - Yêu cần với hóa chất: Các hóa chất cần cân phải ở dạng rắn, khô, mịn hạt để dễ điều chỉnh khối lượng cân. Thông thương người ta sấy khô hóa chất đến khối lượng không đổi rồi nghiền mịn. Trước khi cân hóa chất phải cân đồ đựng. Khi cân hóa chất nhất thiết phải dùng đồ đựng(cốc cân hoặc mặt kính đồng hồ) để tránh rơi vãi trên đĩa cân và buồng cân. Cách cân phân tích một buồng: Trước khi cân phải kiểm tra cân đã được hãm chưa, nếu chưa thì phải vẵn nút cân lại(vặn theo chiều ngược chiều kim đồng) sau đó kiểm tra cân đã ở đúng vị trí trên phẳng nằm ngang chưa, nếu chưa thì vặn các nút ở dưới các chân đế sao cho bọt nước nằm đúng giữa tâm vòng tròn. Phải ngồi ngay ngắn trước cân để đọc được kết quả chính xác. Đặt vật cân(đã cân sơ bộ trên cân kỹ thuật) lên đĩa cân rồi đóng cửa buồng cân lại. Dùng tay vặn các núm trên cân để chỉnh các quả cân đến các giá trị thích hợp. Sau đó dùng tay vặn nút hãm cân để hạ hệ thống hãm đòn cân xuống. Đợi một thời gian cho cân ổn định GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 15 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh thăng bằng thì đọc giá trị khối lượng của vật cân. Giá trị này là tổng của hai đại lượng: Khối lượng vật cân = Khối lượng các quả cân nhỏ (chỉ thị trên các núm vặn) + Khối lượng quan sát được trên du du xích (qua khe ngắm sáng). - Khối lượng các quả cân nhỏ được chỉ ra trên vị trí các núm vặn trên cân trùng với vạch mốc. - Giá trị quan sát trên du xích là vạch có số đo trùng với vạch mốc trên khe ngắm; phải ngắm bằng mắt để đọc. Khi không nhìn thấy du xích( vượt thang) thì phải điều chỉnh các các quả cân trên cân( qua các núm vặn) để đưa giá trị của du xích vào lại trong thang. Sau khi đọc xong các giá trị khối lượng phải hãm cân lại tư thế nghỉ. Khi cân các hóa chất thì mở của buồng bên trái hoặc bên phải ra. Dùng thìa để lấy hóa chất vào đồ đựng( đã cân được khối lượng chính xác như trên đã làm). Chỉnh các quả cân đến gần khối lượng mong muốn rồi tiến hành cân. Dùng thìa thêm bới hóa chất đẻ dạt khối lượng mong muốn. Mỗi lần thêm bớt hóa chất cũng phải khóa cân đưa về tư thế nghỉ. Sau mỗi lần thao tác thêm bớt hóa chất và chỉnh quả cân đều phải đóng cửa các buồng tương ứng. Lưu ý: Cân phải để nơi khô, ráo ít gió; các buồng cân phải có các vật liệu chống ẩm( để trong túi vải). Phòng cân có ánh sáng vừa phải (không được tối quá hoặc sáng quá) để dễ đọc các giá trị trên du xích. Khi cân phải tuyệt đối cẩn thận không được để rơi vãi hóa chất vào cân. Không được mở các buồng cân khi đang cân vì các tác động cơ học bên ngoài(gió) sẽ làm ảnh hưởng đến giá trị khối lượng của vật cân. Một vật phải cân ít nhất 3 lần rồi lấy giá trị trung bình. Khi cân hóa chất dùng thìa cân để thêm bớt hóa chất, để lấy đúng khối lượng mong muốn. β- Sử dụng cân điện tử hiện số: Cách dùng đơn giản và tiện lợi hơn. Ta cân vật đựng trước rồi sau đó lấy hóa chất vào vật đựng và cân. Khi đặt vật cân lên đĩa cân rồi đóng cửa buồng lại. Chờ cho số hiện trên đồng hồ ổn định thì đọc và ghi lại. Muốn cân chính xác cũng phải cân ít nhất 3 lần rồi lấy giá trị trung bình. Cách thêm bớt hóa chất, để lấy đúng khối lượng mong muốn cũng tương tự như trên. 3- Phương pháp lấy hóa chất vào ống nghiệm a- Lấy hóa chất rắn: Ống nghiệm phải thật khô, tay trái cầm ống nghiệm hơi nghiêng đi, tay phải dùng thìa múc hóa chất cho vào miệng ống nghiệm đến một khoãng nào đó thì dừng lại nghiêng thìa cho hóa chất rơi vào ống nghiệm không đưa thìa vào quá sâu hoặc chạm thành để tránh hóa hóa chất khác dính vào thìa. Ta có thể dùng mảnh giấy cuộn hóa chất ở trong và đưa vào ống nghiệm. b- Lấy hóa chất lỏng: Tay trái cầm ống nghiệm hơi nghiêng đi, tay phải cầm ống nhỏ giọt nhỏ từ từ hóa chất lỏng (hay dung dịch) vào miệng ống nghiệm. c- Pha chế dung dịch Pha chế dung dịch là một trong những công việc quan trọng ở phòng thí nghiệm hoá học. Khi pha chế dung dịch cần tuân theo các quy tắc sau đây: GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 16 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh 1) Bình, lọ để pha chế dung dịch phải được rửa sạch và tráng nước cất trước khi pha. 2) Phải dùng nước cất để pha hoá chất (nếu không có thì có thể dùng nước mưa thật sạch, tuy không được tinh khiết). 3) Trước khi pha dung dịch cần phải tính toán lượng chất tan và dung môi. 4) Nên pha dung dịch kiềm đặc vào bình sứ. 5) Nếu có thể nên kiểm tra lại nồng độ của dung dịch bằng tỉ khối kế. 6) Sau khi pha xong dung dịch, cần phải cho vào lọ có màu thích hợp, đậy kín và dán nhãn để bảo quản tốt dung dịch. Khi pha chế dung dịch, người ta thường dùng các loại ống đo, bình định mức, pipet có chia độ. Bình định mức dùng để pha dung dịch theo nồng độ mol/lít và nồng độ đương lượng. Vạch ở trên cổ bình cầu hoặc ở trên pipet là để chỉ mức chất lỏng cần lấy vào bình hoặc pipet. Khi khuấy dung dịch cần dùng loại đũa thuỷ tinh có bịt ống cao su ở đầu để tránh vỡ ống đo hoặc bình, lọ. Các dung dịch thường được pha theo các loại nồng độ: – Nồng độ phần trăm – Nồng độ mol/lít – Nồng độ đương lượng (nguyên chuẩn). Dưới đây là cách pha một số dung dịch: 1. Pha dung dịch của chất rắn trong nước theo nồng độ phần trăm a. Pha dung dịch của chất rắn không ngậm nước Trước khi pha phải tính lượng chất tan và lượng nước cần dùng là bao nhiêu. Ví dụ pha chế 250g dung dịch 10% một chất đã cho (chẳng hạn natri clorua, bari clorua, đồng sunfat,…). Ta tính 10% của 250g, đó là 25g. Như thế phải lấy 25g chất tan và 225g nước (225g nước chiếm một thể tích là 225ml, ở đây bỏ qua sự thay đổi tỉ khối của nước theo nhiệt độ). Dùng cân sẽ lấy được 25g chất tan, còn 225ml nước thì dùng ống chia độ để đong. b. Pha dung dịch của chất rắn ngậm nước Trước hết phải tính lượng muối không ngậm nước rồi suy ra lượng muối ngậm nước. Ví dụ: Pha 100g dung dịch 10% đồng sunfat từ muối CuSO4. 5H2O. Lượng đồng sunfat trong 100g dung dịch là 10g. Khối lượng mol của CuSO4.5H2O = 250g. Khối lượng mol của CuSO4 bằng 160g. Lượng muối đồng sunfat ngậm nước là x được tính theo tỉ lệ: Vậy phải cân lấy » 15,6g CuSO4.5H2O và đong » 84,4g nước đem hoà tan vào nhau. GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 17 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh 2. Pha dung dịch chất lỏng trong nước theo nồng độ phần trăm Phương pháp này thường được dùng khi pha dung dịch có nồng độ đã định từ một dung dịch khác. Ví dụ: Pha 250g dung dịch axit sunfuric 10% từ dung dịch H2SO4 đặc hơn. Cần phải dùng tỉ khối kế để đo tỉ khối của dung dịch H2SO4 đặc đem pha (rót axit đặc vào đến 3/4 ống đo rồi nhúng từ từ tỉ khối kế vào). Giả sử đo được d = 1,824. Bảng tính sẵn cho ta biết nồng độ của dung dịch axit đó là » 92%. Nếu lọ axit đặc đã được giữ kín cẩn thận và vì không có tỉ khối kế thì có thể sử dụng các con số về tỉ khối và nồng độ ở trên nhãn các lọ axit đó. Muốn pha 250g dung dịch 10% H2SO4 thì phải lấy 25g axit nguyên chất 100%. Nhưng ở đây chỉ có axit 92% nên phải lấy: Lượng axit này bằng: 27,2 : 1,824 = 14,9ml. Dùng ống đo nhỏ lấy 14,9ml axit H 2SO4 đã cho rót vào ống đo khác đã đong sẵn 222,8ml (250g – 27,2g = 222,8g) nước, ta sẽ được dung dịch cần dùng. Có thể kiểm tra lại bằng cách dùng tỉ khối kế đo khối lượng riêng. Dung dịch 10% axit sunfuric mới pha chế phải có khối lượng riêng gần bằng 1,1g/ml. 3. Pha dung dịch có nồng độ mol/lít (M) Ví dụ: Cần pha 250ml dung dịch 0,1M natri clorua. Khối lượng mol của natri clorua là 58,5g. Trong 1 lít dung dịch 0,1M có 0,1 mol (= 5,85g) natri clorua. Vậy trong 250ml dung dịch phải có 5,85 : 4 » 1,46 gam muối ăn. Do đó cần lấy gần 1,5g natri clorua cho vào ống đo rồi tiếp tục thêm nước cất vào cho đủ 250ml. Như thế ta được dung dịch cần pha chế. Muốn được chính xác hơn thì pha chế vào bình định mức. 4. Pha dung dịch có nồng độ đương lượng (N) Ví dụ: Pha 100ml dung dịch 0,1N muối bari clorua BaCl2.2H2O. Muối bari clorua ngậm nước có khối lượng mol là 224 và đương lượng bằng 244 : 2 = 122. Dung dịch BaCl2.2H2O có nồng độ 0,1N nghĩa là trong 1 lít dung dịch có 12,2g BaCl2.H2O. Vậy trong 100ml dung dịch có 1,22g BaCl2.2H2O. Quá trình pha dung dịch được tiến hành như trên. 5. Pha dung dịch có nồng độ đã định trước theo khối lượng riêng Cách pha dung dịch đơn giản hơn cả là dùng tỉ khối kế, rồi đối chiếu với bảng nồng độ đã được tính sẵn. Rót dung dịch vào ống đo, nhúng tỉ khối kế vào đó. Nếu muốn có dung dịch loãng hơn thì cho thêm nước từ từ vào. (Nếu là axit sunfuric thì phải cho axit vào nước). 6. Pha loãng dung dịch Trong nhiều thí nghiệm ở trường phổ thông cần dùng các dung dịch có nồng độ loãng hơn dung dịch hiện có ở phòng thí nghiệm. Lúc đó phải pha loãng dung dịch. Sự pha loãng thường được biểu thị bằng tỉ số 1 : 1, nghĩa là cứ 1 thể tích dung dịch ban đầu ta thêm vào 1 thể tích dung môi. GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 18 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh 7. Pha chất chỉ thị và một số thuốc thử đặc biệt a. Dung dịch quỳ Quỳ (tím) là một chất hữu cơ có màu được lấy từ một số loại rêu biển (địa y). Cũng như một số chất màu thực vật khác, màu của nó biến đổi theo môi trường phản ứng. Khoảng chuyển màu là từ pH = 5,0 đến pH = 8,0 (đỏ trong môi trường axit, xanh trong môi trường kiềm). – Cách pha dung dịch quỳ: Hoà tan 1g bột quỳ vào 1 lít dung dịch rượu etylic loãng (1 phần rượu và 4 phần nước), sau đó lọc qua bông thấm nước. Cũng có thể hoà tan bột quỳ vào ngay nước cất nhưng nó tan kém hơn và phải lọc kĩ hơn cho khỏi bị cặn. – Cách làm giấy quỳ: Trước hết biến đổi dung dịch đặc quỳ trung tính thành quỳ đỏ hay quỳ xanh bằng cách thêm vào đó một lượng nhỏ axit (H2SO4 chẳng hạn) hay kiềm (NaOH). Đổ dung dịch quỳ đỏ ra chậu thuỷ tinh có thành thấp. Nhúng các băng giấy lọc đã được cắt sẵn vào chậu và kéo lướt qua dung dịch. Dùng cặp, kẹp các băng giấy đã nhuộm lên dây thép ở trong phòng sao cho các băng giấy không chập vào nhau. Khi băng giấy khô, cắt thành từng đoạn ngắn khoảng 6 – 8cm. Cần giữ giấy quỳ trong những bình thuỷ tinh có nút thật kín. b. Dung dịch phenolphtalein Phenolphtalein là một chất màu tổng hợp, nó biến đổi màu theo môi trường phản ứng, không có màu trong môi trường axit và trung tính, có màu hồng (chính xác là màu đỏ tím) trong môi trường kiềm. Khoảng chuyển màu của nó từ pH = 8,2 đến pH = 10. Cách pha: Lấy 1g phenolphtalein cho vào 1000ml dung dịch rượu etylic khoảng 60%. c. Chất chỉ thị axit – bazơ chế từ hoa dâm bụt Nếu không có các chất chỉ thị trên đây để thử môi trường axit – bazơ, ta có thể tự chế lấy chất chỉ thị rất đơn giản, dễ dàng như sau: lấy cánh hoa dâm bụt bỏ vào trong lọ có đựng cồn, càng nhiều cánh hoa thì chất chỉ thị càng đặc. Đậy nút kín. Dung dịch dần dần có màu tím và sau khoảng 2 giờ thì có thể dùng làm chất chỉ thị axit – bazơ. Chất chỉ thị này, ở trong môi trường axit sẽ có màu hồng bền, trong môi trường trung tính thì không có màu hoặc màu tím; trong môi trường kiềm có màu xanh, nhưng không bền vì nó nhanh chóng biến đổi sang màu vàng. Khoảng chuyển màu của nó từ pH = 7,5 đến pH = 9. Cũng có thể làm giấy chỉ thị từ hoa dâm bụt bằng cách thấm ướt giấy lọc bằng dung dịch loãng của hoa dâm bụt trong cồn hoặc lấy cánh hoa dâm bụt xát vào giấy lọc. Tính chất của chất chỉ thị không thay đổi ở cả nhiệt độ cao (1000C) và được giữ khá bền trong cồn. d. Pha dung dịch hồ tinh bột GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 19 Đề tài: Thiết kế và Sử dung thí nghiệm thực hành hóa học trong việc hình thành phát triển tư duy của học sinh Hồ tinh bột được dùng rộng rãi nhất để nhận ra iot tự do. Muốn pha 150 – 200ml hồ tinh bột thì lấy 0,5g tinh bột đã nghiền nhỏ cho vào nước lạnh làm thành bột loãng. Vừa khuấy đều vừa đổ từ từ bột loãng đó vào 150 – 180ml nước đun sôi, ta sẽ được hồ tinh bột. Cũng có thể làm theo cách khác: hoà tan 0,5g tinh bột vào 100ml nước cất đun sôi, tiếp tục đun sôi lại 5 phút nữa rồi để nguội. Có thể dùng nước cơm thay hồ tinh bột. e. Nước vôi Nước vôi dùng để nhận ra khí cacbonic và là kiềm rẻ tiền nhất. Cách pha: Hoà tan vôi tôi vào nước. Vì độ tan của vôi tôi rất nhỏ nên phải pha như sau: Cho một ít vôi tôi vào bình cầu, đổ thêm nước cho đầy đến gần cổ bình để diện tích tiếp xúc giữa chất lỏng với không khí là nhỏ nhất. Đậy nút kín và để lắng hỗn hợp trong vài giờ trở lên. Sau đó lọc lấy nước trong, ta sẽ được nước vôi trong. Cần đậy nút thật kín các bình đựng nước vôi, nếu không, khi để lâu nó sẽ bị hỏng vì nước vôi tác dụng với khí cacbonic của không khí. 4-. Hoà tan, lọc, kết tinh lại a. Hoà tan Khi hoà tan hai chất lỏng vào nhau cần luôn luôn lắc bình đựng để cho dung dịch đồng nhất. Khi hoà tan chất rắn vào chất lỏng, nếu chất rắn có tinh thể to, ta phải nghiền nhỏ thành bột trước khi hoà tan. Dùng nước cất để hoà tan các chất, không dùng nước máy, nước giếng,… Nếu không có nước cất thì bất đắc dĩ có thể dùng nước mưa hứng ở trên cao và ở chỗ sạch. Nếu hoà tan trong cốc thuỷ tinh và bình hình nón thì dùng đũa thuỷ tinh để khuấy. Đầu các đũa thuỷ tinh này phải được bọc bằng ống cao su lồng vừa khít vào đầu đũa thuỷ tinh, đầu ống cao su dài hơn đầu đũa khoảng 2mm. Nếu hoà tan một lượng lớn chất tan trong bình cầu thì phải lắc tròn. Hoà tan trong ống nghiệm thì lắc ngang, không lắc dọc ống nghiệm. Đa số chất rắn khi đun nóng sẽ tan nhanh hơn. Vì vậy khi hoà tan ta có thể đun nóng. b. Lọc Lọc là phương pháp tách những chất rắn không tan ra khỏi chất lỏng. Trong phòng thí nghiệm thường dùng giấy lọc để lọc. Cũng có thể dùng giấy bản loại tốt, bông, bông thuỷ tinh để lọc. +Cách gấp giấy lọc Dưới đây là cách gấp giấy lọc đơn giản (không gấp thành nhiều nếp) dùng khi cần lấy kết tủa ra và cần giữ kết tủa lâu. Lấy tờ giấy lọc hình vuông có cạnh bằng hai lần đường kính phễu lọc. Gấp đôi rồi gấp tư tờ giấy (hình 1.6a, b). Dùng kéo cắt tờ giấy theo đường chấm hình vòng cung (hình 1.6c) thành một hình quạt. Tách 3 lớp giấy của hình quạt làm thành hình nón (hình 1.6d). GV: Nguyễn Hoàng Duy Phương - Trường THPT Thống Nhất B Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan