Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn thí nghiệm thực hành hoá học ở trường thcs_2...

Tài liệu Skkn thí nghiệm thực hành hoá học ở trường thcs_2

.DOC
21
149
94

Mô tả:

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong những thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã và đang thực hiện công cuộc CNH- HĐH đất nước. Để giành được những thắng lợi trong chiến lược này chúng ta cần phải có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và đội ngũ công nhân viên có trình độ sử dụng tốt các phương tiện kỹ thuật đáp ứng những đòi hỏi cao của con người. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước đã giao cho ngành giáo dục phải "Giáo dục toàn diện cho học sinh " để sau này trở thành con người phát triển toàn diện, những chủ nhân của đất nước. Chúng ta đã sử dụng tốt phương pháp lấy học sinh làm trung tâm trong mọi môn học. Thầy giáo đóng vai trò là người hướng dẫn, chỉ đạo. Riêng môn Hoá lần đầu tiên ở trong trường THCS học sinh được làm quen với môn hoá học. Vì vậy, tạo điều kiện cho học sinh làm quen với bộ môn hoá học chính là đồ dùng, dụng cụ thí nghiệm, hoá chất hoá học và tìm hiểu các thao tác kỹ thuật mang tính cấp thiết. Bởi sử dụng đồ dùng trực quan sẽ mang tính sinh động giúp học sinh dể hiểu lắm bài nhanh hơn và lâu hơn. Thí nghiệm hoá học giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình dạy học. Vì vậy, trong chương trình hoá học ở trường THCS hiện nay đã tăng số giờ thực hành thí nghiệm. Hiện nay, ở trường THCS việc trang bị đồ dùng, hoá chất còn hạn chế. Do vậy, việc tổ chức thực hiện các thí nghiệm hoá học ở trường THCS theo yêu cầu của chương trình và phương pháp dạy học bộ môn cũng còn gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau. 1 Chính vì những lí do trên và với kinh nghiệm giảng dạy của bản thân qua nhiều năm, tôi đã chọn đề tài : “Thí nghiệm thực hành hoá học ở trường THCS". Với đề tài này hi vọng trong quá trình giảng dạy môn hoá học sẽ giúp học sinh hiểu bài sâu sắc hơn, góp phần nâng cao chất lượng dạy học để bắt kịp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và đáp ứng được yêu cầu mới của khoa học giáo dục hiện đại. II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI: - Đề tài được nghiên cứu nhằm tìm ra vai trò và tác dụng của thí nghiệm hoá học, góp phần thúc đẩy sự ham muốn, tự tìm hiểu nghiên cứu nhằm lĩnh hội kiến thức của học sinh. - Làm cho học sinh có hứng thú, yêu thích môn hoá học hơn, có thành tích cao trong học tập. III. KẾT QUẢ CẦN ĐẠT ĐƯỢC: - Nghiên cứu để phân loại hệ thống thí nghiệm hoá học ở trường THCS. Đề ra phương pháp tiến hành thí nghiệm hoá học ở trường THCS. - Áp dụng trong quá trình giảng dạy hoá học lớp 8, 9. IV. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU: - Đề tài này được dùng cho giáo viên - học sinh ở trường TH & THCS Văn Phong, cán bộ chuyên trách thiết bị đồ dùng dạy học. - Trực tiếp áp dụng đề tài trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi thực hành môn hoá học. - Làm các cuộc khảo sát trước và sau khi sử dụng đề tài này, trao đổi ý kiến học hỏi kinh nghiệm của một số đồng nghiệp. 