Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn thiết kế và sử dụng bản đồ tư duy trong dạy toán giải tích lớp 12...

Tài liệu Skkn thiết kế và sử dụng bản đồ tư duy trong dạy toán giải tích lớp 12

.PDF
16
152
121

Mô tả:

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số (do Thường trực HĐ ghi): ……………………… 1.Tên sáng kiến: “ Thiết kế và sử dụng bản đồ tư duy trong dạy toán giải tích lớp 12” (Phạm Thị Kim Thoa, Nguyễn Hoàng Long, @THPT Chê Guê-va-ra) 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy 3. Mô tả bản chất của sáng kiến: 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết Việc phát triển tư duy cho học sinh luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của mục tiêu giáo dục. Để hướng học sinh có cách thức học tập tích cực và tự chủ, chúng ta không chỉ cần giúp các em khám phá các kiến thức mới mà còn phải giúp các em hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo…Một trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là Bản đồ tư duy (BĐTD). Nhiều nước trên thế giới đã ứng dụng BĐTD trong giảng dạy, học tập, làm việc, kinh doanh… từ 15-20 năm nay. Nhưng người Việt mới chỉ biết đến BĐTD trong vài năm trở lại đây. Giữa lúc cả xã hội bức xúc với “đọc – chép”, “nhìn – chép” và thói quen “học vẹt” của nhiều học sinh thì việc ứng dụng BĐTD cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác đã đem lại rất nhiều lợi ích. Đây có thể xem là “một phương pháp dạy học mới” của ngành Giáo dục & Đào tạo giúp học sinh phát triển tư duy, khả năng sáng tạo trong học tập. Để có được một giờ dạy tốt có người dạy phải chuẩn bị thật tốt giáo án trước khi lên lớp, giáo án là sản phẩm sáng tạo, trí tuệ, mang phong cách riêng của người dạy, thể hiện các bước lên lớp, mục đích, yêu cầu, phương pháp rõ ràng, nó chứa đựng công sức, tình cảm, trách nhiệm, kinh nghiệm của người giáo viên. Do đó, việc 1 ứng dụng BĐTD trong dạy học cho thấy sự cần thiết bởi nó đáp ứng được yêu cầu giáo dục như: - Logic, mạch lạc, trực quan, dễ nhìn, dễ nhớ, dễ hiểu. - Giúp hệ thống hoá kiến thức, mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức. - Tạo sự hứng thú học tập cho học sinh bởi khả năng đối thoại trực tiếp. - Tiết kiệm thời gian và chi phí trong giảng dạy. - Tiện lợi khi cần tăng thêm lượng kiến thức, đưa thêm những nội dung mới hay mở rộng trong tiết giảng. - Giảm thiểu sự vất vả của giáo viên trong giờ lên lớp. - Thuận tiện trong việc hỗ trợ cho các hoạt động (trong các chủ đề của môn học) nhằm truyền đạt kỷ năng, kiến thức và thái độ ngành, nghề cho học sinh. Trên thực tế quá trình dạy học của giáo viên môn toán trường và qua dự giờ và trao đổi với giáo viên tôi nhận thấy giáo viên mới chú trọng cung cấp kiến thức chính xác và đầy đủ theo sách giáo khoa mà chưa tập trung chú ý hướng dẫn phương pháp “học cách học”. Đa số giáo viên yêu cầu các em phải ghi nhớ kiến thức mà không hướng dẫn cách ghi nhớ vì xem đó là nhiệm vụ của các em, một số giáo viên khác thì hướng dẫn các em ghi nhớ kiến thức theo kiểu gạch đầu dòng tóm lượt ý. Qua trao đổi với giáo viên, tôi thấy vẫn còn những ý kiến khác nhau về hình thức dạy học mới này như: + Một số giáo viên cho rằng BĐTD giống như tranh trẻ con và gần như phủ nhận các hình thức dạy học này, họ cho rằng dùng BĐTD thì cũng viết như ghi chép thông thường thôi thậm chí còn mất nhiều thời gian lại tốn giấy. + Một số giáo viên khác cho rằng hình thức dạy học này là không khả thi trong điều kiện chất lượng học sinh của nhà trường, học sinh đã quen với cách học truyền thống thì làm sao có thể thay đổi thói quen đó được. + Còn lại, một số giáo viên cho rằng sử dụng BĐTD một cách khoa học như là một phương tiện dạy học hỗ trợ hợp lý sẽ đem lại kết quả cao cho nhận thức của học sinh cả về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển khả năng tư duy, thực hành. Nguyên nhân: 2 + Phần lớn các giáo viên chưa tiếp cận và nghe báo cáo chuyên đề soạn giảng bằng BĐTD, nên đa phần nào giáo viên chưa nắm được chi tiết quá trình xây dựng tiết dạy theo phương pháp mới là BĐTD và hiệu quả của nó trong giảng dạy ở trường phổ thông. + Kỹ năng lên lớp còn hạn chế vì giáo viên chưa quen với việc giảng dạy theo hình thức này. Một số giáo viên còn lúng túng ngại sử dụng phương pháp này vì cảm thấy mình vẽ không đẹp thì làm sao có thể dạy cho học sinh được. + Một số học sinh học yếu, chưa quen với cách học mới nên còn lúng túng khi viết hoặc triển khai nội dung từ BĐTD. Mặt khác môn giải tích lớp 12 là môn học có nhiều chủ đề phù hợp để dạy học bằng BĐTD, còn đối với học sinh cuối cấp việc học tạp theo phương pháp này sẽ giúp các em rèn luyện khả năng tự học, xây dựng được nền tảng kiến thức vững chắc để chuẩn bị cho kỳ thi Trung học phổ thông quốc gia sắp tới. Chính vì lý do trên với những kinh nghiệm qua thực tế dạy học và qua nhiều thời gian tìm tòi nghiên cứu, tôi mạnh dạn đưa ra một vài kinh nghiệm về việc: “ Thiết kế và sử dụng bản đồ tư duy trong dạy toán lớp 12” 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến: 3.2.1. Mục đích của giải pháp Rèn luyện cho học sinh phương pháp tự ôn tập tự củng cố, hệ thống lại kiến thức sau mỗi bài học, mỗi chương nâng cao hiệu quả ghi nhớ kiến thức của học sinh. Nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân. Trao đổi một số kinh nghiệm với đồng nghiệp trong việc dạy học có sử dụng BĐTD góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy. 3.2.2. Cơ sở lí luận 3.2.1. Khái niệm bản đồ tư duy Theo Tony Buzan, người đầu tiên tìm hiểu và sáng tạo ra bản đồ tư duy thì: “Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho các ý chính và đều được nối với các ý trung tâm. Với phương thức tiến dần từ trung tâm ra 3 xung quanh, bản đồ tư duy khiến tư duy con người cũng phải hoạt động tương tự. Từ đó các ý tưởng của con người sẽ phát triển. 3.2.2. Cơ sở khoa học Từ trước tới nay, chúng ta thường ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con số theo trật tự tuyến tính. Nghĩa là chúng ta mới chỉ sử dụng ½ bộ nãonão trái mà chưa sử dụng kĩ năng nào bên não phải – nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin về nhịp điệu, màu sắc, không gian. Các nhà khoa học chỉ ra rằng bộ não của con người gồm 2 bán cầu: não phải và não trái. Não phải nhạy cảm với các thông tin về màu sắc, nhịp điệu, hình dạng, tưởng tượng…. những yếu tố đó sẽ tác động, kích thích não trái. Não trái thích hợp với các từ ngữ, con số, tư duy và phân tích cho ra sản phẩm. Do đó người ta tìm cách kích thích não phải tốt nhất và khi hai bán cầu não có sự tương tác, tác động, kích thích lẫn nhau nó sẽ đem đến cho con người khả năng to lớn. Dựa trên những đặc điểm đó của não bộ, Tony Buzan đã sáng tạo ra bản đồ tư duy theo nguyên lí hoạt động của bộ não. BĐTD không những sử dụng chữ, số, các dòng kẻ mà còn có thể sử dụng cả màu sắc và hình ảnh. Các dòng kẻ, chuỗi, chữ, số, và các danh sách được xử lí bằng chức năng thần kinh của não trái. Đây là bán cầu não được sử dụng cho các công việc bình thường. Do đó khi sử dụng nó, tư duy sáng tạo của con người bị giới hạn. Để thực sự trở nên sáng tạo, chúng cần sử dụng trí tưởng tượng - chức năng hoạt động của bán cầu não phải như sự tri giác màu sắc, hình ảnh, nhịp điệu, không gian. Với đặc điểm trên, bản đồ tư duy kết hợp hoạt động của hai bán cầu não trái và não phải. Điều này giải thích vì sao chúng ta có thể phát huy toàn bộ mọi khả năng tư duy của mình khi sử dụng bản đồ tư duy. Như vậy BĐTD là một công cụ hỗ trợ tư duy hiện đại, một kĩ năng sử dụng bộ não rất mới mẻ. Đó là một kĩ thuật hình họa, một dạng sơ đồ kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp, tương thích với cấu trúc, hoạt động của bộ não. 3.2.3. Vai trò của BĐTD trong quá trình dạy học Trong giáo dục, sử dụng BĐTD giúp giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt 4 thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới, lập kế hoạch học tập, kế hoạch công tác. BĐTD được sử dụng phù hợp với mọi điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, lớp học. Giáo viên và học sinh có thể thực hiện BĐTD trên bảng phấn, trên vở, trên giấy, bìa, bảng phụ,… hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm. Khai thác tính năng và sử dụng BĐTD có hiệu quả là góp phần đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin một cách dễ dàng và thiết thực. Sử dụng thành thạo và linh hoạt BĐTD trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ. Học sinh học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Với học sinh, việc tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo, lôi cuốn học sinh tham gia vào bài giảng, tạo điều kiện phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh…qua đó, các em tự chiếm lĩnh kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, tự nhiên với hứng thú học tập lớn. Việc sử dụng phương pháp thuyết trình dựa trên BĐTD đã phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, rèn kỹ năng mạnh dạn và tự tin khi trình bày trước đám đông. Giáo viên sử dụng BĐTD để hệ thống kiến thức một cách khoa học và logic, nội dung bài học được thể hiện trên bản đồ một cách trực quan mà không bị bỏ sót ý. Không những thế, sử dụng BĐTD còn giúp giáo viên tạo ra các hình thức học tập khác nhau, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, phối hợp sử dụng các thiết bị dạy học với nhau…góp phần thiết thực vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. 1. Ứng dụng BĐTD trong giảng dạy môn toán 3.1. Nguyên tắc lập BĐTD Nguyên tắc hoạt động của bản đồ tư duy đúng theo nguyên tắc liên tưởng “ý này gọi ý kia” của bộ não. Ở vị trí trung tâm của bản đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay một khái niệm chủ đạo. Ý trung tâm đó được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1 bằng các nhánh chính. Từ các nhánh chính đó lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp 2 để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế sự phân nhánh cứ 5 tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Chính sự liên kết này tạo ra một bức tranh tổng thể mô tả về ý trung tâm một cách đầy đủ, rõ ràng. *Phương thức tạo lập Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy +Người vẽ sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có thể thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của mình. Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng. +Nên sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh. +Có thể dùng từ khóa, kí hiệu , câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn tượng sâu sắc về chủ đề. Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm + Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi bật. Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm. + Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách dễ dàng. Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ + Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ chỉ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh. + Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian. + Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. + Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…bằng đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn. + Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn. Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn. Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúngvào trí nhớ tốt hơn. 6 3.2. Các biện pháp vận dụng hiệu quả BĐTD - Chuẩn bị kĩ nội dung kiến thức tiết học thông qua bài soạn. - Lựa chọn đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung từng bài. - Chuẩn bị hệ thống câu hỏi, phiếu học tập sao cho phát huy được tính tích cực của học sinh. - Lựa chọn nội dung để giao cho nhóm hay cá nhân . - Thiết kế bản đồ tư duy trên máy tính và trên giấy để tiện cho việc hướng dẫn và đối chiếu với bản đồ tư duy của các nhóm học sinh. - Xây dựng bản đồ tư duy, tùy theo nội dung của từng bài mà lựa chọn cho phù hợp (sử dụng bản đồ tư duy để khai thác kiến thức mới hay để củng cố bài). 3.3. Một số ví dụ về vận dụng BĐTD trong dạy học môn toán lớp 12 Trong dạy học môn toán, giáo viên có thể sử dụng BĐTD hỗ trợ quá trình dạy học cho học sinh ở tất cả các loại bài lên lớp: bài nghiên cứu kiến thức mới; bào luyện tập, củng cố kiến thức,Trong giới hạn của nghiên cứu này, tôi giới thiệu một số cách sử dụng BĐTD trong dạy học toán lớp 12 qua một số dạng bài cụ thể như sau: * Sử dụng BĐTD trong việc giảng bài mới Sử dụng BĐTD là một gợi ý cho cách trình bày mới. Giáo viên thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng BĐTD để thể hiện được 1 phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. Toàn bộ nội dung cần truyền đạt đến học sinh được thâu tóm trên bản đồ mà không bị sót ý. Học sinh thay vì cắm cúi ghi chép thì chọn lọc các thông tin quan trọng, sơ đồ hoá chúng bằng các mối quan hệ và thể hiện lại theo cách hiểu của mình. Với cách học này cả giáo viên và học sinh đều phải tham gia vào quá trình dạy học tích cực hơn. Giáo viên vừa giảng bài vừa thể hiện trên BĐTD hoặc vừa tổ chức cho học sinh khai thác kiến thức vừa hoàn thành BĐTD. Học sinh được nghe giảng, nhìn bản đồ, trả lời câu hỏi, đọc sách giáo khoa, ghi chép…sự tập trung chú ý được phát huy, cường độ học tập theo đó cũng được đẩy nhanh, học sinh học tập tích cực hơn. Ví dụ: Lập bảng đồ tư duy dạy học bài “ Sự đồng biến và nghich biến của hàm số” Đặc điểm của bài này là học sinh đã có khái niệm về sự đồng biến, nghịch biến của hàm số và biết một số tính chất về tính đơn điệu của hàm số. Câu hỏi được đặc ra để gợi ý cho học sinh suy nghĩ để xây dựng BĐTD là: 1. Nhắc lại định nghĩa hàm số đồng biến, hàm số nghịch biến. 7 2. Em hãy cho ví dụ về hàm số đồng biến, hàm số nghịch biến. 3. Hãy xét dấu đạo hàm của mỗi hàm số đó. 4. Hãy nêu nhân xét về mối quan hệ giữa sự đồng biến, nghịch biến của hàm số và dấu của đạo hàm. 5. Từ đó nêu quy tắc xét tính đồng biến, nghịch biến của hàm số. Các câu hỏi của giáo viên là gợi ý để ghi nhánh con cấp 1. Các câu trả lời của học sinh chính là nội dung sẽ được ghi ở nhánh con cấp 2. Giáo viên hướng dẫn, dẫn dắt học sinh xây dựng từng nội dung kiến thức của bài học. Cuối tiết học cho học sinh vá BĐTD dưới dạng sau. Ví dụ: Khi dạy bài “ Lôgarit” qua bài này học sinh cần nắm: định nghĩa, quy tắc tính, công thức đổi cơ số, logarit thập phân, logarit tự nhiên. Nếu giáo viên sử dụng phương pháp trình bày truyền thống thì vấn đề vẫn được giải quyết nhưng hiệu quả không cao vì vấn đề trình bày sẽ dàn trải, hết phép toán này đến phép toán khác, học sinh sẽ không thấy được mối quan hệ và so sánh sự khác nhau giữa các phép toán. Việc thể hiện tất cả các phép toán trên BĐTD xung quanh từ khóa đã mang lại cái nhìn tổng thể, học sinh nhìn vào bản đồ sẽ nhận biết được các phép toán giúp cho việc ghi nhớ dễ dàng không bị nhầm lẫn. Sử dụng BĐTD để thể hiện phần nội dung này là hợp lí vì yêu cầu phù hợp với mọi đối tượng học sinh, thông tin đầy đủ, không mất nhiều thời gian và nội dung được thể hiện rõ ràng. Với bài học này giáo viên cho học sinh lập BĐTD với chủ đề chính là “Logarit”, sau đó giới thiệu định nghĩa, các phép toán để học sinh ghi nhánh con cấp một. Sau khi cho học sinh vẽ BĐTD nội dung tính chất cơ bản logarit, giáo viên cho học sinh ví dụ ứng dụng vào thực hành giải toán. 8 Hình 2. BĐTD Bài “Logarit” 9 * Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ Vì thời gian kiểm tra bài cũ lúc đầu giờ không nhiều chỉ khoảng 5 - 7 phút nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánh…để trả lời câu hỏi. Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo viên sẽ chấm điểm tuỳ vào mức độ thuộc bài của học sinh. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh rơi vào tình trạng học vẹt, đọc thuộc lòng mà không hiểu. Do đó, cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng BĐTD vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Các bản đồ được giáo viên đưa ra ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm. Ví dụ: Khi kiểm tra bài “Cực trị của hàm số” học sinh cần phải nắm được: khái niệm cực trị, quy tắc tìm cực trị, điều kiện để hàm số có cực trị. Do đó giáo viên có thể yêu cầu 1 học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện BĐTD. Việc hoàn thiện thông tin ở các nhánh còn thiếu là một yêu cầu đơn giản, không mất thời gian nhưng nếu học sinh không học bài thì sẽ không điền được thông tin hoặc điền không chính xác. Sau khi đã hoàn thiện BĐTD, giáo viên cho bài tập vận dụng. Đây chính là phần hiểu bài của học sinh mà giáo viên nên căn cứ vào đó để đánh giá và nhận xét. 10 BĐTD kiểm tra bài cực trị của hàm số * Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức Trước đây, giáo viên vẫn thường sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức cho học sinh nhưng học sinh vẫn là người tiếp thu một cách thụ động. Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức bài học là vệc làm rất có hiệu quả . Kết thúc bài giảng, thay vì phải ghi chép theo cách truyền thống, học sinh có thể tự “vẽ” bài học theo cách hiểu của mình với nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau. Đến tiết học sau, chỉ cần nhìn vào sơ đồ, các em có thể nhớ được những phần trọng tâm của bài học. Mặt khác giáo viên có thể sử dụng BĐTD để thể hiện lại những nội dung cơ bản của bài học, tránh bị bỏ sót ý, khắc sâu những kiến thức trọng tâm. Học sinh sử dụng BĐTD để thể hiện lại sự hiểu biết của mình qua việc tiếp thu nội dung bài học, đồng thời là một kênh thông tin phản hồi mà qua đó giáo viên có thể đánh giá nhận thức của học sinh, định hướng cho từng học sinh và điều chỉnh cách dạy, cách truyền đạt của mình cho phù hợp. Với việc giảng 11 dạy bằng BĐTD, nhất là cho học sinh tự phát huy khả năng sáng tạo của mình bằng cách tự vẽ, tự phân bố và thể hiện nội dung bài học qua sơ đồ sau đó yêu cầu các bạn khác bổ sung những phần còn thiếu Ví dụ: Sau khi học xong bài “Bất phương trình mũ và bất phương trình logarit” học sinh cần nắm được bất phương trình cơ bản và phương pháp giải. Phù hợp với mục đích củng cố kiến thức cho học sinh sau bài học này thì dạng bài tập thích hợp là điền thông tin còn thiếu vào BĐTD. Các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội dung toàn bài để một lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của bài học. Giáo viên có thể đưa ra một sơ đồ như hình vẽ. Tiếp theo giáo viên cho học sinh bổ sung nội dung các ý vào mỗi nhánh. BĐTD Bất phương trình mũ và bất phương trình logarit * Sử dụng BĐTD để tổng hợp kiến thức một chương hoặc nhiều bài học Dùng BĐTD có thể thể hiện một lượng thông tin nhỏ đến lớn và rất lớn. Tương tự, giáo viên và học sinh có thể thể hiện một phần nội dung bài học, một bài học hoặc 12 nhiều bài học, một chương kiến thức. Vấn đề là các nội dung này có điểm chung với nhau, có mối quan hệ với nhau thông qua từ khóa. Tùy theo mục đích sử dụng mà có thể thiết kế BĐTD trong giờ học thông thường, trong giờ kiểm tra, giờ thực hành, ôn tập, tổng kết hay hệ thống một chương, một phần kiến thức. Với bài tập này, giáo viên có thể cùng học sinh làm ngay tại lớp hoặc là bài tập giao về nhà cho học sinh, nhóm học sinh. Ví dụ: Khi ôn tập chương “Số phức ” nếu giáo viên hệ thống lại tất cả các kiến thức của cả chương thì sẽ tốn rất nhiều thời gian. Do đó, để tiết ôn tập chương hiệu quả giáo viên giao học sinh chuẩn bị BĐTD ở nhà có thể theo cá nhân hoặc theo nhóm rồi cho một số em báo cáo, thuyết trình BĐTD của mình để cả lớp thảo luận góp ý. Hoặc giáo viên thể đưa ra một sơ đồ như hình vẽ, tiếp theo giáo viên cho học sinh bổ sung nội dung các ý vào mỗi nhánh 13 BĐTD Ôn tập chương Số phức Qua BĐTD tổng kết chương Số phức học sinh có cái nhìn tổng quan về số phức đồng thời sâu các kiến thức về: các định nghĩa, các phép toán và giải phương trình bậc hai trên tập số phức. 4. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm Qua nhiều tiết dạy tôi thấy đa số học sinh hứng thú trong việc sử dụng BĐTD trong quá trình học tập, học sinh ý thức được tầm quan trọng của việc xác định được 14 nội dung trọng tâm trong bài học và trình bày kiến thức theo hệ thống. Qua BĐTD học sinh xác định được trọng tâm vấn đề dễ dàng hơn, ghi nhớ kiến thức được lâu hơn và tiết kiệm được nhiều thời gian ôn tập. Qua khảo sát lấy ý kiến từ phía học sinh tôi thu được kết quả sau, xin đưa ra đây để tham khảo: - Mức độ nhớ bài (%) Không nhớ Rất khó để ghi nhớ Dễ nhớ 5.68 17.05 77.27 Không hứng thú Ít hứng thú Rất hứng thú 4.55 17.05 78.40 Không áp dụng được Áp dụng được Áp dụng tốt 1.14 68.18 30.68 - Hứng thú học tập (%) - Mức độ áp dụng vào học tập (%) Trên đây mới chỉ là ý kiến và kết của một số học sinh mà đa phần là học sinh khá và giỏi, song chắc cũng có nhiều điều để chúng ta cần quan tâm suy nghĩ. Dạy học theo phương pháp truyền thống hay dạy học với BĐTD điều đạt được mục tiêu dạy học nhưng ở các mức độ khác nhau. 3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp Kinh nghiệm này góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở các lớp đang dạy. Mặt khác bài viết này đưa ra một số gợi ý giúp giáo viên giải quyết khó khăn trong việc tổ chức hoạt động dạy học trên lớp với việc thiết kế và sử dụng BĐTD. Trao đổi với đồng nghiệp một phương pháp dạy học mới để cùng quan tâm nhằm thúc đẩy và nâng cao chất lượng giáo dục nơi đang công tác. Trong tiết dạy có sử dụng BĐTD người giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh hoạt động, nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh, kích thích các em đề ra phương án và cách vẽ BĐTD khác…Trong sử dụng BĐTD cần coi khả năng tự học và sáng tạo của học sinh. BĐTD là cái gốc của mọi cái gốc, là học cách học không phải là thần dược cho mọi vấn đề nhưng mà là cái đáng để chúng ta học tập. Giáo viên không nên tuyệt 15 đối hoá vai trò của BĐTD, coi BĐTD là công cụ vạn năng trong dạy học. Bên cạnh đó, việc áp dụng BĐTD vào dạy bài mới một cách thái quá cũng là điều không nên. Mặt khác, việc sa đà vào "trang trí" BĐTD sẽ tốn nhiều thời gian, làm chuyển hướng tư duy về vấn đề cần quan tâm sang tư duy hội hoạ. Khắc phục những điều này BĐTD sẽ thực sự phát huy hiệu quả, là phương pháp dạy học tích cực, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy và học là điều mà ngành giáo dục luôn cố gắng thực hiện để nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, việc thực hiện riêng lẻ nhất định sẽ không mang lại hiệu quả cao mà cần có sự tham gia của tất cả giáo viên và sự ủng hộ của các cấp lảnh đạo. Nhà trường có thể tổ chức cuộc thi ứng dụng BĐTD thiết kế bài giảng điển hình; phát động cuộc thi thiết kế BĐTD trong học tập của học sinh... Việc thực hiện đồng bộ trong một thời gian sẽ khiến hiệu quả của phương pháp dạy học mới này được nâng cao hơn. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đã học hỏi tích lũy được trong thời gian qua, tôi mạnh dạn chia sẻ với các thầy cô, để những ai có nhu cầu thì chúng ta cùng giúp nhau tiến bộ trong nghề nghiệp của mình. Qua đây tôi muốn khẳng định những ưu thế của BĐTD xem đó như một xu thế tất yếu của thời đại ngày nay.Do thời gian chưa nhiều, tìm hiểu còn hạn hẹp nên những vấn đề trình bày trên đây còn hạn chế và không tránh khỏi những sai sót, rất mong có sự góp ý trao đổi thêm của các đồng nghiệp. 3.5. Tài liệu kèm theo: không Bến Tre, ngày 20 tháng 3 năm 2018 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng