MỤC LỤC
TT
NỘI DUNG
TRANG
I
TÓM TẮT
3
II
GIỚI THIỆU
3
1
Thực trạng
3
2
Nguyên nhân
4
3
Giải pháp thay thế
5
4
Lịch sử đề tài
6
5
Xác định vấn đề nghiên cứu
8
III
PHƯƠNG PHÁP
8
1
Khách thể nghiên cứu
8
2
Thiết kế nghiên cứu
9
3
Quy trình nghiên cứu
11
a
Trước tác động
11
b
Tác động
11
b1
Trò chơi lớn: “Nhân vật ngày hôm nay”
11
b2
Trò chơi nhỏ
13
c
Dừng tác động
14
d
Tiếp tục tác động
14
d1
Trò chơi lớn : “Hát vè – xếp chân”
14
d2
Trò chơi nhỏ
16
4
Đo lường và thu thập dữ liệu.
16
1
PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN KẾT QUẢ
16
1
Mô tả dữ liệu trước và sau tác động
16
2
So sánh dữ liệu
17
3
Mức độ ảnh hưởng
18
V
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
19
1
Kết luận
19
2
Khuyến nghị
19
VI
TÀI LIỆU THAM KHẢO
20
VII
PHỤ LỤC
21
Phụ lục 1: Các gói lá thăm phục vụ cho trò chơi lớn
21
IV
1
“Nhân vật ngày hôm nay”
2
Phụ lục 2: Gói các bài vè bài đồng giao phục vụ trò
26
chơi lớn: “Hát vè – xếp chân”
3
Phụ lục 3: Hướng dẫn tổ chức các trò chơi
27
4
Phụ lục 4: Bảng tổng hợp theo dõi chuyên cần
38
5
Phụ lục 5: Hệ thống các trò chơi nhỏ dùng cho cả năm
43
học
6
Phụ lục 6: Các minh chứng
44
2
Tên đề tài: Tăng tỉ lệ chuyên cần thông qua việc tổ chức các trò chơi học
tập ở lớp 5B trường Tiểu học và Trung học cơ sở Thành Sơn.
I.
TÓM TẮT
Tình trạng hoc sinh vắng học nhiều vẫn còn diễn ra ở lớp 5B trường TH
và THCS Thành Sơn.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tổ chức lớp học thân thiện, tích
cực, nâng cao hiệu quả dạy học, thường xuyên động viên, khích lệ học sinh là
những yêu cầu cần thiết không thể thiếu để duy trì sĩ số học sinh. Nghiên cứu
này cụ thể hóa vấn đề tổ chức lớp học như thế nào cho thân thiện trong điều
kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn như ở Thành Sơn ? Giải pháp được đưa ra
là xây dựng môi trường thân thiện về mặt tinh thần bằng cách tổ chức các trò
chơi một cách có hệ thống đều đặn. Nghiên cứu được thưc hiện ở lớp 5B.
Thời gian thực hiện trong 20 tuần. Dữ liêu thu thập là bảng đo hành vi của
học sinh do tổ trưởng theo dõi. Phân tích dữ liệu chúng tôi nhận thấy việc tổ
chức các trò chơi đã làm tăng tỉ lệ chuyên cần của học sinh. Mức độ ảnh
hưởng của trò chơi học tập đối với tỉ lệ chuyên cần là rất lơn.
II.
GIỚI THIỆU
1. Thực trạng
Thành Sơn là một xã đặc biệt khó khăn, nằm ở phía tây của huyện Khánh
Sơn, ở đây bà con chủ yếu là làm nương rẫy, trồng chuối, trồng bắp, trồng
keo, một số ít trồng cà phê, sầu riêng. . . Đất đai đã cằn cỗi lại càng nhanh bị
rửa trôi màu mỡ do địa hình rất dốc. Có thể nói đây là một vùng rất khó để
những người nông dân chân chất mưu sinh. Kinh tế khó khăn kéo theo một
hệ lụy khác đó là y tế, giáo dục đều chậm phát triển, nhận thức của phụ
huynh từ thế hệ này đến thế hệ khác vẫn không được cải thiện nhiều. Phụ
3
huynh chưa quan tâm, chăm lo đến việc học hành của con em. Ở nhà học sinh
không có nơi để học tập, không có chỗ để sách vở. Phụ huynh không động
viên, nhắc nhở con em phải đi học chuyên cần thậm chí còn yêu cầu con ở
nhà để trông em, ở nhà đi chăn bò . . . Về nhà phụ huynh hầu như không
kiêm tra việc học hành của con cái. Học sinh không có môi trường tốt để
phấn đấu noi theo. . .
Đảng, nhà nước đã có nhiều quan tâm. Ngành giáo dục, nhà trường, giáo
viên đều rất cố gắng, nỗ lực nhưng tỉ lệ học sinh chuyên cần vẫn còn ở mức
báo động.
Lớp 5B có 33 học sinh nhưng chỉ có 10 em là đi học đều đặn còn 23 em
khác thường xuyên luân phiên nghỉ học với nhiều lí do khác nhau. Điều này
ảnh hưởng lớn đến tỉ lệ chuyên cần của cả lớp.
2. Nguyên nhân
Có thể nói có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên
nhân căn bản nhất vẫn là do điều kiện kinh tế của địa phương còn quá khó
khăn, nhận thức của người dân về vai trò của giáo dục còn hạn chế. Đây là
một nguyên nhân không thể giải quyết trong ngày một ngày hai. Muốn giải
quyết nguyên nhân này cấn có những chính sách đặc biệt của nhà nước,
đường lối phát triển đúng đắn của Đảng bộ và chính quyền địa phương, sự
năng nổ, nhiệt tình của cán bộ, sự nỗ lực của nhân dân nơi đây. Mỗi khi hội
tụ đầy đủ các yếu tố đó thì tình hình khó khăn mới dần được đẩy lùi, đời sống
và nhận thức của người dân mới dần dần được nâng lên từ đó mà tỉ lệ học
sinh đi học chuyên cần mới được cải thiện. Chất lượng giáo dục cũng sẽ được
nâng cao hơn. Tuy nhiên đây lại là yêu cầu vượt quá khả năng của giáo viên,
của nhà trường và của ngành giáo dục. Ngoài ra còn có nhiều nguyên nhân
khác cũng ảnh hưởng rất lớn đến tỉ lệ chuyên cần như:
4
- Học sinh văng học do môi trường giáo dục chưa thực sự hấp dẫn, thu
hút học sinh.
- Học sinh vắng học do phải ở nhà phụ giúp bố mẹ (chăn bò, trông em,
làm rẫy, bẻ đót, thu hoạch chuối . . .)
- Học sinh vắng học do ham chơi (chơi điện tử, đi câu cá, xem
phim . . . )
- Học sinh vắng học do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu (trời mưa to,
trời nắng gắt)
- Học sinh vắng học do thiếu thốn, đói rách (học sinh không có quần áo
vì mới dặt chưa khô, học sinh đi rẫy về muộn chưa được ăn cơm . . .)
Trong số những nguyên nhân dẫn đến học sinh vắng học ở trên, có những
nguyên nhân rất đơn giản, không đáng phải nghỉ học nhưng qua tìm hiểu tôi
nhận thấy chính những nguyên nhân tưởng chừng như vô lí đó lạị góp phần
gây nên tình trang vắng học nhiều ở lớp 5B nói riêng và học sinh Tiểu học
của trường TH và THCS Thành Sơn nói chung. Trong số những nguyên nhân
này nguyên nhân quan trọng nhất, có tính quyết định đó là nguyên nhân đầu
tiên: “Học sinh văng học do môi trường giáo dục chưa thực sự hấp dẫn,
thu hút học sinh.” Nếu giải quyết được nguyên nhân này thì chúng ta sẽ
giúp học sinh vượt qua những trở ngại từ các nguyên nhân khác để đến
trường, đến lớp.
3. Giải pháp thay thế.
Với mục đính là tao hứng thú cho học sinh, xây dựng môi trường lớp học
thật sự thân thiện, vui vẻ giúp học sinh cảm nhận được “Mỗi ngày đến trường
là một ngày vui”. Tôi mạnh dạn đưa các trò chơi một cách có hệ thống, đều
đặn, phù hợp lứa tuổi tiểu học lồng ghép vào dạy học để xây dựng môi
trường học tập vui tươi, tình cảm giúp các em thấy thích được đến lớp, đến
trường, tin tưởng vào thấy cô từ đó các em đi học đầy đủ hơn. Vì vậy tôi
5
quyết định lựa chọn giải pháp để khắc phục nguyên nhân trên là : Tăng tỉ lệ
chuyên cần thông qua việc tổ chức các trò chơi học tập ở lớp 5B trường
Tiểu học và Trung học cơ sở Thành Sơn.
Trò chơi học tập ở đây là gi?
Trò chơi học tập mà đề tài nghiên cứu muốn đề cập tới ở đây là các trò
chơi nói chung có tính chất giáo dục, phù hợp vời lứa tuổi học sinh tiểu học.
Không nhất thiết phải là các trò chơi có liên quan đến kiến thức trong mỗi tiết
học. Đề tài sử dụng hai loại trò chơi: Trò chơi lớn và trò chơi nhỏ
- Trò chơi lớn: Trò chơi lớn là những trò chơi được sử dụng lặp lại nhiều
lần, mỗi lần chỉ thay đổi một số nội dung còn cách chơi hoàn toàn tương tự.
Có 2 trò chơi lớn được sử dụng trong đề tài là : Trò chơi “Nhân vật ngày
hôm nay” và trò chơi “Đọc vè - xếp chân”
- Trò chơi nhỏ: Trò chơi nhỏ là những trò chơi thông thường như: Chụm
hoa, Đoàn kết, Tập tầm vông, mưa rơi . . . được sắp xếp chỉnh sửa về cách
chơi, luật chơi cho phù hợp với học sinh tiểu học, phù hợp với điều kiện cơ
sở vật chất và đối tượng học sinh ở vùng khó khăn.
Tổ chức trò chơi vào thời gian nào?
- Trò chơi lớn được tổ chức vào 15 phút đầu giờ các ngày thứ 3 và thứ 5
hảng tuần.
- Trò chơi nhỏ được tổ chức vào giữa hai tiết học (thông thường giữa tiết
2 và tiết 3 của ngày thứ 2, thứ 4 và thứ 6 hàng tuần)
Người tổ chức là ai?
- Giáo viên hướng dẫn và tổ chức cho học sinh chơi trò chơi mới sau đó
giao cho học sinh tự tổ chức cho lớp chơi.
6
- Trong các ngày tiếp theo, học sinh lần lượt thay nhau tổ chức cho lớp
chơi trò chơi đã được hướng dẫn.
Đối tượng tham gia trò chơi là những ai?
- Tất cả học sinh lớp 5B, không kể học sinh đó đi học chuyên cần hay
chưa chuyên cần.
4. Lịch sử đề tài
Trước khi đưa ra giải pháp Sử dụng trò chơi học tập để tăng tỉ lệ chuyên
cần tôi đã tìm hiểu một số nghiên cứu từ các năm trước:
a) Kế hoạch xây dựng trường học thân thiên của Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
Bộ giáo dục và đào tạo đã có chỉ thị số 40/CT-BGD ĐT và Kế hoạch số
307/KH-BGD&ĐT ngày 22/07/2008 về việc triển khai “Xây dựng trường
học thân thiện - Học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn
2008-2013 với 5 nội dung:
+. Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn
+ Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh
giúp các em tự tin trong học tập.
+ Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
+ Tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh.
- Tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến
khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh : tham gia Đại hội TDTT
các cấp, tổ chức Hội diển Văn nghệ chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam
20/11 và tham gia các Hội diễn văn nghệ tại địa phương.
7
- Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực
khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Đoàn trường tổ chức các hoạt động
vui chơi, hội trại 26/03.
+ Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch
sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương.
Trong 5 nội dung trên tôi rất quan tâm tới nội dung thứ 4. Vì nội dung này
có Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực
khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Tuy nhiên do đây là kế hoạch chung
có tầm bao quát lơn nên không có hướng dẫn tổ chức trò chơi gì? tổ chức vào
thời gian nào? Chưa có hệ thống trò chơi phù hợp cho học sinh ở vùng đăc
biệt khó khăn.
b) Đề tài: Nâng cao kết quả học toán cộng, trừ, nhân, chia thông qua
kĩ thuật dạy học phối hợp thể dục thể thao của cô Nguyễn Thị Thừa –
Phòng GD&ĐT Khánh Sơn;
Đề tài đã sáng tạo một kĩ thuật dạy học các phép tính đơn giản, dạy bảng
nhân, bảng chia bằng cách phối hợp các động tác thể dục thể thao như chuyền
bóng, đánh cầu, đá cầu . . . Đây là một ý tưởng mới mẻ sử dụng rất có hiệu
quả trong dạy học toán, tạo được hứng thú. Điều này nếu áp dụng được cũng
có thể giúp học sinh đi học chuyên cần hơn. Tuy nhiên đề tài chỉ mới nghiên
cứu sử dụng ở môn toán, chưa áp dụng với các môn học khác. Đề tài cũng chỉ
sử dụng để nâng cao hiệu quả dạy học chưa nghiên cứu để duy trì sĩ số.
c) Một số biện pháp nhằm duy trì sĩ số của cô Trần Thị Nghĩa
Đề tài một số biện pháp nhằm duy trì sĩ số của cô Trần Thị Nghĩa trường
TH Ba Cụm Bắc cũng đưa ra ba giải pháp chính đó là : Phối hợp với gia đình
phụ huynh; Nâng cao chất lượng dạy học, đổi mới phương pháp dạy học;
8
Xây dựng môi trường học tập thân thiện, thường xuyên tổ chức các cuộc thi,
đố vui học tập, rung chuông vàng, thường xuyên động viên khích lệ học sinh,
phát động phong trào “ Thay vì điểm 10, thầy cô hãy tặng trẻ những lời
khen” .
Như vậy phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực,
hay nghiên cứu Kĩ thuật dạy học phối kết hợp thể dục thể thao của cô
Nguyễn Thị Thừa, nghiên cứu duy trì sĩ số của cô Trần Thị Nghĩa đều có
điểm chung là hướng tới xây dựng môi trường lớp học thân thiện giúp học
sinh tự tin, năng động, học sinh thấy hào hứng, vui tươi khi được đến lớp bởi
ở đó các em được thoải mái thể hiện khả năng của bản thân các em thật sự là
chủ thể của quá trình tác động …Đây là những nghiên cứu tuy có nhiều điểm
khác về giải pháp đưa ra và khác về mục tiêu hướng tới nhưng có cùng quan
điểm là xây dựng môi trường lớp học thân thiện. Điều này giúp tôi tin tưởng
hơn về sự thành công của đề tai.
Nhà trường đóng ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, có nhiều điểm trường
lẻ (5 điểm trường) nên cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn chưa đáp ứng được
các yêu cầu về “xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”. Trường
chưa có sân chơi an toàn, cây xanh im mát cho các em, chưa có nhà vệ sinh
đàng hoàng sạch sẽ, bàn ghế chưa phù hợp, chưa đảm bảo quy cách . . .
Việc áp dụng nghiên cứu phối kết hợp thể dục thể thao của cô Nguyễn Thị
Thừa cũng chưa thực sự phù hợp do điều kiện về sân bãi, điều kiện về phòng
học bàn ghế khó bố trí sắp xếp. Khả năng tổ chức các hoạt động thể dục thể
thao của giáo viên còn hạn chế nên chưa làm phong phú được hoạt động này.
Trong khi nhà trường đặc biệt là điểm trường lẻ (thôn 2) nơi tôi giảng dạy
còn nhiều khó khăn. Bàn ghế của học sinh là những bộ bàn dài dành cho 4 - 5
em ngồi, bờ tường cũ kĩ, sân trường gồ ghề sỏi đá, chật hẹp, thiếu cây xanh,
9
không có nhà vệ sinh . . . nên có thể nói các điều kiện về cơ sở vật chất là
không thân thiện, không hấp dẫn học sinh. Tổ chức môi trường thân thiện về
mặt tinh thần đó là tình cảm thầy trò, tình cảm giữa trò với trò, môi trường
học tập vui vẻ, dễ hòa đồng thông qua tổ chức các trò chơi học tập là giải
pháp chính, cần thiết ngay trước mắt và cả lâu dài.
5. Xác định vấn đề nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu : Việc tổ chức các trò chơi học tập ở lớp 5B có giúp
tăng tỉ lệ chuyên cần không?
Giả thuyết nghiên cứu: Có, việc tổ chức các trò chơi học tập có giúp tăng
tỉ lệ chuyên cần của học sinh.
III. PHƯƠNG PHÁP
1. Khách thể nghiên cứu :
Khách thể nghiên cứu là 33 học sinh của lớp 5B trường TH và THCS
Thành Sơn, trong đó có 14 học sinh nam và 19 học sinh nữ. Tất cả các em
đều sinh năm 2003. Đa số các em đều có hoàn cảnh khó khăn. Cụ thể về lực
học, khoảng cách từ nhà đến trường như sau:
Tổng
số
Nữ
HS
33
19
Học lực
Dân
Khoảng cách từ nhà đến trường (a)
tộc
G
K TB Y
32
3
8
19
a < 500 m
3
500m < a <
1200m < a <
1200m
2000m
21
5
7
2. Thiết kế nghiên cứu.
Thiết kế chính được sử dụng trong nghiên cứu này là thiết kế Kiểm tra
trước tác động và sau tác động đối với nhóm duy nhất.
10
Kiểm tra trước tác động
Giải pháp hoặc tác động Kiểm tra sau tác động
O1
X
O2
Trước khi tác động tôi tiến hành theo dõi sự chuyên cần của học sinh. Sau
đó tiến hành sử dụng các trò chơi học tập, trò chơi dân gian một cách thường
xuyên vào 15 phút đầu giờ hàng ngày và tổ chức xen kẽ giữa các tiết học
đồng thời theo dõi sự chuyên cần để xem thử những tác động mới này có
giúp tăng tỉ lệ chuyên cần lên hay không? So sánh chênh lệch giá trị trung
bình trước tác động và sau tác động. Chênh lệch giá trị |02-01| > 0 chứng tỏ
tác động là có kết quả.
Tuy nhiên nếu kết luận như vậy là khá chủ quan vì kết quả kiểm tra tăng
lên có thể do ảnh hưởng của các yếu tố khác. Đó chính là nhưng nguy cơ đối
với độ giá trị của dữ liệu.
Nguy cơ tiềm ẩn thứ nhất là : Có thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên là trong
giai đoạn trước tác động giáo viên thấy học sinh vắng học nhiều do đúng vào
mùa thu hoạch nông sản hoặc mùa thu đót, mùa phát rẫy còn giai đoạn tác
động lại là giai đoạn gia đình học sinh rảnh rỗi nên việc đi học đều là hoàn
toàn tự nhiên.
Để loại trừ nguy cơ tiềm ẩn này tôi đã chọn thời điểm không phải là mùa
phát rẫy hay mùa thu hoạch để kiểm tra trước tác động.
Nguy cơ tiềm ẩn thứ 2 là: Việc theo dõi sĩ số sát sao của giáo viên, của tổ
trưởng làm học sinh sợ bị phạt, bị la mắng trong giờ sinh hoạt lớp nên đi học
đều hơn.
Để loại trừ nguy cơ tiềm ẩn thứ hai tôi đã cho tổ trưởng thực hiện việc
theo dõi sĩ số ngay từ đầu năm học nên việc theo dõi sĩ số là trách nhiệm và
là việc làm bình thường diễn ra hoàn toàn tự nhiên của lớp. Sinh hoạt lớp vào
11
cuối tuần lớp vẫn thực hiện theo nội quy đã thống nhất từ đầu năm, giáo viên
không trách phạt hay gây thêm áp lực nào trong giai đoạn nghiên cứu.
Ngoài ra vào giờ sinh hoạt lớp giáo viên giành 10 phút cho học sinh chơi
trò chơi và dặn lớp trưởng chuẩn bị cho trò chơi mới trong tuần tới. Tác động
này cũng có tác dụng tốt đến học sinh hay nghỉ học nên thực chất việc theo
dõi sĩ số của tổ trưởng hay giờ sinh hoạt lớp đã không còn là nguy cơ tiềm
ẩn.
Nguy cơ tiềm ẩn thứ 3 là: Nhận thức của học sinh được nâng lên nên về
sau học sinh đi học chuyên cần hơn là việc bình thường chứ không phải do
tác động của trò chơi học tập mang lại.
Để loại trừ nguy cơ tiềm ẩn thứ 3 tôi đã phối hợp thiết kế này với thiết kế
cơ sở ABAB bằng cách lặp lại quá trình nghiên cứu. Với cách làm này tôi
vừa khắc phục được các nguy cơ tiềm ẩn vừa làm tăng độ tin cậy của dữ liệu.
Thiết kế tôi sử dụng có 2 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1:
Theo dõi sĩ số trước tác
Giải pháp hoặc tác động
động
Theo dõi sĩ số trong
thời gian tác động
O1
X
O2
Dừng tác động và theo dõi
Giải pháp hoặc tác động
Theo dõi sĩ số trong
Giai đoạn 2:
sĩ số
thời gian tác động
tiếp theo
O3
X
12
O4
3. Quy trình nghiên cứu.
Thực hiện nghiên cứu trong 20 tuần : Từ tuần 10 đến hết tuần 29. Chia quá
trình nghiên cứu làm 2 giai đoạn:
a) Trước tác động : 6 tuần (Từ tuần 10 đến hết tuần 15)
Giai đoạn này giáo viên vẫn thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của giáo viên chủ
nhiệm lớp. GV vẫn sử dụng một số biện pháp truyền thống giúp học sinh đi
học chuyên cần hơn như: thường xuyên kiểm tra sĩ số học sinh , sử dụng nội
quy lớp học, nhắc nhở, trách phạt, liên hệ với phụ huynh, đi đến nhà vận
động. Tuy nhiên không sử dụng các trò chơi học tập. Giáo viên và tổ trưởng
theo dõi sĩ số học sinh, ghi vào sổ theo dõi riêng.
b) Tác động: 6 tuần (Từ tuần 16 đến hết tuần 21)
b1) Trò chơi lớn: “Nhân vật ngày hôm nay”
Trò chơi lớn: “Nhân vật ngày hôm nay” được tổ chức 12 lần. Mỗi lần chơi
tôi sử dụng một gói thăm khác nhau, còn cách chơi thì không thay đổi (Các
gói thăm cụ thể có ở phần phụ lục)
Mục tiêu của trò chơi nhân vật ngày hôm nay:
- Tạo không khí vui tươi, giúp các em có tâm thế thoải mái trước khi vào
giờ học.
- Rèn kĩ năng đọc, kĩ năng thuyết phục người khác, giúp HS mạnh dạn tự
tin trước đám đông và trước thầy cô giáo.
- Thông qua trò chơi giúp HS hiểu biết thêm một số câu ca giao tục ngữ
- Bỗi dưỡng tính hài hước, vui vẻ, thân thiện với mọi người
13
Cách chơi: Quản trò làm 4 lá thăm bỏ vào trong một chiếc hũ thủy tinh
nhỏ, các lá thăm ghi những câu chúc mừng tốt đẹp, những câu nói hài hước,
một yêu cầu nhỏ hoặc nhưng câu phỏng đoán lí thú . . .
Quản trò lần lượt đưa hũ cho một nhóm học sinh bốc thăm, học sinh bốc
được thăm nào thì đọc và thể hiện theo yêu cầu trong lá thăm. Cả lớp sẽ hồi
hộp chờ đợi để nghe câu mà bạn đọc hoặc xem bạn biểu diễn. Sau khi 8 học
sinh thể hiện xong cả lớp sẽ bình chọn câu mà em thích nhất hoặc tiết mục
mà em yêu thích nhất rồi cùng phát biểu ý kiến bàn luận hoặc nhận xét về sự
hài hước của câu nói đó và phần thể hiện của bạn. (Giải thích câu nói nếu cần
thiết). Học sinh nào thể hiện theo yêu cầu tốt nhất sẽ là “nhân vật ngày hôm
nay”. Nhân vật ngày hôm nay có quyền mời bất kì ai lên và hát một bài hoặc
múa, nhảy, biểu diễn thời trang, kể chuyện hài hước… cho cả lớp xem.
Luật chơi: Mỗi ngày chỉ cho một dãy bàn (4 em) bốc thăm, các nhóm
luân phiên bốc thăm cho đến hết đợt tác động, mỗi học sinh trong nhóm chỉ
bốc 1 thăm và đọc to cho cả lớp nghe rồi thể hiện theo yêu cầu của thăm (nếu
có). Cuối tháng lớp sẽ bình chọn nhân vật của tháng và trao phần thưởng cho
nhân vật nào biểu diên vui nhất, hay nhất.
Ví dụ về cách tổ chức trò chơi lớn “Nhân vật ngày hôm nay”
Sau khi đã hướng dẫn xong cách chơi, luật chơi quản trò tiến hành các
bước như sau:
Bước 1: Quản trò đưa hũ cho nhóm 1 bốc thăm (môt dãy bàn 4 em bốc thăm)
Bước 2: HS lần lượt đọc và thể hiện theo yêu cầu (nếu có) trong các lá thăm
của mình:
Lá thăm 1: Nếu ngày mai mẹ bảo em ở nhà trông em, không đi học.
Em sẽ thuyết phục mẹ như thế nào?
14
Lá thăm 2: Hôm nay bạn sẽ có một niềm vui nho nhỏ.
Lá thăm 3:
Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Chỉ tội cho cái thằng con
Đứng ngoài chầu chực biết ngon là gì
Lá thăm 4: Học đi đôi với hành ,hành đi đôi với tỏi
Bước 3: Giải thích ngăn gọn và sửa lại cho đúng câu nói ở lá thăm 4 : Dù ai
nói ngả nói nghiêng lòng ta vẫn vững như kiềng 3 chân.
Bước 4 : Bình chọn Nhân vật ngày hôm nay
Bước 5: Nhân vật ngày hôm nay mời một bạn lên biểu diễn trước lớp một
động tác hài hước hoặc một điệu nhảy, một bài hát, một điệu múa . . .
Bước 6: Tổng kết khen ngơi
b2. Trò chơi nhỏ:
Các trò chơi nhỏ được tổ chức trong giai đoạn này gồồm:
TT
Tên trò chơi
Thời gian tổ chức
1
Trời – Biển – Đất – Nước – Việt Nam
Tuần 15 + 16
2
Hát đối
Tuần 17 + 18
3
Gồ ghê
Tuần 19 + 20
(Hướng dẫn cụ thể cách chơi ở phần phụ lục)
Vào giữa giờ giáo viên hướng dẫn và tổ chức cho học sinh chơi trò chơi
nhỏ. Cứ sau tiết 2 vào các ngày thứ 2, thứ 4 và thứ 6 tôi cho học sinh chơi trò
chơi nhỏ. Cứ 2 tuần tôi lại hướng dẫn cho học sinh một trò chơi mới. Mỗi trò
15
chơi tôi chỉ hưỡng dẫn cho HS chơi lần đầu còn các lần sau cho lớp trưởng,
lớp phó hoặc các tổ trưởng thay nhau lên tổ chức cho lớp chơi. Cách làm này
ngoài việc học sinh được chơi các em còn được rèn luyện các kĩ năng nói, kĩ
năng tổ chức, kĩ năng trình bày và thể hiện được cá tính của bản thân đó cũng
là một lí do để các em đi học chuyên cần hơn.
Ví dụ về tổ chức trò chơi nhỏ
Trò chơi: CHỤM HOA
Mục tiêu:
- Tạo bầu không khí vui vẻ, xua tan căng thẳng mệt mỏi
- Rèn luyện khả năng quan sát, tính toán, phản xạ nhanh nhen
Cách chơi: Cho cả lớp vừa đi vòng quanh vừa hát :
“Nào chúng mình cùng chơi chụm 5 chụm 3.
Chúng ta là hoa, hoa muốn thành vườn.
Hoa ơi hoa chụm lại. Chụm mấy?”
Đến câu cuối cùng cả lớp đồng thanh hô “chụm mấy ?”. Quản trò sẽ
hô chụm 3 hoặc chụm 5, chum 4 . . , Sau khi dứt tiếng hô của quản trò thì
người chơi phải nhanh chóng chụm lại thành từng nhóm theo yêu cầu.
Luật chơi: Người chơi nào bị thừa ra hoặc chụm không đúng yêu cầu
sẽ bị thua, bị phạt. Quản trò tiếp tục bắt nhịp bài hát, vòng tròn lại di chuyển,
hát và tiếp tục chơi.
c) Dừng tác động: 4 tuần (Từ tuần 22 đến hết tuần 25)
(Thực hiện hoàn toàn giống trước tác động)
d) Tiếp tục tác động: 4 tuần (từ tuần 26 đến hết tuần 29)
16
d1) Trò chơi lớn: HÁT VÈ – XẾP CHÂN
Trò chơi lớn Hát vè – xếp chân được tổ chức 8 lần, mỗi tuần tôi lại sử
dụng một bài ve, hoặc một bài đồng giao khác.
Mục tiêu:
- Giúp học sinh ôn luyện bảng nhân chia, ôn học thuộc lòng, biết thêm các
bài vè, câu đố.
- Tạo không khí vui vẻ, thoải mái.
Cách chơi: Mỗi ngày quản trò mời một tổ tham gia chơi trò chơi lớn.
Người chơi được mời lên ngôi trên bục giảng thẳng hai chân vê phía trước.
Quản trò bắt nhịp cho người chơi đọc bài vè hoặc bài đồng giao, bài thơ,
bảng nhân chia . . .
Khi người chơi đọc quản trò cùng đọc đồng thơi dùng thước chỉ vào
chân từng người. Tiếng cuối cùng của bài vè (bảng nhân, bài đồng giao) đúng
vào chân của người nào thì người đó được xếp chân lại. Ai xếp được cả hai
chân thì thắng và về chỗ. Trò chơi tiếp tục cho đến khi tìm được người cuối
cùng.
Luật chơi: Người chơi phải đọc đúng bài thơ hoặc bảng nhân hay bài
vè mà quản trò yêu cầu, ai đọc sai sẽ bị phạt.
(một số bài vè phục vụ cho trò chơi lớn được ghi phụ lục 2)
Ví dụ về trò chơi : Hát vè - xếp chân
Bước 1: Quản trò mời tổ 1 lên chơi trò chơi (8 học sinh). Học sinh ngồi xếp
thành hàng ngang duỗi hai chân ra phía trước.
Bước 2: Quản trò bắt nhịp cho cả lớp đọc bài đồng giao:
17
Ông trẳng ông trăng,
Bắt trai bỏ giỏ,
Xuống chơi với tôi.
Cái đỏ ẵm em,
Có bầu có bạn,
Đi xem đánh cá,
Có ván có xôi,
Có rá vo gạo,
Có nồi cơm nếp,
Có gáo múc nước,
Có nệp bánh chưng,
Có lược chải đầu,
Có lưng hũ rượu,
Có trâu cày ruộng,
Có chiếu bám đu,
Có muống thả ao.
Thằng cù xí xoài
Ông sao trên trời...
Khi đọc mỗi tiếng trong bài đồng giao quản trò dùng thước chỉ vào
chân của từng người. Tiếng cuối cùng dừng ở vị trí chân người nào thì người
đó được xếp chân lại. Người chơi nào được xếp cả hai chân thì thắng và được
về chỗ. Trò chơi tiếp tục cho đến khi người chơi cuối cùng xếp chân cuối
cùng.
Bước 3: Khen ngợi cả lớp đọc thuộc bài (thuộc bảng nhân chia. . .), khen học
sinh tham đã gia chơi tích cực.
Các bài vè dùng cho trò chơi lớn trong giai đoạn này gồm:
TT
1
Tên trò chơi
Bài vè thay thế
Hát vè – Xếp chân
Khuyến trẻ học hành
Thời gian tổ chức
Thứ 3 và thứ 5
Tuần 26
2
Hát vè – Xếp chân
Vè thằng nhác
Thứ 3 và thứ 5
Tuần 27
3
Hát vè – Xếp chân
Bắt được con công
Thứ 3 và thứ 5
Tuần 28
18
Hát vè – Xếp chân
4
Bảng nhân 6 (7, 8, 9)
Thứ 3 và thứ 5
Tuần 29
( Nội dung các bài vè có ở phần phụ lục)
d2) Trò chơi nhỏ: (Tiến hành tương tự giai đoạn 1)
Các trò chơi nhỏ được tổ chức trong thời gian này gồồm:
TT
Tên trò chơi
Thời gian tổ chức
1
Ném lon
Tuần 26 + 27
2
Tập tầm vông
Tuần 28 + 29
( Hướng dẫn cụ thể cách chơi ở phần phụ lục)
4. Đo lường và thu thập dữ liệu
Công cụ đo lường : Sổ theo dõi chuyên cần của các tổ trưởng. Tôi đã thiết kế
sổ theo dõi chuyên cần dành cho các tổ trưởng đề tổ hàng ngày theo dõi thành
viên của tổ mình. Nếu trong tổ có học sinh nghỉ học thì tổ trưởng chỉ việc
đánh dấu x vào dòng có tên của học sinh đó.
(Mẫu sổ có ở phần phụ lục)
IV. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN KẾT QUẢ
1. Mô tả dữ liệu trước và sau tác động :
Mô tả dữ liệu
Dừng tác
Tiếp tục tác
97
động
84.8
động
97
97
86.35
97
Trước tác động
Tác động
Mốt
90.9
Trung vị
87.9
94.65
Giá trị trung bình
88.07
95.46
87.86
19
Độ lệch chuẩn
5.34
5.83
4.41
4.24
Nhìn vào bảng mô tả dữ liệu ta nhận thấy có sự khác biệt giữa các giai
đoạn trước tác động và sau tác động.
Trước tác động trung bình tỉ lệ đi học chuyên cần chỉ đạt 88,07% sau đó
tôi tiến hành tổ chức lớp học vui vẻ thân thiện bằng cách tổ chức trò chơi lớn
và các trò chơi nhỏ thì học sinh đi học chuyên cần hơn trung bình đạt
94,65%.
Để tăng độ tin cậy của dữ liệu tôi đã tiến hành lặp lại quá trình nghiên cứu
bằng cách dừng tác đông trong một thời gian 4 tuần để theo dõi xem học sinh
có tiếp tục đi học đều hay lại vắng học? Kết quả cho thấy ngay sau khi dừng
tác động học sinh bắt đầu vắng học nhiều bình quân tỉ lệ chuyên cần tụt
xuống chỉ đạt 87,86 %. Tôi tiếp tục tác động thêm 4 tuần nữa thì thấy học
sinh lại đi học đều hơn, tỉ lệ chuyên cần đạt 95,46%.
20
- Xem thêm -