2 PHẦN II : NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: - Ở trường THCS, thí nghiệm hoá học giúp học sinh làm quen với những tính chất, mối liên hệ và quan hệ có quy luật giữa các đối tượng nghiên cứu, giúp học sinh có cơ sở để nắm vững các quy luật, các khái niệm khoa học và biết cách khai thác chúng. - Thí nghiệm còn giúp học sinh làm sáng tỏ mối liên hệ phát sinh giữa các sự vật, giải thích được bản chất của các quá trình xảy ra trong tự nhiên, trong sản xuất và đời sống xã hội. - Nhờ thí nghiệm hoá học mà con người đã thiết lập được các quá trình mà trong thực tế tự nhiên không có được hoàn toàn và kết quả là đã tạo ra những chất mới. 3 - Thí nghiệm hoá học còn giúp học sinh có khả năng vận dụng những quá trình nghiên cứu trong nhà trường, trong phòng thí nghiệm vào phạm vi rộng rãi trong các lĩnh vực hoạt động của con người. + Đối với bộ môn Hoá học, thí nghiệm đóng một vai trò đặc biệt quan trọng như một bộ môn không thể thiếu, không thể tách dời trong quá trình dạy và học. Thí nghiệm giữ vai trò quan trọng trong nhận thức, phát triển giáo dục của quá trình dạy - học. Người ta coi thí nghiệm hoá học là cơ sở để rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo trong thực hành, thông qua thí nghiệm hoá học, học sinh nắm kiến thức một cách hứng thú, vững chắc và sâu sắc hơn. Thí nghiệm Hoá học còn được sử dụng với tư cách là nguồn gốc, là xuất xứ của kiến thức để dẫn đến nắm kiến thức hoặc để kiểm tra kiến thức lý thuyết. + Thí nghiệm hoá học còn có tác dụng phát triển tư duy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng và củng cố niềm tin khoa học của học sinh, giúp các em hình thành những đức tính tốt của con người mới: Thận trọng, ngăn nắp, trật tự, gọn gàng. Vì vậy, khuynh hướng chung của việc thay đổi bộ môn là tăng thí nghiệm, thực hành để nâng cao chất lượng của các giờ học cũng như chất lượng của học sinh. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: 1. Khái quát phạm vi: - Nghiên cứu và phân loại hệ thống thí nghiệm hoá học ở trường THCS. - Đề ra phương pháp tiến hành thí nghiệm hoá học ở trường THCS. - Áp dụng trong quá trình giảng dạy hoá học lớp 8, 9 và trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Thực hành hoá học. 2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu: 4 Đề tài được nghiên cứu nhằm tìm ra vai trò và tác dụng của thí nghiệm hoá học, góp phần thúc đẩy sự ham muốn, tự tìm hiểu nghiên cứu nhằm lĩnh hội kiến thức của mỗi học sinh. Đề tài này được dùng cho giáo viên - học sinh ở trường THCS, cán bộ chuyên trách thiết bị đồ dùng dạy học. 3. Nguyên nhân của thực trang: Hiện nay, ở trường THCS việc trang bị đồ dùng, hoá chất … còn hạn chế. Do vậy, việc tổ chức thực hiện các thí nghiệm hóa học theo yêu cầu của chương trình và phương pháp dạy học bộ môn còn gặp nhiều khó khăn. Để nâng cao chất lượng dạy - học khi sử dụng thí nghiệm thực hành. Tôi đã tự biên soạn và làm một số thí nghiệm để phục vụ dạy - học đạt được một số kết quả tương đối khả quan thông qua việc sử dụng "Thí nghiệm thực hành hoá học ở trường THCS". III. CÁC GIẢI PHÁP TIẾN HÀNH: 1. Cơ sở đề xuất các giải pháp: Dựa vào thực trạng và nguyên nhân của thực trạng tôi đưa ra các giải pháp nhằm nghiên cứu và tìm ra vai trò, tác dụng của thí nghiệm hoá học làm góp phần thúc đẩy sự ham muốn, tự tìm hiểu nghiên cứu, lĩnh hội kiến thức của học sinh. 2. Các giải pháp chủ yếu: A. PHÂN LOẠI HỆ THỐNG THÍ NGHIỆM HOÁ HỌC Ở TRƯỜNG THCS. Trong dạy học hoá học ở trường THCS, người ta phân loại các thí nghiệm hoá học như sau: + Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên + Thí nghiệm thực hành của học sinh -Thí nghiệm nghiên cứu bài mới. -Thí nghiệm thực hành. 5 +Thí nghiệm ngoại khoá 1. Thí nghiệm biểu diễn làm cơ sở để cụ thể hoá những khái niệm về chất và phản ứng hoá học. Thí nghiệm biểu diễn, giáo viên là người thao tác, điều khiển các quá trình biến đổi chất nên thí nghiệm biểu diễn làm cơ sở để cụ thể hoá khái niệm về chất phản ứng hoá học. Thí nghiệm biểu diễn dùng để minh hoạ các kiến thức của bài học do giáo viên trình bày, có thể là nguồn kiến thức mà học sinh tiếp thu được dưới sự hướng dẫn của giáo viên trong quá trình quan sát thí nghiệm. Vì vậy thí nghiệm biểu diễn có thể tiến hành bằng hai phương pháp chính: a, Phương pháp minh hoạ. b, Phương pháp nghiên cứu. Trong hai phương pháp trên phương pháp nghiên cứu có giá trị lớn hơn và có tác dụng kích thích, thúc đẩy học sinh làm việc tích cực hơn và đặc biệt tạo điều kiện phát triển khả năng nhận thức của học sinh. (Học sinh chủ động làm thí nghiệm để theo dõi, quan sát những quá trình biến đổi của chất do chính bản thân mình làm). 2. Thí nghiệm của học sinh. Tuỳ theo mục đích của việc sử dụng thí nghiệm trong quá trình học tập (để nghiên cứi tài liệu mới, để củng cố, hoàn thiện và kiểm tra kiến thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo …) mà thí nghiệm của học sinh chia ra làm các dạng khác nhau: a. Thí nghiệm của học sinh để nghiên cứu tài liệu mới được tiến hành theo từng cá nhân hoặc theo nhóm được phân chia trước. b. Thí nghiệm thực hành: Nhiệm vụ cơ bản của thí nghiệm này là củng cố những kiến thức mà học sinh đã lĩnh hội được trong các giờ học 6 trước đó, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và kỹ thuật tiến hành thí nghiệm. Thí nghiệm này có thể tiến hành theo lớp hoặc phân nhóm trước. 3. Thí nghiệm ngoại khoá: Đó là những thí nghiệm hoá học vui dùng trong buổi sinh hoạt ngoại khoá, hoạt động ngoài giờ lên lớp, những thí nghiệm ở ngoài trường như: Thí nghiệm thực hành và quan sát ở nhà. Do giáo viên hướng dẫn thao tác, cách làm. Còn học sinh tìm tòi dụng cụ, hoá chất để tự làm. Thí nghiệm này có tác dụng kích thích hứng thú học tập, nâng cao vai trò giáo dục kỹ thuật tổng hợp, gắn liền kiến thức với đời sống thực tế. B. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH THÍ NGHIỆM HOÁ HỌC Ở TRƯ ỜNG THCS. 1. Thí nghiệm biểu diễn: Khi tiến hành thí nghiệm biểu diễn ta cần chú ý tới những nội dung sau: a. Đảm bảo an toàn thí nghiệm. An toàn thí nghiệm là yêu cầu trước hết của mọi thí nghiệm. Để đảm bảo an toàn, trước hết người biểu diễn thí nghiệm phải xác định ý thức trách nhiệm cao về sức khoẻ, tính mạng của học sinh. Mặt khác người biểu diễn phải nắm chắc kỹ thuật và phương pháp tiến hành thí nghiệm. Ví dụ: + Trước khi đốt cháy hiđrô, Axêtilen đều phải thử độ tinh khiết của chúng. + Khi làm việc với chất độc hại phải có biện pháp bảo hiểm. Không dùng quá liều lượng hoá chất dễ cháy, dễ nổ. + Khi làm việc với chất độc hại dễ bay hơi phải làm trong tủ kín hoặc ở nơi thoáng (xuôi chiều gió) để tránh gây ra tai nạn khi gió tạt về phía học sinh. b. Đảm bảo kết quả và tính khoa học của thí nghiệm: 7 Kết quả tốt đẹp của thí nghiệm có tác động trực tiếp đến chất lượng dạy - học và củng cố niềm tin của học sinh vào khoa học. Muốn đảm bảo kết quả thí nghiệm, trước hết giáo viên phải nắm vững kỹ thuật tiến hành thí nghiệm, phải thử thí nghiệm nhiều lần trước khi đến lớp. Các dụng cụ thí nghiệm phải chuẩn bị chu đáo, đầy đủ, đồng bộ. Nếu chẳng may thí nghiệm không thành công, thì giáo viên cần bình tĩnh kiểm tra lại các bước tiến hành để tìm nguyên nhân và giải thích cho học sinh. c. Đảm bảo tính trực quan: Những bài dạy có đồ dùng trực quan ta phải tận dụng hết đồ dùng, bởi đồ dùng trực quan là một trong những yêu cầu cơ bản của thí nghiệm biểu diễn. Để đảm bảo tính trực quan, khi chuẩn bị thí nghiệm giáo viên cần lựa chọn các dụng cụ và hoá chất thích hợp. Dụng cụ thí nghiệm cần đủ lớn để học sinh ngồi dưới lớp có thể quan sát thấy được, đồng thời phải có mầu sắc hài hoà. Bàn biểu diễn phải có độ cao cần thiết, dụng cụ thí nghiệm phải được bố trí sao cho học sinh có thể nhìn rõ. Đối với thí nghiệm có thể thay đổi mầu sắc, có chất kết tủa hoặc có chất khí sinh ra thì phải có giấy mầu đặt ở sau đồ dùng thí nghiệm. Để đạt được kết quả tương đối khả quan ta cần chú ý một số nội dung sau đây : - Số lượng thí nghiệm trong một bài phải lựa chọn sao cho phù hợp. Chọn thí nghiệm phục vụ nội dung trọng tâm bài học và phù hợp với thời gian trên lớp. - Trong thí nghiệm nên sử dụng những hoá chất mà học sinh đã quen biết. Nếu là bài đã nghiên cứu chất mới thì phải là mới đối với học sinh. Chọn các dụng cụ đơn giản, đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm, tính mỹ thuật… Chọn các phương án thí nghiệm đơn giản, tiết kiệm hoá chất, dễ thành công và đặc biệt là an toàn cho học sinh. 8 - Trong thực hành, nếu có điều kiện trước khi làm thí nghiệm giáo viên nên giúp học sinh tìm hiểu cấu tạo, công dụng và cách sử dụng các dụng cụ. - Hướng dẫn học sinh chú ý vào sự quan sát những hiện tượng có tính bản chất của thí nghiệm có liên quan đến nội dung bài học bằng các biện pháp nhằm thu hút sự chú ý của học sinh vào việc quan sát, giải thích các hiện tượng xảy ra. 2. Thí nghiệm của học sinh: a. Thí nghiệm để nghiên cứu tài liệu mới. + Lý luận dạy học cho rằng phương pháp dạy - học này có khả năng phát triển một cách tốt nhất năng lực trí tuệ của học sinh, kích thích hứng thú học tập của học sinh, vì nó rèn luyện cho học sinh nhận thức và phân tích những dấu hiệu, hiện tượng cụ thể bằng kinh nghiệm riêng của mình và thu hút mọi khả năng của học sinh và nhận thức đối tượng. Như vậy khi học sinh được giao tận tay những dụng cụ, hoá chất và được thực hiện lấy thí nghiệm thì việc làm quen với các dụng cụ, hoá chất sẽ đầy đủ hơn: ở đây học sinh được tự điều khiển các quá trình biến đổi các chất nên sẽ phối hợp hoạt động trí óc với hoạt động chân tay trong quá trình nhận thức của mình. + Việc tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm này có thể áp dụng theo 2 cách: - Toàn lớp làm chung một thí nghiệm. - Mỗi nhóm làm một thí nghiệm khác nhau. Khi tiến hành làm thí nghiệm theo nhóm, giáo viên cần tổ chức để học sinh trong nhóm lần lượt làm thí nghiệm. + Thí nghiệm của học sinh có thể làm theo 2 phương pháp: - Phương pháp minh hoạ. - Phương pháp nghiên cứu. 9 Khi tiến hành thí nghiệm, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát các hiện tượng xảy ra trong dụng cụ, đặc biệt là màu sắc, chất kết tủa, chất bay hơi… Ví dụ: Khi làm thí nghiệm khử CuO bằng nhiệt độ, thì học sinh phải biết quan sát màu sắc của CuO chuyển từ màu đen biến thành mày đỏ nâu của Cu và hơi nước đọng lại ở ống nghiệm trong cốc nước lạnh. b. Thí nghiệm thực hành: Đây là thí nghiệm do học sinh tự làm lấy khi hoàn thiện kiến thức, nhằm minh hoạ, ôn tập, củng cố kiến thức đã học và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo gọi là thí nghiệm thực hành. Để đạt được sự thành công của thí nghiệm thực hành, thì học sinh phải hiểu được mục đích của thí nghiệm, học sinh cần phải làm những gì, quan sát và giải thích được những gì qua thí nghiệm? Từ đó rút ra những kết luận đúng đắn. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh cần ôn lại những kiến thức trong sách giáo khoa hoặc trong tài liệu hướng dẫn làm thí nghiệm. + Với thí nghiệm thực hành giáo viên cần xác định nội dung và thực hiện giờ thực hành cho phù hợp với đặc điểm, nội dung, thời gian cho phép và cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ dạy - học có liên quan. Các thí nghiệm lựa chọn phải đơn giản ở mức độ tối đa, nhưng đồng thời phải rõ, trong đó sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền mà vẫn đảm bảo yêu cầu khoa học sư phạm. + Với bài thí nghiệm thực hành giáo viên thường thực hiện theo các trình tự sau đây: - Giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh, hướng dẫn ngắn gọn cách tiến hành thí nghiệm, cách quan sát và ghi chép để làm tường trình. Cần lưu ý quy tắc an toàn trong phòng thí nghiệm. 10 - Khi tiến hành thí nghiệm, giáo viên theo dõi việc làm của các nhóm học sinh, uốn nắn những sai sót khi học sinh mắc phải (Chú ý: Tránh làm thay học sinh). Trong mỗi nhóm cần phân rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên để tránh hiện tượng em làm nhiều, em làm ít hoặc không được làm. Cuối giờ thực hành, mỗi học sinh phải hoàn thành bản tường trình thí nghiệm theo mẫu sau: Cách tiến hành STT Tên TN TN Hiện tượng Giải thích kết quả TN quan sát được 1 2 - Sau cùng giáo viên hướng dẫn học sinh rửa sạch các dụng cụ thí nghiệm, sắp xếp ngăn nắp các hoá chất và dụng cụ vào nơi đã quy định. c. Thí nghiệm ngoại khoá: Thí nghiệm hoá học ngoại khoá bao gồm các thí nghiệm ngoài giờ lên lớp, có thể thực hiện ở trường hoặc ở nhà. * Thí nghiệm ngoài giờ lên lớp được thực hiện bao gồm: + Các thí nghiệm hoá học vui, giúp học sinh hứng thú áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn sinh động của buổi sinh hoạt, các chuyên đề hoá học. Ví dụ: ở trường phổ thông có những thí nghiệm như: "Trứng chui vào lọ" hoặc "sự cháy không cần diêm" của tờ giấy tẩm dung dịch P trắng trong cacbon sunfua. + Các thí nghiệm đòi hỏi thời gian nhất định mà trong giờ học các em học sinh không có thời gian thực hiện như: Làm dấm ăn, chế tạo chất thơm. 11 + Thí nghiệm thu hồi các sản phẩm phụ của thí nghiệm trên lớp, để tận dụng nguồn hoá chất. + Thí nghiệm nhận biết tính chất của chất dựa vào tính chất hoá học, tính chất vật lý cơ bản và đặc trưng của chất đó. * Thí nghiệm quan sát ở nhà: Đây là hình thức hoạt động độc lập, tích cực của học sinh. Giúp các em tiếp thu kiến thức một cách tự giác và có hứng thú với môn Hoá học. Mặt khác góp phần phát triển tư duy, và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo trong thực nghiệm khoa học và tạo điều kiện thiết lập mối quan hệ giữa các hiện tượng hoá học, giữa lí thuyết và định luật đã học với thực tiễn cuộc sống và sản xuất. Sử dụng dụng cụ và hoá chất đơn giản. Ví dụ: Sản xuất vôi sống, chế tạo vữa xây nhà, chứng minh trong không khí có khí CO2, sự ăn mòn kim loại … C. MỘT SỐ THÍ NGHIỆM ÁP DỤNG TRONG DẠY - HỌC: Với thời gian, lưu lượng của đề tài còn hạn chế, tôi chỉ lấy một số thí nghiệm rất đơn giản, dễ làm. Còn những thí nghiệm có trong SGK và các tài liệu khác tôi không đưa vào (Đây là những thí nghiệm mà mỗi giáo viên giảng dạy bộ môn và học sinh có thể tự làm được). * Thí nghiệm: Tính chất của chất. + Dụng cụ: - Cốc thuỷ tinh 250ml, cáp sun sứ, cối + chày sứ. - Lọ thuỷ tinh 150ml, nút cao su đậy vừa miệng lọ 150ml, - muôi đốt hoá chất, đèn cồn. + Hoá chất: - Lưu huỳnh. + Tiến hành thí nghiệm: Thí nghiệm 1: Sự hoà tan của Lưu huỳnh trong nước. Lấy vài mẩu Lưu huỳnh vào cáp sun sứ, cho học sinh quan sát, nhận xét. Nghiền nhỏ Lưu huỳnh bằng cối, chày sứ. 12 Lấy chừng 450ml H2O cho vào cốc và lấy muôi xúc 1 ít bột lưu huỳnh vào cốc, quan sát hiện tượng và giải thích. Thí nghiệm 2: Sự cháy của Lưu huỳnh trong không khí. Cho 1 ít Lưu huỳnh vào muôi đốt hoá chất, đốt cháy Lưu huỳnh trên đèn còn rồi đưa nhanh vào lọ thuỷ tinh có nút cao su đậy kín cho học sinh quan sát và giải thích. + Quan sát và giải thích: Thí nghiệm 1: Lưu huỳnh là chất rắn, màu vàng tươi, không mùi. Bột Lưu huỳnh không tan trong nước. Bột Lưu huỳnh nổi trên mặt nước vì nó không thấm nước. Thí nghiệm 2: Khi đốt cháy Lưu huỳnh nóng chảy và cháy với ngọn lửa có màu xanh nhạt. + Kết luận: Những biểu hiện trên là tính chất của chất. * Thí nghiệm: Hiện tượng hoá học. + Dụng cụ: - 2 ống nghiệm, 2 kẹp gỗ, 1 cốc 250ml, 1 công tơ hút. - Đèn cồn. + Hoá chất: Đường + Tiến hành thí nghiệm: Sự hoá than của đường. Lấy đường trắng vào 2 ống nghiệm A và B. Dùng kẹp đặt ống nghiệm A ở vị trí nằm ngang, miệng ống hơi chúc xuống một chút và đun nóng đáy ống nghiệm trên ngọn lửa đèn cồn. So sánh màu của 2 chất trong 2 ống nghiệm. Sau khi để nguội, rót nước vào hai ống nghiệm. So sánh sự hoà tan các chất có trong hai ống. + Quan sát và giải thích: Khi đun ống nghiệm A, đường trong ống nghiệm dần biến đổi thành than, hơi nước thoát ra đọng trên thành ống nghiệm. Kết quả trong ống nghiệm A có than màu đen, ống nghiệm B vẫn là 13 đường. Rót nước vào hai ống nghiệm, chỉ thấy đường trong ống nghiệm B bị hoà tan. Chứng tỏ đường trong nghiệm A đã bị phân huỷ sinh ra nước và than. + Kết luận: Trong hiện tượng trên đã có chất mới được sinh ra. Đó là hiện tượng hoá học. * Thí nghiệm: Xác định thành phần không khí: + Dụng cụ: - Ống thuỷ tinh hình trụ - Nút cao su có muôi đốt hoá chất xuyên qua. - Chậu thuỷ tinh + Hoá chất: - Đèn cồn. - Photpho đỏ. + Tiến hành thí nghiệm: Đặt ống hình trụ vào chậu nước cho đến khi mực nước dâng lên tới vạch thứ nhất của ống (tính từ dưới lên). Lấy chừng 1/5 muôi Photpho đỏ và hơ lên ngọn lửa đèn cồn. Khi Photpho bắt đầu cháy thì đưa muôi vào ống hình trụ và đậy chặt nút cao su lại. + Quan sát hiện tượng và giải thích: Trong ống hình trụ Photpho tiếp tục cháy và tạo thành khói trắng. Đó là những hạt nhỏ P2O5. Mực nước trong ống hình trụ dâng cao dần. Khi ngọn lửa tắt (trong muôi vẫn còn photpho) chứng tỏ tất cả oxi trong ống hình trụ đã tác dụng với photpho. Để một lúc cho đến khi P2O5 hoà tan hết trong nước, trong ống trở lại trong suốt, hướng dẫn học sinh quan sát hiện tượng). Mực nước trong ống dâng lên đến vạch thứ hai (chiếm khoảng 1/5 dung tích của ống ). Vậy nước đã chiếm chỗ của oxi có trong không khí sau khi oxi đã hoá hợp với photpho. 14 Mở nút cao su, đưa vào chất khí còn lại trong ống hình trụ một miếng vỏ bào tắt ngay. Chứng tỏ chất khí còn lại không duy trì sự cháy và chiếm 4/5 thể tích không khí. Đó là nitơ. + Kết luận: Không khí là một hỗn hợp khí trong đó oxi chiếm khoảng 1/5 thể tích (chính xác hơn, oxi chiếm 21% thể tích không khí, phần còn lại chủ yếu là khí nitơ). * Thí nghiệm: Nước tác dụng với Điphôtpho pentaoxit. Rót một ít nước vào lọ 100ml. Đốt ít photpho đỏ bằng muôi hoá chất rồi đưa nhanh vào lọ. Quan sát hiện tượng. Khi photpho không cháy nữa bỏ muôi sắt ra. Chú ý không để photpho không cháy hết rơi xuống đáy lọ, lắc lọ cho khói trắng tan hết rồi nhúng quì tím vào. Nhận xét. * Thí nghiệm: Nước tác dụng với Na Khi cho mẩu Natri vào nước, Natri nóng chảy thành giọt tròn có màu sáng, chuyển động nhanh trên mặt nước. Mẩu Natri nhỏ dần cho đến hết, phản ứng toả nhiệt, khí hiđrô bay ra được tụ lại trong ống nghiệm úp trên cuống phễu. Phản ứng được biểu diễn bằng phương trình hoá học sau đây: 2 Na + 2H2O  2 NaOH + H2 Dung dịch NaOH mới tạo thành làm hồng phenolphtalein. * Thí nghiệm: Nước tác dụng với CaO Khi đổ nước vào vôi sống CaO, ta thấy có hơi nước bốc lên. Can xi oxit rắn chuyển thành chất nhão là canxi hiđrôxit Ca (OH) 2 ít tan trong nước. Phản ứng toả nhiều nhiệt. Phương trình hoá học CaO + H2O  Ca(OH)2. Nhỏ dung dịch phenlphtalein không màu vào dung dịch canxihiđroxit, dung dịch chuyển sang màu hồng. 15 D. NHỮNG TỒN TẠI VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT: Thực hiện chương trình hoá học ở trường THCS theo yêu cầu mới hiện nay đó là: trong giờ thực hành trên lớp và các giờ dạy đảm bảo yêu cầu là phải có đồ dùng thí nghiệm và phòng chuyên dùng. Hiện nay ở các trường THCS, dụng cụ thí nghiệm còn cũ nát, không đồng bộ, hoá chất thiếu, lại là các hoá chất đã được trang bị từ lâu nên bị hư hỏng nhiều. Nên không thể triển khai hết ở các lớp, mà chỉ sử dụng ở một vài khối lớp. Muốn sử dụng phải "chạy vạy" hoặc mượn, hoặc mua ở ngoài nhưng cũng không thể mua được nhiều. Do vậy chất lượng giờ dạy không đảm bảo, dụng cụ lại không an toàn mà hoá chất sử dụng lại độc lập (do tự làm). Tư tưởng của giáo viên bộ môn khi không có dụng cụ, đồ dùng, hoá chất đảm bảo sinh ra chán nản, không muốn sử dụng mà chỉ dạy chay khi lên lớp. Đây là hai vấn đề mà tôi thấy nó đã tồn tại rất nhiều năm ở hầu hết các trường THCS. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi mỗi giáo viên cần cải tiến hệ thống thí nghiệm. 1. Tăng cường đảm bảo an toàn trong thí nghiệm: Trong thí nghiệm hoá học, giáo viên và học sinh thường xuyên tiếp xúc với hoá chất; Thường xuyên quan sát, nhận xét sự biến hoá từ chất này thành chất khác và những hiện tượng kèm theo sự biến hoá đó. Để đảm bảo an toàn trong thí nghiệm, trước hết cần loại bỏ thí nghiệm với hoá chất rất độc hại như Phốt pho trắng, thuỷ ngân. Các thí nghiệm với chất độc (Clo, hiđrô sunfua) phải được tiến hành trong hệ thống thiết bị kín và có biện pháp bảo hiểm. 2. Tăng cường các thí nghiệm mang tính trực quan: Trực quan là một trong những yêu cầu quan trọng của thí nghiệm. Tính trực quan của thí nghiệm hoá học sẽ được tăng lên chẳng những bằng cách dùng lượng hoá chất nhiều hơn, dùng dụng cụ có kích thước lớn 16 hơn, đặt chúng vào vị trí trung tâm, sử dụng ánh sáng, màu sắc thích hợp, mà còn có thể dùng phương pháp so sánh, đối chứng các hiện tượng, các quá trình và sự vật. Chẳng hạn đặt tờ giấy trắng đứng sau thiết bị điều chế và nhận biết khí Clo làm "phông" để quan sát rõ hơn màu vàng đục. Để tiến hành thí nghiệm về ảnh hưởng của chất xúc tác tới tốc độ của phản ứng hoá học, ta nung nóng hai lượng KClO3 trong hai ống nghiệm như nhau, trong đó một ống có Mangan đioxit (MnO2) làm chất xúc tác. Theo hướng này ta có thể tiến hành một số thí nghiệm như: Thí nghiệm nước tác dụng với Natri kim loại, sự hoà tan thu nhiệt và khí Cacbonnic nặng hơn không khí. 3. Lựa chọn thí nghiệm dễ thực hiện, tiết kiệm thời gian: Trong tình hình hiện nay, giáo viên phải bố trí thời gian hợp lý mới thực hiện có hiệu quả các khâu, các bước trên lớp. Vì vậy nên lựa chọn số thí nghiệm trong mỗi bài, mỗi tiết học vừa phải, chọn những thí nghiệm tiêu biểu phục vụ trọng tâm của bài học. Không nên thực hiện các thí nghiệm phức tạp, cồng kềnh, tốn kém thời gian. Mặt khác chúng ta cần cải tiến một số thí nghiệm theo hướng đơn giản, dễ thực hiện nhưng vẫn đảm bảo tính trực quan mà vẫn thành công, như thí nghiệm điều chế và nhận biết khí Clo trong ống hình trụ có đế. Thí nghiệm điều chế hỗn hợp nổ của oxi và hiđro bằng phương pháp điện phân nước… 4. Đáp ứng yêu cầu cơ bản của chương trình đổi mới và góp phần phát huy trí lực của học sinh: Thí nghiệm hoá học giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình nhận thức, phát triển giáo dục. Thí nghiệm có thể sử dụng với hiệu quả cao (trong các bước của giờ trên lớp). Tuy vậy, với khoảng thời gian có hạn của giờ 17 học, các thí nghiệm lần lượt sử dụng trong mối quan hệ hợp lý với việc sử dụng các loại thiết bị dạy học khác như tranh ảnh, mô hình, đèn chiếu… Vì vậy cần lựa chọn những thí nghiệm có nội dung và phương pháp tiến hành đúng yêu cầu cơ bản của chương trình. Những thí nghiệm hoá học theo hướng sau đây cần được đặc biệt quan tâm, nghiên cứu về tính chất vật lý và hoá học của các chất, điều chế các chất và ứng dụng quan trọng của chúng trong thực tiễn cuộc sống, lao động sản xuất. Thí nghiệm nhằm rèn luyện kỹ năng thực hàng cho học sinh (quan sát, phân tích, so sánh). Mặt khác nội dung thí nghiệm phải góp phần phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh, kích thích hứng thú học tập và phát triển tư duy cho các em như thí nghiệm về Định luật bảo tồn khối lượng, thí nghiệm xác định thành phần của không khí điện phân dung dịch muối ăn. 5. Thí nghiệm phải gắn với thực tiễn cuộc sống và sản xuất. Việc nghiên cứu các kiểu thí nghiệm hoá học theo hướng gắn lý thuyết với cuộc sống và sản xuất có ý nghĩa to lớn, điều đó giúp học sinh nắm vững kiến thức hứng thú hơn, sâu sắc hơn, kích thích học sinh vận dụng những điều đã học vào thực tiễn, góp phần giáo dục hướng nghiệp thông qua môn học. Việc gắn với lý thuyết với thực tiễn cuộc sống là biện pháp tích cực thực hiện phương châm giáo dục lý luận đi đôi với thực tiễn, học đi đôi với hành. Theo hướng trên chúng ta có thể tiến hành các thí nghiệm như: Chưng cất nước tự động, bình chữa cháy đơn giản, điều chế sản xuất vôi sống v.v… 6. Sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn giản giá thành hạ, tiết kiệm hoá chất: Việt Nam là nước có dân số đông, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nhưng qui mô và tốc độ phát triển giáo dục lại rất to lớn. Vì vậy việc nghiên cứu cải tiến các thí nghiệm theo hướng đơn giản, dễ sản xuất giá thành hạ 18 với các dụng cụ đa năng có thể lắp ráp và tiến hành nhiều thí nghiệm khác nhau có vai trò đặc biệt quan trọng nó không chỉ mang ý nghĩa về kinh tế đơn thuần mà còn góp phần giáo dục tư tưởng cho học sinh như ý thức tiết kiệm, ý thức tìm tòi sáng tạo, khắc phục khó khăn, trân trọng các thành quả lao động. IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN: Nội dung đề tài của tôi được áp dụng cho giáo viên và học sinh THCS (bộ môn Hoá học). * Kết quả khảo sát trước khi ứng dụng đề tài: Năm TS HS Giỏi Khá Trung bình SL % % SL % học lớp 8; 9 SL 200885 3 3,5 18 21,2 56 2009 * Kết quả giảng dạy sau khi ứng dụng đề tài: Năm TS HS học lớp 8; 9 200978 2010 Giỏi Khá SL % SL % 6 7,7 21 26,9 65,9 Trung bình SL % 47 60,3 Yếu SL % 8 9,4 Yếu SL % 4 5,1 PHẦN III : KẾT LUẬN 1. Bài học rút ra: Giáo viên phải nắm vững khả năng nhận thức của từng học sinh trong mỗi khối lớp. 19 Phải có sự chuẩn bị nội dung thí nghiệm trước cho thật chu đáo và kiểm tra lại kết quả nhiều lần trước khi sử dụng. Phân phối thời gian hợp lý giữa các khâu lên lớp. Biết lựa chọn những thí nghiệm hợp lý, đơn giản dễ thực hiện gắn liền với sự nhận thức của học sinh. Học sinh phải chuẩn bị trước nội dung dưới sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn qua từng khâu, từng bước của thí nghiệm thực hành. Biết vận dụng thí nghiệm phù hợp, gắn liền với thực tiễn đời sống sản xuất. 2. Kiến nghị đề xuất: - Cần có phòng thí nghiệm thực hành riêng cho bộ môn. - Các đồ dùng dạy học và các thiết bị dạy học cũ, hỏng, vỡ cần được bổ sung kịp thời. - Cần mua thêm các hoá chất mới để bổ sung cho các hoá chất đã hết, mất phẩm chất. - Quan tâm đến đầu giỏi, đầu yếu hơn nữa. Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm về “Sử dụng thí nghiệm thực hành hoá học ở trường THCS". Tôi mạnh dạn đưa ra những giải pháp sơ lược về nhiệm vụ và trách nhiệm của GV bộ môn hoá học và những yêu cầu cần phải thực hiện của GV, của HS khi thao tác và sử dụng thí nghiệm thực hành hoá học. Tôi mong có sự đóng góp ý kiến của hội đồng chấm đề tài, để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn và ứng dụng vào trong giảng dạy có hiệu quả hơn, đóng góp một phần nhỏ bé vào sự hình thành ý thức tự giác nghiên cứu khoa học của HS, đáp ứng phần nào yêu cầu phương pháp giảng dạy mới lấy học sinh làm trung tâm: Học sinh tự nghiên cứu, tự rút ra kết luận khoa học trên những thí nghiệm thực tiễn. Xin chân thành cám ơn! 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất