Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn thiết kế bài dạy môn gdcd theo định hướng phát triển học sinh thcs...

Tài liệu Skkn thiết kế bài dạy môn gdcd theo định hướng phát triển học sinh thcs

.PDF
22
153
79

Mô tả:

STT 1 2 3 4 5 Nội dung Mục lục I. Phần mở đầu I.1. Lý do chọn đề tài I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài I.3. Đối tượng nghiên cứu I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu I.5. Phương pháp nghiên cứu II. Phần nội dung II.1. Cơ sở lí luận II.1.1. Thiết kế bài dạy II.1.2. Các bước thiết kế bài dạy II.2. Thực trạng của việc thiết kế bài dạy theo đinh hướng năng lực II.2.1. Thuận lợi – Khó khăn II.2.2. Thành công – Hạn chế II.2.3. Mặt mạnh – Mặt yếu II.2.4. Các nguyên nhân và các yếu tố tác động II.2.5. Phân tích đánh giá các vấn đề thực trạng và vấn đề đặt ra II.3. Giải pháp, biện pháp thực hiện II.3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp II.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp II.3.3. Thiết kế giáo án II.3.4. Điều kiện để thực hiện giải pháp biện pháp II.3.5. Mối quan hệ giữa giải pháp biện pháp II.3.6. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. III. Phần kết luận, kiến nghị Tài liệu tham khảo và danh mục viết tắt 1 Trang 1 2 2 3 3 3 3 4 4 4 4 8 8 9 9 10 11 12 12 13 13 17 17 17 19 21 I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài: Đầu tư cho giáo dục là nền tảng thúc đẩy xã hội phát triển, thực hiện “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Đảng và nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến giáo dục, coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, các ngành học, cấp học, bậc học thường xuyên chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục. Một trong những nội dung quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đó là đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của người học. Luật giáo dục năm 2005 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy được tính tích cực, tự giác chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, tự lĩnh hội tri thức, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm tin, hứng thú cho học sinh”. Thực hiện chủ trương đó Đảng và nhà nước ta đã không ngừng quan tâm tới việc đổi mới phương pháp giáo dục, quan điểm giáo dục và mục tiêu giáo dục ở tất cả các cấp học, các môn học đặc biệt là môn giáo dục công dân ở THCS. Một trong những đổi mới quan trọng và cấp thiết nhất đó là dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Học sinh không chỉ tiếp thu kiến thức mà còn phải biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống hàng ngày để ứng xử và hành động có hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống, được hình thành các năng lực cần thiết để làm hành trang bước vào cuôc sống hiện đại đầy nguy cơ, thách thức và nhiều cơ hội để phát triển, hòa nhập với xu thế chung của thế giới và tránh tụt hậu và lạc hậu so với các nước tiên tiến. Để hình thành năng lực cho học sinh thì yếu tố đầu tiên quan trọng là người giáo viên phải biết thiết kế bài dạy một cách khoa học và sáng tạo theo các phương pháp mới để hình thành những năng lực cần thiết cho người học. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đòi hỏi đội ngũ nhà giáo đặc biệt là giáo viên giảng dạy môn GDCD trong trường phổ thông không những phải có năng lực chuyên môn vững vàng, biết đúc rút những kinh nghiệm qua giảng dạy hàng ngày, có đạo đức lối sống trong sáng, lành mạnh, có tâm với nghề mà còn phải nắm bắt chính xác và vận dụng một cách khoa học, có chọn lọc và phù hợp phương pháp “Dạy học theo đinh hướng năng lực” vào bài dạy, nhằm giúp người học lĩnh hội tri thức sâu sắc, hình thành các năng lực cần thiết cho học sinh, hình thành thái độ niềm tin và hành động đúng đắn. Việc thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực môn GDCD ở trường THCS nói chung và trường THCS Lê Lợi nói riêng đang là một vấn đề còn nhiều lúng túng chưa mang lại hiệu quả. Bởi lẽ một số giáo viên còn ít quan tâm đến việc đầu tư trong giảng dạy, một số giáo viên do năng lực còn hạn chế nên việc nắm bắt các nội dung mới vào giảng dạy môn GDCD ở các trường là một vấn đề khó khăn. Vì đây là một trong những nội dung mới và khó nhưng nó mang lại 2 hiệu quả giáo dục cao, phát huy tối đa tính sáng tạo, tư duy logic và khả năng tự học, tự tìm tòi khám phá tri thức, hình thành năng lực cho học sinh. Chính vì những lí do trên tôi chọn đề tài: “THIẾT KẾ BÀI DẠY MÔN GDCD THEO ĐINH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH THCS”. I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: I.2.1. Mục tiêu: Nghiên cứu đề tài nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học môn GDCD THCS. Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Giúp giáo viên vận dụng sáng tạo dạy học theo định hướng năng lực phù hợp với tình hình học sinh của mình và học sinh không những nắm bắt nội dung bài học mà còn vận dung một cách linh hoạt và hiệu quả kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày. I.2.2. Nhiệm vụ của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu lí luận chung về thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực và vận dụng thiết kế một bài dạy cụ thể trong phần pháp luật môn GDCD lớp 7 ở trường THCS. I.3. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về lí luận chung về thiết kế bài dạy, định hướng phát triển năng lực trong thiết kế bài dạy, qui trình thiết kế bài dạy theo định hướng phát triển năng lực người học. I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Do năng lực và thời gian có giới hạn nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu lí luận chung về thiết kế bài dạy, định hướng phát triển năng lực trong thiết kế bài dạy, qui trình thiết kế bài dạy theo định hướng phát triển năng lực người học. Vận dụng thiết kế một tiết dạy GDCD lớp 7 theo định hướng phát triển năng lực học sinh. I.5. Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện đề tài này tôi vận dụng các phương pháp cơ bản sau: Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Phương pháp tư duy logic Phương pháp điều tra Phương pháp phân tích, tổng hợp, suy luận. 3 II. PHẦN NỘI DUNG II. 1. Cơ sở lí luận: II. 1.1. Thiết kế bài dạy Thiết kế bài dạy học bao gồm giáo án và toàn bộ những suy nghĩ, ý định của GV về quá trình dạy học sẽ diễn ra trong tiết dạy. Kết quả thứ nhất được thể hiện rõ ràng ở ngay trên giấy; còn kết quả thứ hai thì lại thường không thể hiện trên giấy mà nằm tiềm ẩn trong suy nghĩ, ý định của GV. II.1.2. Các bước thiết kế bài dạy học môn GDCD theo hướng đổi mới Việc thiết kế phương án dạy học từng đơn vị kiến thức cụ thể (từng bài học) phải tuân theo một quy trình nhất định. Quy trình đó bao gồm những bước sau đây: 1. Xác định mục tiêu dạy học: Học xong bài này HS có được cái gì? 2. Xác định nội dung: Dạy cái gì? 3. Xác định các PPDH tương ứng với từng nội dung cụ thể và những phương tiện dạy học cần thiết: Dạy như thế nào? 4. Xác định hình thức tổ chức dạy học: lớp, nhóm; xemina, ... 5. Xác định tiến trình hoạt động dạy học cụ thể. Xác định mục tiêu dạy học cụ thể Sự cần thiết phải xác định mục tiêu dạy học và năng lực cần hình thành ở học sinh Mục tiêu là cái đích cần phải đạt tới sau mỗi bài học, do chính GV đề ra và phải thực hiện để đạt được. Để đạt được mục tiêu dạy học, chúng ta cần phải thiết kế phương án dạy học thích hợp cho từng nội dung cụ thể. Phương án đó phải thể hiện rõ vai trò của thầy giáo trong việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động học tập của HS và vai trò của HS trong việc tích cực, tự lực, chủ động và sáng tạo tìm kiếm và thu nhận tri thức. Vì vậy, muốn thiết kế được phương án dạy học cho từng bài học cụ thể trước hết giáo viên cần phải xác định rõ mục tiêu của tiết học. Để xác định mục tiêu từng bài học giáo viên cần suy nghĩ để trả lời các câu hỏi sau: - Qua bài học cần trang bị cho HS kiến thức gì? - Bài học góp phần hình thành và phát triển ở HS các thao tác tư duy nào? - Qua bài học có thể góp phần giáo dục HS như thế nào? - Bằng con đường nào để HS chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng trong bài học? - Các biện pháp cần thiết nào để chỉ đạo và tích cực hoá hoạt động học tập của HS, đảm bảo cho HS chiếm lĩnh được kiến thức, kỹ năng cần thiết một cách sâu sắc, vững chắc? - Các kết quả sau khi học mà HS cần thể hiện là gì? (xác định đầu ra) Mục tiêu dạy học Mục tiêu dạy học được thể hiện trên 3 mặt, đó là: Kiến thức, kỹ năng và thái độ, tình cảm và tác phong. Cách xác định mục tiêu 4 Căn cứ để xác định mục tiêu bài học là phải dựa vào nhiệm vụ dạy học bộ môn, nội dung chương trình SGK, mà trước hết là nội dung cụ thể của bài dạy. Vì vậy GV phải đọc kỹ SGK, tìm hiểu tài liệu tham khảo, trao đổi với đồng nghiệp để nắm đựoc nội dung của từng phần trong bài bài dạy, hiểu được ý đồ của SGK nhằm xác định được cái cần đạt tới, cái mà HS phải có về mặt kiến thức, kỹ năng và thái độ, tác phong và tình cảm sau khi học xong từng phần của bài học và toàn bài học. Xác định năng lực cần hình thành ở học sinh qua mỗi bài dạy Học sinh phổ thông được hình thành và phát triển các năng lực chung và năng lực chuyên biệt Các năng lực chung Nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân - Năng lực tự học - Năng lực giải quyết vấn đề - Năng lực tư duy - Năng lực tự quản lý Nhóm năng lực về quan hệ xã hội - Năng lực giao tiếp - Năng lực hợp tác Nhóm năng lực công cụ - Năng lực sử dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông (ICT) - Năng lực sử dụng ngôn ngữ - Năng lực tính toán Năng lực chuyên biệt - Tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội. - Tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng đất nước. - Giải quyết vấn đề các nhân và hợp tác giải quyết vấn đề xã hội. Xác định kiến thức cơ bản, trọng tâm của bài dạy và cấu trúc các đơn vị kiến thức đó theo ý đồ dạy học. Lựa chọn các đơn vị kiến thức cơ bản Kiến thức cơ bản là những kiến thức phản ánh bản chất của sự vật, hiện tượng. Trong môn GDCD ở THPT, kiến thức cơ bản là những khái niệm, hệ thống các khái niệm, các phạm trù, các quy luật, các nguyên lý về sự vật, hiện tượng và sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan (tự nhiên, xã hội, con người,...) Quy trình lựa chọn kiến thức cơ bản. - Tìm mục tiêu của bài dạy học và của từng phần trong bài. - Xác định nội dung cơ bản của bài, của từng phần trong bài với các khái niệm (hệ thống các khái niệm), các mối quan hê, các quy luật, các hiện tượng tiêu biểu. 5 - Xác định kiến thức trọng tâm của bài (là một bộ phận của kiến thức cơ bản nhưng có vị trí then chốt, có vai trò chi phối các đơn vị kiến thức khác). Nắm vững kiến thức trọng tâm thì có thể tạo cơ sở để hiểu các đơn vị kiến thức khác trong bài. Kiến thức trọng tâm này thường được bố trí gọn trong một hoặc hai mục của bài, nhưng cũng có thể nằm xen kẽ ở các mục khác nhau của bài. Xác định các phương pháp và kĩ thuật dạy học Trong thiết kế bài dạy học, việc lựa chọn PPDH, KTDH có tính quyết định đến việc thực hiện mục tiêu và chất lượng (hiệu quả) bài dạy. Để lựa chọn PPDH, KTDH thích hợp đối với bài dạy, GV thường dựa vào các cơ sở sau đây: Một là: Căn cứ vào mục tiêu của bài dạy Hai là: Căn cứ vào nội dung của bài dạy Ba là: Căn cứ vào các giai đoạn của quá trình nhận thức. Bốn là: Căn cứ vào đối tượng học sinh. Năm là: Căn cứ vào điều kiện vật chất của việc dạy học Sáu là: Căn cứ vào năng lực, tay nghề của GV. Lựa chọn PPDH nào, thì điều quan trọng nhất chính là ở chỗ, PPDH đó phải “phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS” (Luật giáo dục. 2005. Điều 28). Xác định các hình thức tổ chức dạy học Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học nào thích hợp nhất tùy thuộc vào nhiều yếu tố (mục tiêu, nội dung, đối tượng HS, điều kiện thời gian, phương tiện và PPDH,...) Thường thì đối với những nội dung không quá khó, vừa sức, GV có thể tổ chức cho HS học cá nhân với SGK để nắm kiến thức, làm các bài tập, trả lời các câu hỏi,... - Đối với những nội dung có nhiều vấn đề mà một cá nhân không thể giải quyết thấu đáo thì có thể tổ chức làm việc theo nhóm nhỏ. - Đối với những vấn đề có thể gây ra những cách hiểu khác nhau, thì có thể tổ chức học cả lớp (để tranh luận, thảo luận nhằm tìm được tiếng nói thống nhất). “Cả lớp là một nhóm” chỉ nên sử dụng hạn chế, với thời gian ngắn để giải quyết một vấn đề cần thiết, vì đây là hình thức tổ chức dạy học ít phát huy được tính tích cực học tập của nhiều HS, và tạo sự ỷ lại của một bộ phận HS trong lớp. Nói chung, trong một tiết lên lớp, các hình thức tổ chức dạy học cần đa dạng, phối hợp chặt chẽ để sao cho HS có thể vừa bộc lộ được tính tích cực cá nhân, vừa học được bạn, vừa được học thầy. Xác định phương tiện dạy học GDCD là một môn học tiềm năng về hệ thống các phương tiện dạy học phong phú và đa dạng. Bởi vậy, việc lựa chọn và sử dụng các thiết bị và 6 phương tiện dạy học càng cần phải được quan tâm đúng mức. Đối với GV giảng dạy môn GDCD để chủ động trong việc lựa chọn, khai thác và sử dụng các phương tiện dạy học nên tạo cho mình kho tư liệu riêng. Xác định tiến trình dạy học trên lớp Thông thường, tiến trình lên lớp ở mỗi tiết học bao gồm các bước cơ bản sau : - Ổn định tổ chức lớp - Kiểm tra bài cũ. - Tổ chức cho HS lĩnh hội tri thức mới (trước khi thực hiện bước này có hoạt động mở đầu bài học). - Củng cố bài học - Hướng dẫn hoạt động nối tiếp. Xác định hình thức củng cố, đánh giá và tập vận dụng tri thức của học sinh Ở bước này, trong thực tế, GV có nhiều cách thực hiện: - Có GV nhắc lại các đề mục của bài học. - Có GV nhắc lại những nội dung chính, cơ bản của bài và yêu cầu HS cần học ở nhà nội dung nào, làm những bài tập gì, cần chuẩn bị gì cho tiết học sau,... Những hình thức này thường không mang lại hiệu quả, bởi vì: + HS không nhận đựơc cái gì mới hơn. + Buộc HS phải ghi nhớ (thậm chí phải ghi nhớ máy móc) những kiến thức vừa mới học. + GV không đánh giá được mức độ hiểu và khả năng vận dụng của HS + Không tạo được thái độ tích cực của HS (HS thờ ơ, không chú ý, ồn ào, vô cảm,...). + Có khi đó còn là biểu hiện của sự cẩu thả đối với nghề, thái độ vô trách nhiệm đối với HS, hời hợt đối với bài dạy. Thông thường, việc củng cố, đánh giá được tiến hành khi kết thúc phần “tổ chức lĩnh hội tri thức mới” nhằm xem xét mục tiêu bài dạy đã đạt được chưa?. Đạt ở mức độ nào?... Do đó có nhiều cách khác nhau để thực hiện bước này. Yêu cầu cơ bản của việc củng cố, đánh giá là phải dựa vào mục tiêu của bài học, nhằm vào kiến thức cơ bản, trọng tâm của bài. Vì vậy hình thức củng cố đánh giá ( bằng câu hỏi, bài tập tình huống ,...) đều phải tập trung vào nội dung này, một mặt giúp HS nắm vững và vận dụng được tri thức; mặt khác, qua đó GV biết được HS đã hiểu và có khả năng vận dụng được hay không. Điều cần nhấn mạnh: thiết kế bài dạy học cụ thể là sản phẩm mang dấu ấn riêng của mỗi GV. Do đó, sẽ không có cái gọi là “thiết kế bài dạy mẫu” mang tính “chuẩn mực” để mọi GV làm theo, sử dụng. Song, dù sáng tạo mang nét riêng như thế nào, thì mọi GV đều có một cái khung thiết kế bài dạy học có tính chung nhất. (còn việc đưa cái gì, tổ chức các đơn vị kiến thức như thế nào, sử dụng PPDH nào,... là cái riêng của từng GV được thể hiện trong cái khung 7 chung này). Hiện nay, một số bước thiết kế bài dạy học được một số trường phổ thông chỉ đạo phải giản lược đi như các bước xác định trọng tâm, xác định hình thức tổ chức dạy học, thay vào đó là những bước mới như xác định các kĩ năng mà HS cần đạt được trong tiết dạy. II.2. Thực trạng của việc thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực trong giảng dạy GDCD ở trường THCS Lê Lợi trong thời gian qua: II.2.1. Thuận lợi - Khó khăn: Thuận lợi: Việc thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực trong giảng dạy GDCD ở THCS đã được tập huấn từ cấp sở đến cấp phòng và cả nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện giúp giáo viên tiếp cận, học tập một cách có hiệu quả các nội dung tập huấn mới như dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Tất cả các các giáo viên đã được tập về thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực nên việc thực hiện trong quá trình giảng dạy mang tính đồng bộ, toàn diện và có thể trao đổi học hỏi lẫn nhau trên nhiều phương diện. Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, của địa phương và đặc biệt là nhà trường tăng cường mua sắm trang thiết bị như máy chiếu, bảng tương tác, tranh ảnh, sách báo có liên quan nên việc thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực bước đầu đã mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi trên thì việc thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực trong giảng dạy GDCD còn gặp không ít những khó khăn: Do điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật của nhà trường còn thiếu, các văn bản pháp luật mới chưa được cập nhật kịp thời, các tranh ảnh đã cũ chưa cập nhật tranh ảnh mới nên việc thiết kế bài dạy theo định hướng phát triển năng lực phù hợp với điều kiện địa phương vùng sâu, phù hợp với điều kiện học sinh vùng sâu là một phương pháp quan trọng đòi hỏi người giáo viên phải tìm tòi sáng tạo ra những bài dạy có đổi mới nhưng phù hợp với đặc điểm địa phương. Dạy GDCD là dạy đạo đức và pháp luật nên liên quan đến rất nhiều vấn đề thời sự, luật mà những vấn đề này lại thay đỏi thường xuyên liên tục từ sửa đổi này đến sửa đổi khác nên việc thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực gặp rất nhiều khó khăn. Đó là sự lúng túng của giáo viên khi mới tiếp cận, thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực. Học sinh còn bỡ ngỡ khi tham gia vào các hoạt động cần thực hiện trong giờ học. Một số giáo viên ý thức soạn bài dạy theo định hướng năng lực còn qua loa, chiếu lệ coi đó là những vấn đề chưa cần tiếp cận phải chờ thay sách giáo khoa mới thực hiện nên coi nhẹ, không đầu tư. Dạy học theo mô hình mới còn nhiều lúng túng, chưa có kinh nghiệm. Về phía học sinh do địa bàn cư trú của các em rất rộng, sống rải rác không tập trung, nhiều em nhà ở rất xa trường, nằm trong các khu rẫy rất xa trường, địa hình hẻo lánh, đi lại khó khăn, thiếu điện, đường giao thông không thuận tiện nên điều kiện đi lại, nghe nhìn, nắm bắt thông tin còn chậm, đa số 8 các gia đình phụ huynh chưa có điều kiện kết nối mạng. Học sinh chưa quen với cách học tập mới, trình độ hoc sinh chưa đồng đều, còn nhiều em rất chậm trong việc thực hiện các thao tác trong giờ học nên cũng mang lại không ít những khó khăn khi thiết kế bài dạy theo định hướng phát triển năng lực học sinh. II.2.2. Thành công – Hạn chế: Thành công: Tìm hiểu và thiết kế bài dạy – dạy học theo định hướng năng lực trong giảng dạy GDCD ở THCS phù hợp với đặc thù của trường và địa phương đã mang lại nhiều thành công trong quá trình dạy học phát huy tính tích cực chủ động của người học. Đồng thời kích thích các kĩ năng tự học, thực hành, tự tìm tòi, khám phá của học sinh ngay trong giờ học. Ví dụ: Khi dạy bài 14 “Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên” GDCD 7 để hình thành cho học sinh năng lực hợp tác và giải quyết các vấn đề xã hội giáo viên cho học sinh lập dự án tìm hiểu: Tình hình môi trường ở địa phương có những biểu hiện gì tốt và chưa tốt. Nguồn gây ô nhiễm, các hình thức gây ô nhiễm (bãi rác, ao hồ, chất thải…). Biện pháp ngăn chặn, xử lí những biểu hiện chưa tốt về bảo vệ môi trường ở địa phương? Từ dự án này học sinh rất dễ thực hiện bằng phương pháp trực quan của các em. Vì vậy các em say sưa tìm hiểu thực hiện dự án và đưa ra biện pháp rất thiết thực hiệu quả giúp làm sạch cảnh quan, hạn chế ô nhiễm môi trường. Bản thân luôn cố gắng tìm tòi, phát hiện những phương pháp cách thức sử dụng phương tiện dạy học đơn giản nhất, dễ làm, dễ thực hiện nhất áp dụng vào thiết kế bài dạy để đem lại hiệu quả cao trong tiết dạy. Áp dụng cái mới mà không khô khan, gò bó, cái mới, phương pháp dạy học mới, cách thiết kế mới mà không xa lạ vẫn gần gũi với học sinh để mang lại hiệu quả cao. Ví dụ khi dạy bài 14 “Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên” GDCD 7 ở hoạt động ứng dụng giáo viên hỏi: bạn nào thường sử dụng rất nhiều nước cho sinh hoạt hãy dơ tay? Hạn chế: Bên cạnh những thành công cũng còn một số hạn chế cần quan tâm. Nếu giáo viên không đầu tư nghiên cứu thực hiện phương pháp tổ chức học tập phù hợp, năng động sáng tạo thì sẽ biến các nội dung bài dạy đi lệch hướng mục tiêu giáo dục, tạo điều kiện cho học sinh ngồi nói chuyện, làm việc riêng, thụ động trong học tập, không nắm được bài học. Ví dụ trong khi thảo luận nhóm nếu giáo viên không quan sát, nắm bắt và tháo gỡ những khó khăn khi các em thảo luận thì một là chỉ có một học sinh khá thực hiện nhiệm vụ thầy, cô giao còn các bạn khác ngồi im dựa dẫm vào các bạn học khá giỏi, hai là khó quá cả nhóm không tìm ra câu trả lời cũng dẫn đến ngồi nói chuyện riêng, làm việc riêng… II.2.3. Mặt mạnh – mặt yếu: Mặt mạnh: Trường THCS Lê Lợi có truyền thống đi đầu trong việc triển khai và thực hiện tốt các phong trào, các văn bản chỉ đạo về công tác chuyên môn của ngành giáo dục. Do đó ngay từ khi được tập huấn dự án vùng khó cho 5 tỉnh Tây nguyên năm học 2014 – 2015, phòng giáo dục và nhà 9 trường đã chỉ đạo tập huấn cho tất cả các giáo viên thực hiện dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Đa số giáo viên trong nhà trường luôn tự giác học hỏi tìm tòi và thực hiện tốt việc dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Học sinh của trường phần đông các em rất tích cực tự giác học tập và thực hiện phương pháp học tập theo hướng đổi mới dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của giáo viên. Thiết kế bài dạy theo định hướng phát triển năng lực học sinh phù hợp với đặc điểm của trường sẽ giúp học sinh không những nắm được kiến thức bài học mà còn biết vận dụng để giải quyết các tình huống, sự việc… ngay trong cuộc sống hàng ngày. Ví dụ khi dạy bài Biết ơn GDCD 6 học sinh không những hiểu được thế nào là biết ơn mà còn phải rèn luyện được đức tính biết ơn đối với những người đã giúp đỡ mình với Đảng, nhà nước, các anh hùng liệt sĩ…. Mặt yếu: Trình độ công nghệ thông tin của giáo viên còn hạn chế, điều kiện cơ sở vật chất còn chưa đáp ứng kịp thời. Khả năng tiếp cận thông tin của học sinh còn chậm nên buộc giáo viên phải có những biện pháp phù hợp để thiết kế bài dạy sao cho phù hợp với điều kiện của bản thân, nhà trường và học sinh nơi mình công tác. Học sinh của trường mỗi khi giao bài về nhà các em rất ít thực hiện, không chịu sưu tầm, tìm hiểu, không chuẩn bị bài mới chiếm đa số. II.2.4. Các nguyên nhân và các yếu tố tác động: Nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành nhân cách học sinh. Mặt trái của nền kinh tế thị trường có tác động tiêu cực đến đời sống, tâm lí của giáo viên và học sinh. Đó là đạo đức xuống cấp, có nhiều em hoc sinh ra đường gặp thầy, cô không chào, giáo viên ngoài việc dạy học còn lo làm kinh tế nên các ngành các cấp đã kịp thời tìm ra phương pháp cải tiến cách dạy và học cho giáo viên và học sinh để thay đổi và phát triển chiến lược giáo dục 2011 – 2020. Một số giáo viên chưa đầu tư công sức trong việc thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực, có giáo viên tập huấn rồi vẫn còn mơ hồ trong việc thiết kế bài dạy theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Phương tiện nghe nhìn của nhà trường và giáo viên còn thiếu chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới. Cách dạy và học theo định hướng nội dung đã là một lối mòn ăn sâu vào giáo viên và học sinh từ xưa đến nay làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự thay đổi cách thức dạy và học mới. Cách thiết kế bài dạy theo năng lực đòi hỏi học sinh phải làm việc nhiều, chuẩn bị nhiều, nếu học sinh không chuẩn bị thì bài giảng không thể thành công. 10 Mặt khác lòng đam mê, tâm huyết đã thôi thúc tôi phải nghiên cứu để làm thế nào kích thích được tính sáng tạo, chủ động, tìm tòi khám phá của học sinh. Chính vì thế mà việc dạy học đặc biệt là thiết kế bài dạy theo định hướng phát triển năng lực học sinh phù hợp với điều kiện của địa phương, của trường và đặc điểm học sinh là vô cùng quan trọng cần phải thực hiện. II.2.5. Phân tích đánh giá các vấn đề thực trạng và vấn đề đặt ra: Về phía giáo viên: Một số giáo viên lúng túng của giáo viên khi mới tiếp cận, thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực. Ví dụ trong hoạt động ứng dụng giáo viên không biết cho học sinh ứng dụng cái gì, làm gì để vận dụng nội dung bài học vào thực tiễn. Mặt khác tủ sách pháp luật còn thiếu các văn bản pháp luật mới hiện tại rất khó tìm mua để phục vụ bài dạy buộc giáo viên phải đầu tư rất nhiều thời gian công sức để tìm tài liệu. Một số giáo viên thờ ơ không chịu thay đổi, nắm bắt các nội dung mới, luật mới để phục vụ bài dạy. Dạy GDCD là dạy đạo đức và pháp luật nên liên quan đến rất nhiều vấn đề thời sự, luật mà những vấn đề này lại thay đòi hỏi thường xuyên liên tục, từ sửa đổi này đến sửa đổi khác nên việc thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy vấn đề đặt ra là người dạy phải biết sử dụng phương pháp thiết kế bài dạy sao cho phù hợp với điều kiện bản thân, điều kiện nhà trường và điều kiện của học sinh để bài dạy đạt hiệu quả. Ví dụ dạy bài 16 lớp 7: Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo giáo viên phải cập nhật nội dung điều 24 HP 2013 và BLHS 2015 “Đ164. Tội xâm phạm quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo của người khác” làm thành phiếu học tập để học sinh tìm hiểu để hình thành kiến thức mới ở bài học thông qua những hiện tượng, câu chuyện có thật ở địa phương để thực hiện thiết kế bài dạy. Về phía học sinh: Những ngày đầu khi áp dụng dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh đúng với mẫu thiết kế giáo án được tập huấn chúng tôi gặp không ít khó khăn vì học sinh chưa quen với cách tự làm lấy, tự tìm tòi, tự kết luận và tự ghi chép nội dung bài học. Việc xây dựng dự án và thực hiện dự án như dự án “Làm thế nào để có tín ngưỡng mà không mê tín, không bị lợi dụng, mê hoặc” ở bài 16 lớp 7 hay dự án “Xây dựng và thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên” là rất khó khăn, học sinh không biết làm, không chịu làm chỉ học thuộc bài đã là hiếm. Mỗi khi giáo viên giao nhiệm vụ về nhà tìm hiểu hiến pháp 2013 qui định về quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo là vô cùng khó vì hầu hết gia đình các em không kết nối internes. Hay ở bài 18 lớp 7: “Bộ máy nhà nước cấp cơ sở” vì địa bàn rộng học sinh cư trú ở vùng sâu nhiều, điều kiện đi lại khó khăn nên khi giáo viên yêu cầu các em đi tìm hiều bộ máy nhà nước cấp cơ sở ở địa phương gồm có những cơ quan nào mỗi cơ quan có bao nhiêu người họ làm 11 việc hiệu quả ra sao? là rất khó khăn, nhiều em không thể đi tìm hiểu, thậm chí không muốn đi tìm hiểu, học tập thụ động, dựa dẫm ỉ lại. II.3. Giải pháp, biện pháp thực hiện: II.3.1. Mục tiêu của giải pháp biện pháp: Mục tiêu của việc thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, hình thành cho học sinh các năng lực cần thiết để hội nhập trong giai đoạn mới với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. II.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp biện pháp: Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực vào bài dạy. Thiết kế bài dạy gần gũi, sát với điều kiện thực tế của địa phương. Đặt câu hỏi gần gũi với học sinh. Yêu cầu các em thực hành phù hợp với điều kiện cho phép, khả năng của các em. Khi dạy bài thực hiện trật tự an toàn giao thông lớp 6 để thu hút học sinh vào bài học giáo viên phải có những dẫn chứng thực tế: Khi dạy phần thông tin sự kiện giáo viên phải cập nhật số liệu mới nhất ví dụ: “Theo Ủy ban ATGT Quốc gia (ngày 15 tháng 11 năm 2015) “Mỗi ngày ở Việt Nam có hơn 20 gia đình mất đi người thân, 70 người tàn phế suốt đời do TNGT. Không những thế đây còn là nỗi đau nặng nề cho người ở lại. Những đứa trẻ bỗng chốc trở thành mồ côi. Những gia đình yên ấm trở thành bất hạnh, trong nháy mắt khi vợ mất chồng, cha mẹ mất con, hay những mối tình đẹp mãi mãi chôn vùi nơi hoang lạnh”. ? Nguyên nhân gây tai nạn là do đâu? Nguyên nhân nào là phổ biến nhất? ? Chúng ta phải làm thế nào để tránh được tai nạn giao thông, bảo đảm an toàn khi đi đường? Học sinh cùng nhau trao đổi 2 câu hỏi để tìm ra kiến thức mới. Giao nhiệm vụ cho học sinh mà không cầu kì, phức tạp khiến các em khó thực hiện, không đơn giản làm mất đi tính sáng tạo của các em. Ví dụ khi dạy bài 6 lớp 8 “Xây dựng tình ạn trong sáng lành mạnh” để giúp học sinh khám phá trải nghiệm tôi đặt câu hỏi: Em có bao nhiêu người bạn? Trong một năm qua em thấy người bạn nào đã đem đến cho em nhiều niềm vui, sự ấm áp, dễ chịu nhất và người bạn nào đã khiến em phải lo lắng, khó chịu, bực mình nhất khi tiếp xúc hayc trao đổi trải nghiệm của em với cô giáo và các bạn? Với câu hỏi trên vừa gần gũi vừa dễ thực hiện mà đem lại hứng thú học tập và đồng thời cũng mang lại hiệu quả cao Trong giáo án thiết kế luôn đặt những câu hỏi gần gũi với cuộc sống hàng ngày, giao những nhiệm vụ và đặt kế hoạch cho học sinh thực hiện không được quá khó. Lời giảng, tình cảm của giáo viên trong bài dạy phải thu hút được niềm đam mê của học sinh, khả năng hứng thú học tập cho học sinh. Những hình ảnh, phương tiện sử dụng trong giáo án phải đủ thuyết phục, phù hợp với điều kiện cho phép của nhà trường, giáo viên và học sinh. 12 Bài dạy đạt hiệu quả giáo dục thì người giáo viên phải không ngừng tìm tòi, sáng tạo, sao cho bài dạy có hiệu quả mà gần gũi, có đổi mới mà không xa lạ, học sinh không những nắm được nội dung bài học mà còn phải biết vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các tình huống giáo dục vẫn tiếp diễn hàng ngày. Ví dụ: Khi dạy bài 18 GDCD 7 “Bộ máy nhà nước cấp cơ sở” học sinh không những nắm được các cơ quan như hội đồng nhân dân xã, ủy ban nhân dân xã do ai bầu ra, có nhiệm vụ gì? Mà học sinh còn phải biết: muốn sao giấy khai sinh, xác nhận lí lịch thì đến đâu? Muốn khai báo tạm trú, tạm vắng, đăng kí hộ khấu phải đến cơ quan nào? Với những câu hỏi này học sinh sẽ trả lời được và chính câu trả lời đó đã hình thành năng lực cho các em. Vì cách dạy mới là học sinh phải tự học, tự tìm tòi, cái tự tìm tòi này có thành công hay không là ở cách thiết kế của giáo viên trong bài dạy. Nắm được các bước thiết kế bài dạy giáo viên cần vận dụng linh hoạt bởi không có một giáo án nào là khuôn mẫu, không có cách thực hiện nào là vạn năng, mỗi cách sẽ có ưu và nhược điểm nhất định. Điều quan trọng là khi thiết kế bài dạy giáo viên phải linh động ở từng lớp khác nhau thì ứng biến sao cho phù hợp và hiệu quả. Ở phần lí luận đã viết: thiết kế bài dạy bao gồm giáo án và toàn bộ những suy nghĩ, ý định của GV về quá trình dạy học sẽ diễn ra trong tiết dạy. Kết quả thứ nhất được thể hiện rõ ràng ở ngay trên giấy; còn kết quả Thứ hai thì lại thường không thể hiện trên giấy mà nằm tiềm ẩn trong suy nghĩ, ý định của giáo viên. Vì vậy ở mỗi lớp ý tưởng tiềm ẩn ấy lại được thể hiện, bộc lộ theo những nét riêng mà người giáo viên phải biết khai thác, kích thích, chỉ đạo, hướng dẫn học sinh sao cho đi đúng hướng bài học cần đạt, phù hợp với đặc điểm từng lớp nhưng lại mang lại hiệu quả giáo dục. Ví dụ khi dạy bài 12 lớp 9: “Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân” phần trọng tâm là quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân, Với lớp 9a3,4 gia đình các em có mạng các em chuẩn bị được bài ở nhà thì giáo viên chỉ cần yêu cầu các nhóm tóm tắt về điều kiện kết hôn, các điều cấm kết hôn, điểm mới của luật hôn nhân và gia đình 2014 qui định về những người đồng giới là gì? Đó là điều dễ dàng cho các em, các em sẽ say sưa thảo luận, tự tìm hiểu và rất tích cực kể cả những em xưa nay vẫn ngồi im nhưng với cách giao bài như thế tự nhiên giáo viên cảm thấy học sinh này từ xưa đến nay trầm lặng mà giờ lại năng động, thông minh khác thường. Nhưng đối với một lớp như 9a6 đa số học sinh học thụ động thì buộc giáo viên phải cung cấp luật hôn nhân và gia đình vào giấy A4 phát phiếu học tập cho học sinh, rồi yêu cầu học sinh tự so sánh với SGK xem về điều kiện kết hôn, các điều cấm kết hôn, điểm mới của luật hôn nhân và gia đình qui định về những người đồng giới là gì? Thì học sinh cũng sẽ hăng say tìm tòi, tích cực nhưng nếu giáo viên tỏ ra không hài lòng về học sinh không chuẩn bị bài mà la mắng, trách các em thì học sinh đã không chuẩn bị mà còn không muốn học bài mới. 13 II.3. 3. Thiết kế một giáo án dạy học môn GDCD lớp 7 bài 16 theo định hướng phát triển năng lực học sinh THCS : CHỦ ĐỀ: QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO (2 tiết) TIẾT 27: TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM (Tiết 1) A. Mục tiêu: 1. Kiến thức: - Hiểu thế nào là tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. - Kể tên một số tín ngưỡng, tôn giáo chính ở nước ta. - Nhận biết các tôn giáo thông qua đặc điểm, hình ảnh tượng trưng. 2. Kĩ năng: - Biết phát hiện và báo cho người có trách nhiệm về những hành vi lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để làm những việc xấu. 3. Thái độ: - Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người khác. - Đấu tranh chống các hiện tượng mê tín dị đoan và các hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo. 4. Các nội dung cần tích hợp: Tích hợp giáo dục kĩ năng sống: Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài: - Kĩ năng phân tích so sánh về sự khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo; giữa tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan. - Kĩ năng thu thập và xử lí thông tin về tình hình tôn giáo ở nước ta và chính sách của nhà nước về tôn giáo. - Kĩ năng tư duy phê phán đối với những việc làm lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo - Kĩ năng kiên định; tự tin, biết từ chối không tham gia những hoạt động mê tín dị đoan. 5. Phương pháp/ Kĩ thuật dạy học có thể sử dụng trong bài: - Phương pháp: Thảo luận nhóm, kíck thích tư duy, liên hệ thực tế, đàm thoại, thuyết trình, giải quyết vấn đề, sắm vai. - Các kĩ thuật dạy học có thể sử dụng: Xử lí tình huống. Trình bày một phút. Bản đồ tư duy. - Tài liệu và phương tiện: SGK, SGV, HP 2013, BLHS 2015 Đ 129. 6. Xác định năng lực cần đạt trong chủ đề: Năng lực tư duy phê phán, năng lực quan sát và nhận biết, năng lực giải quyết vấn đề. B. Hoạt động hình thành kiến thức mới: 20’ 1.Khám phá: ? Gia đình em thường thờ cúng những ai? 14 ? Lớp ta có gia đình bạn nào theo đạo? 2.Thông tin sự kiện: Các nhóm thảo luận, trình bày, thảo luận nhận xét chung, chốt Nhóm 1+2: Em hãy nêu khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam? Nhóm 3+4: Nhận xét những mặt tích cực, tiêu cực của tôn giáo nước ta? Nhóm 5+6: Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm như thế nào tới đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân? 3.Nội dung bài học: GV tổ chức hướng dẫn học sinh tự học theo 6 nhóm - hỗ trợ khi hs cần sự giúp đỡ: - Thảo luận nhóm rút ra khái niệm tín ngưỡng tôn giáo, mê tín dị đoan. * Khái quát lại nội dung bài học trên bản đồ tư duy. C. Hoạt động thực hành: 10’ - Quan sát tranh nhận biết các hình thức tín ngưỡng và tôn giáo. Làm việc 6 nhóm: MỘT SỐ TÔN GIÁO, CÁC HÌNH THỨC TÍN NGƯỠNG Ở VIỆT NAM 15 - Phân biệt biểu hiện tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín dị đoan qua các hình ảnh: - Sắm vai giải quyết tình huống theo gợi ý: Làm việc nhóm: - Nhà có người ốm không đi bệnh viện chữa trị mà nhờ thầy cúng chữa trị bằng phù phép? Nhóm 1,2,3. - Một bạn dụ dỗ em theo đạo? Nhóm 4,5,6. * Tìm hiểu: (Điều 24 hiến pháp 2013) Nhóm 1,2,3: Điều 24 1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Điều 164 của bộ luật hình sự 2015: Nhóm 4,5,6 Điều 164. Tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác 1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Phạm tội 02 lần trở lên; 16 d) Dẫn đến biểu tình; đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (Luật này có hiệu lực từ ngày 1/7/2016) - Những qui định trên giúp em rút ra điều gì qua bài học? - Đánh giá hành vi tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín dị đoan của mọi người xung quanh? D. Hoạt động ứng dụng: 5’ Giáo viên giao nhiệm vụ: Em hãy thực hiện việc làm tín ngưỡng của mình (thờ cúng ông, bà..), tôn giáo (đọc kinh thánh, học giáo lí...) E. Hoạt động bổ sung: 5’ 1. Sưu tầm và viết: Làm việc cá nhân Sưu tầm tranh, các bài hát về tín ngưỡng, tôn giáo. Viết đoạn văn ngắn khoảng 100 từ kể lại một câu chuyện về tín ngưỡng, tôn giáo mà em tâm đắc nhất. 2. Suy ngẫm: Làm việc cá nhân 5’ Làm thế nào để có tín ngưỡng mà không mê tín, không bị lợi dụng, mê hoặc? Làm thế nào để người có đạo không bị kẻ xấu lợi dụng? Làm việc cá nhân sau tiết học: Tiếp tục tìm hiểu về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, hiến pháp 2013, luật tố tụng hình sự qui định về quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo để chuẩn bị cho tiết học sau của chủ đề. II.3.4. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp: Điều kiện để đạt được sự thành công là cái tâm của người làm thầy giáo, cô giáo, là tấm lòng tận tụy, là khả năng hiểu và gần gũi học sinh, biết giúp đỡ các em trong khi thực hiện cái phần tiềm tàng trong suy nghĩ, ý tưởng của giáo viên. Chính cái tâm và lòng say mê, nhiệt huyết là động lực vươn tới thành công. II.3.5. Mối quan hệ giữa giải pháp, biện pháp: Các thiết kế bài dạy theo định hướng năng lực không xa rời thực tiễn, gần gũi, sáng tạo, không cầu kì, không khác với qui định chung mà đạt được kết quả dạy học, thu hút được người học thực sự thấy ý nghĩa của việc học tập. Các giải pháp và biện pháp thực hiện luôn luôn đảm bảo mục tiêu bài dạy mà sinh động hiệu quả. II.3.6. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu: Thiết kế bài dạy và thực hiện dạy học theo định hướng năng lực mà sao chép y nguyên, vận dụng cứng nhắc thì tỉ lệ học sinh học tập thụ động, không phát huy được năng lực tư duy sáng tạo, không tự tìm tòi phát hiện, khả năng hình thành được các năng lực cho học sinh chậm, chiếm 50 đến 60%. Đồng 17 thời với điều kiện của địa phương là rất khó thực hiện. Nhưng sau khi thực hiện thiết kế bài dạy học theo năng lực một cách sáng tạo, vận dụng phù hợp hoàn cảnh và điều kiện cho phép, cùng với sự tâm huyết của giáo viên, biết vận dụng linh hoạt các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, biết tìm kiếm nhiều hình ảnh minh họa thực tiễn, gần gũi với học sinh, thực hiện các câu hỏi mang tính thời sự, gắn lí thuyết với thực tiễn đã làm thay đổi cục diện trong hệ thống giáo dục thì 100% các học sinh đều hứng thú học tập theo khả năng và sự lựa chọn, khám phá đa dạng của các em. Phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo, phát huy năng lực tự học tập cho học sinh. Kết nối giữa tri thức với hiểu biết, khả năng, mong muốn, được tự mình làm lấy, nắm lấy cơ hội học tập, khám phá, trải nghiệm. Cùng với việc thiết kế bài dạy theo định hướng năng phát triển năng lực cho học sinh là việc tổ chức quán triệt ý thức học tập của học sinh, khả năng kích thích tính tự học, tự khám phá, khả năng giám sát và trợ giúp khi cần thiết của người giáo viên đối với học sinh là vô cùng quan trọng góp phần làm nên thành công trong sự nghiệp giáo dục theo mô hình dạy học mới, đáp ứng yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. 18 III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ III.1. Kết luận: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh là một quá trình đổi mới giúp học sinh phát huy khả năng tự học tự tìm tòi, khám phá tri trức mới một cách chủ động với nhiều phương pháp đa dạng, phong phú. Có được thành công trong dạy học là cả một quá trình nỗ lực và sáng tạo không ngừng của giáo viên và học sinh. Một trong những yếu tố cơ bản mang lại thành công trong dạy học là thiết kế bài dạy sao cho phù hợp, sinh động và gần gũi với học sinh phát huy cao vai trò của người học. Với cách thiết kế bài học sinh động, gần gũi và kích thích khả năng tự học cho học sinh đồng thời kết hợp với cách hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới tốt đem lại thành công trong dạy học. Linh hoạt kết hợp sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trong thiết kế bài dạy là một nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên điều đó giúp cho việc giáo dục kĩ năng sống và giáo dục các chuẩn mực đạo đức, pháp luật cho người học mang lại hiệu quả cao, không làm nặng nề, quá tải nội dung môn học mà còn làm cho người học cảm thấy thoải mái, nhẹ nhàng, thiết thực và say mê với tri thức môn học, đồng thời giúp cho học sinh cảm thấy mình có thể tự làm được, tự khám phá bài học một cách dễ dàng, giúp các em nâng cao ý thức tự giác học tập. Với phương châm thiết kế bài dạy đổi mới mà không cứng nhắc, gần gũi, thực tế mà không lệch hướng, giao bài cho học sinh mà không gượng ép, học sinh tự học mà không lệch chuẩn, giáo viên nhẹ nhàng mà không dễ dãi với học sinh, bước đầu đã đem lại cho tôi thành công trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn. III.2. Kiến nghị: Là một giáo viên tâm huyết với nghề tôi xin có một vài kiến nghị sau: Đối với các cấp lãnh đạo thường xuyên quan tâm đôn đốc và khuyến khích giáo viên tiếp cận, làm quen và thực hiện một cách sáng tạo, phù hợp và có hiệu quả phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn cần thường xuyên tự học hỏi, nghiên cứu tìm hiểu các tài liệu, thiết thực, vận dụng vào bài giảng để học sinh học tập hiệu quả nhất. Biết vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp vào điều kiện thực tế của địa phương mình để dạy học mang lại hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và góp phần thành công trong sự nghiệp giáo dục. 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO - Luật giáo dục năm 2005. - Giáo dục kĩ năng sống trong môn GDCD ở trường THCS. - Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT – Dự án phát triển GDTHPT. - Tài liệu tập huấn về đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng năng lực – Dự án phát triển GDTHPT. - Tài liệu bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho giáo viên môn GDCD ở trường THPT – Vũ Đình Bảy, Cao Thị Hoài Thu đồng chủ biên. - Bộ luật hình sự 2015 điều 164. - Hiến pháp 2013 điều 24. DANH MỤC VIẾT TẮT - GDCD: giáo dục công dân - THPT: trung học phổ thông - THCS: trung học cơ sở - GDTHPT: giáo dục trung học phổ thông - SGK: sách giáo khoa - SGV: sách giáo viên - BLHS: bộ luật hình sự - HP: hiến pháp - GV: giáo viên 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan