Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn sử dụng tài liệu văn học giúp học sinh hứng thú học tập lịch sử ở trường th...

Tài liệu Skkn sử dụng tài liệu văn học giúp học sinh hứng thú học tập lịch sử ở trường thpt nguyễn công trứ

.DOC
25
159
98

Mô tả:

A. ĐẶT VẤN ĐỀ: I. Lí do chọn đề tài: Cách đây 531 năm(1484- 2015), trên tấm bia Tiến sĩ đầu tiên dựng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám ghi lại dòng chữ: “…Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”( Tiến sĩ triều Lê, Thân Nhân Trung) Ý thức được tầm quan trọng của giáo dục nên trong thời đại ngày nay, Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng giáo dục, coi giáo dục là “ quốc sách hàng đầu” và luôn chú trọng đổi mới giáo dục. Vì thế, tại kì họp Quốc hội khóa X năm 2000, đã thông qua nghị quyết số 40/2000/QH10 về vấn đề đổi mới giáo dục phổ thông. Hiện nay Lịch sử là môn học mà hầu hết trong các kì thi ở các cấp kết quả đạt được chưa cao. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có cách dạy của giáo viên và cách học ở học sinh, điều đó đặt ra yêu cầu cần phải đổi mới. Trong nhà trường phổ thông, bộ môn lịch sử là một trong những bộ môn có tầm quan trọng và có tính giáo dục rất lớn, nó cung cấp cho học sinh một bức tranh sinh động về lịch sử loài người và lịch sử dân tộc Trong quá trình giảng dạy môn lịch sử , ở các bài học nội dung truyền đạt cho học sinh chỉ là những kênh chữ, một vài bài có cung cấp thêm hình ảnh. Trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ chú ý bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động. Ví dụ như cung cấp thêm những hình ảnh ngoài sách giáo khoa hoặc những mẫu chuyện kể về những con người đã góp phần xây dựng đất nước để có được những thành tựu của hôm nay mà trong sách giáo khoa không đề cập đến. Qua tiết dạy không đem lại hứng thú cho học sinh, tiết học trở nên khô khan đôi lúc học sinh lại có những suy nghĩ lệch lạc về những nhân vật lịch sử hoặc những sự kiện lịch sử quan trọng. Từ yêu cầu và thực tế trên đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của học sinh, giúp học sinh tư duy và nắm được nội dung kiến thức trọng tâm đã học. Vì vậy người giáo viên phải biết sử dụng đến kiến thức các môn học khác như địa, công dân, văn học, … Những bộ môn đó làm cho giờ học lịch sử sống động hơn, hấp dẫn học sinh hơn. Trong đó nếu giáo viên biết vận dụng một số câu trích dẫn, câu văn, câu thơ, đoạn trích để miêu tả tường thuật một sự kiện, một cuộc đời hoạt động của nhân vật, một cuộc cách mạng…sẽ làm phong phú tri thức học sinh, giúp học sinh yêu thích, hứng thú say mê học tập môn lịch sử và sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học môn lịch sử Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, tôi xin trình bày một số vấn đề về việc: “ Sử dụng tài liệu văn học giúp học sinh hứng thú học tập lịch sử ở trường THPT Nguyễn Công Trứ ”. Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có một giờ dạy học có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến thức tự giác, chủ động, ngày càng yêu thích môn học. II. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với “Gây hứng thú học tập lịch sử bằng tài liệu văn học ”. Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là khối lớp 10 và khối lớp 11 của trường THPT Nguyễn Công Trứ III. Phương pháp nghiên cứu Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp trao đổi rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy. Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử. Sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên lịch sử lớp 10 Sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên lịch sử lớp 11 Các tác phẩm văn học có liên quan Sử dụng các câu hỏi điều tra có thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của việc đánh giá khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh trong việc giảng dạy môn lịch sử , để khắc phục nhược điểm trong phương pháp kiểm tra đánh giá cần phối hợp các phương pháp hiện đại, trong đó có phương pháp kiểm tra bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh học và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ sung hợp lí B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I. Cơ sơ lí luận: 1. Những yêu cầu chung đối với giáo viên lịch sử: Bất cứ giáo viên bộ môn nào đều phải có tư tưởng, tình cảm đúng đắn lành mạnh, trong sáng, có lòng nhiệt thành đối với nghề nghiệp, có thế giới khách quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ để góp phần hình thành thế hệ trẻ theo mục tiêu đào tạo của Đảng. Không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức bộ môn, có phương pháp dạy tốt, không ngừng hoàn thiện cải tiến phương pháp giảng dạy và nghiệp vụ. Giảng dạy là đưa đến cho thế hệ trẻ, giúp thế hệ trẻ tiếp nhận những giá trị quí báu của loài người về phương diện tri thức cũng như về phương diện tình cảm, tư tưởng góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho thế hệ trẻ. Giảng lịch sử là giảng về quá khứ của xã hội loài người, quá khứ của dân tộc, quá khứ của địa phương. Những quá khứ đó lại có quan hệ mật thiết với hiện tại và tương lai. Trong bài giảng, bài học lịch sử tư duy, tình cảm của giáo viên và học sinh hướng về những gì rất gần gũi đó là những con người thật những con người cụ thể chứ không phải là những con người hư cấu. Trong lịch sử dân tộc địa phương những con người đó là lại càng gần gũi hơn đó là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị của những người đang giảng dạy và học tập lịch sử Để giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức giáo viên bắt đầu từ việc giúp học sinh hiểu biết cụ thể, nắm được kiến thức lịch sử. Đó là nhiệm vụ giáo dưỡng và giáo dục. Có câu: “Lời khen của sử còn vinh dự hơn áo đẹp vua ban, lời chê của sử còn nghiêm khắc hơn búa rìu, sử thực sự là cái cân, cái gương của muôn đời.” Qua đó ta thấy được môn lịch sử vô cùng quan trọng không những cung cấp những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới mà còn góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách cho học sinh 2. Thực trạng dạy và học ở trường THPT Nguyễn Công Trứ a. Thuận lợi: Giáo viên có nhiều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như: sử dụng dồ dùng trực quan,sử dụng sơ đồ tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm nhân vật …. Giáo viên tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau, thông qua hoạt động này những học sinh yếu kém sẽ được sự hướng dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi, học sinh sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp và khai thác triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, ứng dụng công nghệ thông tin… Học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà. Đa số học sinh tham gia tích cực trong việc thảo luận nhóm và đã đưa hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Học sinh yếu, kém đã và đang nắm bắt kiến thức trọng tâm cơ bản thông qua các hoạt động như thảo luận nhóm, đọc sách giáo khoa, vấn đáp… các em đã mạnh dạn trả lời các câu hỏi ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình. b. Khó khăn: Vẫn còn một số ít giáo viên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, nắm vững kiến thức, vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học “thầy nói, trò nghe’, “thầy đọc, trò chép”. Do đó nhiều học sinh chưa nắm kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn sách giáo khoa hoàn toàn. Một số câu hỏi giáo viên đặt ra khó, học sinh không trả lời được nhưng lại không có câu hỏi gợi ý nên nhiều khi phải trả lời thay cho học sinh. Một số tiết giáo viên chỉ nêu vài câu hỏi và chỉ gọi một số học sinh khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi dành cho đối tượng học sinh yếu, kém, làm cho đối tượng này ít được chú ý và không được tham gia hoạt động đều này làm cho các em tự ti về năng lực của mình, các em cảm thấy chán nản và không yêu thích môn học. Học sinh chưa có tinh thần học tập, một số em vừa học vừa làm, việc tiếp thu bài chậm, đặt câu hỏi phải cụ thể, lặp lại nhiều lần. Các em chưa xác định được động cơ học tập, học như thế nào? học cho ai? học để làm gì? Vì thế các em chưa phát huy hết vai trò và trách nhiệm của người học sinh. Học sinh chưa xác định nội dung của bài học, tiếp thu bài một cách máy móc, các em luôn có tư tưởng lịch sử là môn phụ nên không cần thiết. c. Điều tra cụ thể: Trong quá trình vừa giảng dạy vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy.Việc điều tra được thực hiện thông qua những câu hỏi phát triển tư duy trên lớp, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết …. Qua điều tra, đa số học sinh chỉ trả lời những câu hỏi mang tính chất trình bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì trả lời chưa được tốt, chưa biết vận dụng và liên hệ kiến thức giữa các bài các chương, chưa nắm rõ các sự kiện lịch sử qua các giai đoạn hay lẫn lộn giữa sự kiện này với sự kiện khác. Cụ thể kết quả HK I Lớp Sĩ số 10a 33 2 10a 35 4 Giỏi Khá Trung bình SL % SL % SL % 5 15.2 21 63.6 6 18.2 1 2.9 15 42.8 17 48.6 Yếu SL % 1 3.0 2 5.7 Kém SL % II. Giải Pháp thực hiện: 1. Đối với học sinh: Học sinh phải đọc trước bài mới trong sách giáo khoa, chuẩn bị tất cả các câu hỏi trong SGK phần sẽ học. Trong giờ học phải chú ý nghe giảng bài, tích cực phát biểu ý kiến, xây dựng bài, không tiếp thu máy móc phải có suy nghĩ. Biết cách làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ giáo viên giao cho. Học sinh tự giác học tập, dựa vào kiến thức giáo viên truyền thụ học sinh phải biết tự mình tìm tòi, sáng tạo, phân tích sự kiện hoặc so sánh sự kiện này với sự kiện khác. Học sinh cần có quyển sổ tay để ghi những vấn đề, những thông tin giáo viên cung cấp mà không có trong sách giáo khoa. Học sinh phải biết sử dụng bản đồ, lược đồ trình bày diễn biến một cuộc khởi nghĩa hoặc một giai đoạn lịch sử. 2. Đối với giáo viên: Chuẩn bị tất cả đồ dùng dạy học khi lên lớp: giáo án (hoặc giáo án điện tử), bản đồ tranh ảnh, sơ đồ…. Hạn chế giảng giải, thuyết trình, hạn chế đưa ra những câu hỏi vụn vặt nên tập hợp các câu hỏi thành gợi ý, hướng giải quyết vấn đề. Khi giảng bài mới phải kết hợp nhiều phương pháp và kết hợp với liên hệ kiến thức cũ. Khi học sinh làm việc theo nhóm, giáo viên cần theo dõi, giải đáp ngay các thắc mắc của học sinh. Không nên đưa ra những câu hỏi quá đơn giản như: có, đúng, không, sai. Nếu đặt câu hỏi như vậy phải kèm theo vế sau như vì sao? Hoặc tại sao? Câu hỏi phải đi từ dễ đến khó, nếu đặt câu hỏi khó sẽ làm cho học sinh căng thẳng. Nếu câu hỏi khó giáo viên nên gợi ý cho học sinh trả lời, không nên cho học sinh suy nghĩ quá lâu làm không khí lớp nặng nề. Trong lúc học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên không nên hối thúc học sinh, có thể nêu gợi ý tạo cho học sinh không khí thoải mái. Khi học sinh trả lời giáo viên phải nhận xét câu trả lời của học sinh, nếu thiếu có thể cho một học sinh khác bổ sung hoặc giáo viên trình bày cụ thể. Nếu dạy những bài có các danh nhân, vị anh hùng dân tộc nên sơ lược thân thế sự nghiệp, kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức. Nội dung bài phải thật ngắn gọn cô động nhưng phải đảm bảo nội dung cơ bản, cần nhấn mạnh ý chính của bài. 3. Một số giải pháp thực tế gây hứng thú học tập lịch sử bằng tài liệu văn học : a) Phương pháp sử dụng tài liệu văn học: Tôi đã từng đọc được nhận xét sau: Nếu có phương pháp đúng đắn, thì một người bình thường cũng có thể làm được những điều phi thường; Vậy, sử dụng tài liệu văn thơ trong dạy học lịch sử cần có phương pháp như thế nào? Theo Trịnh Tùng trong cuốn “ Phương pháp dạy học lịch sử” (trang 164, NXB Giáo dục 1999), thì sử dụng tài liệu văn thơ trong dạy học lịch sử có thể tiến hành như sau: Thứ nhất: Đưa vào bài giảng một đoạn thơ, đoạn văn ngắn nhằm minh họa những sự kiện đang học. Thứ hai: Dùng một đoạn trích nhằm cụ thể hóa sự kiện, nêu ra một kết luận khái quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kì lịch sử. Thứ ba: Tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi ngoại khóa lịch sử (Dạ hội lịch sử…) Trong thực tiễn dạy học, các tác phẩm văn học dân tộc cũng như thế giới có vai trò to lớn đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Trước hết các tác phẩm văn học bằng những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm người đọc, trình bày những nét đặc trưng điển hình của các hiện tượng kinh tế, chính trị những qui luật của của đời sống xã hội. Trong khi sáng tác một tác phẩm nhà văn phải nghiên cứu các tài liệu lịch sử, không ít tác phẩm văn học tự nó là tư liệu lịch sử . Ví dụ như Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh… Trong việc giảng dạy, giáo viên thường sử dụng các loại tài liệu văn học chủ yếu: văn học dân gian, các tác phẩm ra đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử, truyện, tiểu thuyết, thơ…. Văn học dân gian ra đời sớm với nhiều thể loại như : thần thoại, truyền thuyết, cổ tích dân ca, ca dao, tuyện trạng, truyện cười…. Đây là tài liệu phản ánh nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc. Ví dụ như truyện Thánh Gióng, qua câu chuyện ta xác định được những yếu tố hiện thực của lịch sử là thời Hùng Vương thứ 6 (tương ứng với thời nhà Ân ở Trung Quốc), đồ sắt phát triển với vũ khí công cụ dùng đều bằng sắt (nón sắt, giáp sắt, gậy sắt, ngựa sắt), đồng thời nêu cao truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ (cả làng góp gạo thổi cơm cho Gióng ăn) hay Sơn Tinh – Thủy Tinh là biểu tượng đoàn kết, đồng lòng của dân tộc ta đắp đê chống bão, lũ lụt đặc trưng rất rõ của cư dân trồng lúa nước của nhân dân ta trong buổi đầu lịch sử vừa dựng nước và giữ nước. TK XVI – XVIII, thể loại văn học dân gian phát triển, các tác phẩm đã kích chế sự thối nát và lạc hậu của chế độ phong kiến đồng thời nói lên mơ ước của người dân có cuộc sống tốt đẹp hơn. Chẳng hạn như truyện “Trê Cóc”, một câu chuyện ngụ ngôn chủ ý bày tỏ cái thói "tranh hơi tức khí" gây nên những cuộc kiện tụng và chỉ trích cái tệ nhũng lạm của bọn sai nha cùng cái bọn thầy cò. Ở truyện Trê Cóc còn có ý nghĩa về luân lý, bởi tác giả đã phô bày lắm nét hủ bại và nực cười ở xã hội xưa, chung quanh những vụ kiện tụng trước cửa quan, người ta thấy trở đi trở lại những chữ “lo lót, lễ vật, lễ mọn, phí tổn”. Chung quy thì chỉ người dân là phải chịu thiệt hại, thua cũng thiệt mà được cũng thiệt. Cóc sù sì, thô kệch giống như là những người dân chất phác hiền lành. Trê nhẵn nhụi, trơn tru hay chui luồn, có thể tiêu biểu cho những người có nết láu lĩnh, hay làm việc mờ ám... Sử dụng tài liệu văn học dân gian, không chỉ góp phần làm cho bài giảng sinh động, tạo được không khí gần gủi với bối cảnh lịch sử, sự kiện đang học mà giáo viên tiến hành có thể đạt được kết quả giáo dục tư tưởng đạo đức nói chung giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng Các tác phẩm văn học vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử có ý nghĩa đối với việc khôi phục hình ảnh quá khứ. Khi nói cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ XX dưới chế độ thực dân nửa phong kiến thì phải kể đến tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là chị Dậu và gia đình, một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm này đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời. Đỉnh điểm của cơn cùng cực là việc chị Dậu phải bán con, khoai và bán cả bầy chó để lấy tiền nộp sưu thuế cho chồng và cảnh chị Dậu chạy ra giữa màn trời đêm tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị. Khi sử dụng tài liệu văn học phải đảm bảo tiêu chuẩn cơ bản là giá trị giáo dục – giáo dưỡng và giá trị văn học, các tài liệu đó phải giúp học sinh khôi phục lại bối cảnh lịch sử, hình ảnh các sự kiện, nhân vật của quá khứ để phục vụ được yêu cầu của nội dung bài học, phù hợp trình độ nhận thức của học sinh, không làm loãng nội dung bài học lịch sử. b) Cách sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường THPT : Sau đây là một số ví dụ về việc sử dụng văn thơ trong dạy học lịch sử ở một số bài học cụ thể trong chương trình lịch sử lớp 10, lớp 11 ở trường THPT mà bản thân tôi đã thực hiện: Khi dạy bài 14: “Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam”, khi dạy mục 1. “ Quốc gia Văn Lang- Âu Lạc”: Khi dạy về quốc gia Văn Lang, giáo viên có thể trích dẫn câu ca dao sau để học sinh khắc sâu kiến thức: “ Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3” Hay có thể dẫn lời nói của Bác Hồ khi người nói chuyện với các chiến sĩ cách mạng ở Đền Hùng: “ Các vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” Từ đó học sinh thêm tự hào về truyền thống dân tộc và có ý thức giữ gìn và xây dựng đất nước. Về sự thất bại của nước Văn Lang trước sự tấn công của phương Bắc, từ đó nước ta bước vào thời kì Bắc thuộc, chúng ta có thể kể câu chuyện” Mị Châu , Trọng Thủy” để học sinh dễ học dễ nhớ hơn. Nghe câu ca này học sinh sẽ nhớ sâu hơn nơi đóng đô của nước Âu Lạc( tại Phong Khê, nay là vùng Cổ Loa- huyện Đông Anh- Hà Nội). Đến bài 15: “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc( Từ thế kỉ II đến đầu thế kỉ X)”, khi dạy mục 2. “Những chuyển biến về kinh tế- xã hội”, giáo viên có thể kể nội dung câu chuyện “Sự tích bánh chưng bánh giày” để góp phần chứng minh cho ý nhân dân ta không bị đồng hóa về văn hóa. Ở bài 16: “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc( Từ thế kỉ II đến đầu thế kỉ X)”- tiếp theo, giáo viên có thể liên hệ một số kến thức văn thơ sau: Ở mục 1. “ Khái quát phong trào đấu tranh từ thế kỉ I đến đầu thế kỉ X”, giáo viên có thể trích đọc một số câu ca dao sau để học sinh tạo biểu tượng lịch sử, hình dung rõ hơn được bối cảnh lịch sử lúc đó như: Về khởi nghĩa của Bà Triệu: “Có bà Triệu tướng Vâng lệnh trời ta Trị voi một ngà Dựng cờ mở nước Lệnh truyền sau trước Theo gót Bà Vương” Và tương truyền, quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên có câu: “ Cầm ngang ngọn giáo chống hổ dễ Giáp mặt vua bà thực khó ghê” Với khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, có thể đọc bài thơ sau( Được ghi trong “ Tiên chân báo huấn tân kinh” để ở đền thờ ông), để học sinh nhớ và hiểu hơn nguyên nhân bùng nổ khởi nghĩa, ca tụng công đức của Mai Thúc Loan: Hùng cứ châu Hoan đất một vùng, Vạn An thành lũy khói hương xông, Bốn phương Mai Đế lừng uy đức, Trăm trận Lý Đường phục võ công. Lam thủy trăng in, tăm ngạc lặn, Hùng sơn gió lặng, khói lang không. Đường đi cống vải từ đây dứt, Dân nước đời đời hưởng phúc chung” Khi dạy mục 2. “Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu”, có thể trích dẫn một số thơ ca sau: Về khởi nghĩa hai bà Trưng: Trong “ Đại Nam quốc sử diễn ca” có đoạn kể về khởi nghĩa này giúp học sinh nắm được nguyên nhân bùng nổ cuộc khởi nghĩa, kẻ thù của ta, sự nghiệp hai Bà, kết quả cuộc khởi nghĩa: “Bà Trưng quê ở Châu Phong Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên Chị em nặng một lời nguyền Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân Ngàn tây nổi áng phong trần Ầm ầm binh mã xuống dần Long Biên Hồng quần nhẹ bước chinh yên Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành Kinh kì đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta” Ở bài 17: “ Quá trình hình thành và phát triển nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV”: Khi dạy mục I. “ Bước đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X”, có thể đọc câu ca sau nói về sự thành lập nhà Đinh để học sinh hình dung được hoàn cảnh loạn lạc trước khi thành lập nhà Đinh- loạn 12 sứ quân, nhớ tên người thành lập triều đại này và khí phách của Đinh Bộ Lĩnh: “ Bé thì chăn nghé chăn trâu Trận bày quyết lấy bông lau làm cờ Lớn lên xây dựng cơ đồ Mười hai xứ tướng bấy giờ đều thua” Khi dạy bài 19: “ Những cuộc kháng chiến đấu chống ngoại xâm ở các thế kỉ X- XV”: Mục I. “Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống”, khi dạy mục 2. “ Kháng chiến chống Tống thời Lý”, đến diễn biến cuộc kháng chiến chống Tống, giáo viên có thể yêu cầu một học sinh đọc bài thơ “ Nam quốc sơn hà” được coi là của Lý Thường Kiệt, để học sinh nhớ hơn diễn biến cuộc chiến, tinh thần quân ta- Vì bài thơ được đọc trong lúc giao chiến giữa hai bên và đã cổ động tinh thần quân ta, làm quân địch hoảng sợ, đây cũng là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc: “ Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời” Ở bài 21: “ Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVIXVIII”, khi giảng dạy mục 2.” Đất nước bị chia cắt”, về cuộc chiến tranh NamBắc triều: Sau khi kết thúc, kết quả là năm 1592, Bắc triều nhà Mạc thất bại, phải chạy lên vùng đất Cao Bằng và dựa vào thế lực phong kiến phương Bắc để cố thủ thêm một thời gian nữa. Trong khoảng thời gian đó, chính quyền của vua Lê- chúa Trịnh vừa phải cho quân đánh chúa Nguyễn ở mạn nam, vừa phải đưa quân lên mạn bắc để đánh dẹp dư đảng họ Mạc, làm cho đời sống nhân dân Đàng ngoài rất cực khổ, gia đình li tán, nên nhân dân truyền nhau câu ca: “ Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non Nàng về nuôi cái cùng con, Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng” Đọc câu thơ này, sẽ tạo được ở học sinh lòng xót thương với thân phận con người thời kì này, đặc biệt là người phụ nữ thời chiến tranh, học sinh sẽ có thái độ lên án chiến tranh phi nghĩa. Đến bài 31: “ Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII”, khi dạy mục 1. “ Cách mạng bùng nổ. Nền quân chủ lập hiến”( thuộc phần II- “Tiến trình của cách mạng”), về sự kiện ngày 14 tháng 7, quần chúng Pari phá ngục Ba- xti, để học sinh hình dung được không khí sôi sục, hăng hái, quyết liệt của cuộc khởi nghĩa của quần chúng Pari khi phá bỏ biểu tượng quyền lực của chế độ phong kiến- ngục Ba- xti, để học sinh thấy được sự căm thù, chán ghét của nhân dân Pháp với chế độ phong kiến hủ bại ở Pháp lúc đó bằng một số câu thơ trong bài thơ của Tố Hữu “ Ngày 14 tháng 7”: “... Và lớn, và bé, đàn ông, đàn bà Tất cả chiếm mỗi người đôi khí giới. Anh hàng thịt vung con dao sáng chói Người lính già quắc thước múa chuôi gươm Và anh hàng giày quần áo rách tươm Anh thợ dệt đang nằm sau cửa xưởng Cũng trỗi dậy, oai nghi như võ tướng Giật thanh đao, khẩu súng nhảy ra ngoài Những thằng con bé bỏng cũng giương oai Phồng má thổi kèn vang sau gót bố” Ví dụ khi dạy bài 19 “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống xâm lược (từ năm 1858 đến trước năm 1873)” khi nói đến tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược thì chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng kéo theo khủng hoảng về kinh tế, xã hội như nông nghiệp sa sút, đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, dân phiêu tán khắp nơi. Giáo viên có thể trích một bài vè nói về tình cảnh của nhân dân ở giai đoạn này: Cơm thì chẳng có Rau cháo cũng không Đất trắng xóa ngoài đồng Nhà giàu niêm kín cổng Còn một bộ xương sống Vơ vất đi ăn mày. Trong khi phong trào chống Pháp diễn ra khắp nơi thì triều đình nhà Nguyễn lại lần lược kí với Pháp từ hiệp ước Nhâm Tuất đến các hiệp ước Giáp Tuất, Hác măng, pa-tơ-nốt làm cho nhân dân vô cùng phẫn nộ, giáo viên có thể minh họa: Tan nhà cám nổi câu ly hận Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ Ngậm cười hết nói nổi quan ta ( Cảm khái – Phan Văn Trị) Ngày 17/2/1859, Pháp nổ súng đánh thành Gia Định, quân triều đình nhanh chóng tan rã, Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại sự kiện bi thảm này qua bài thơ “Chạy giặc” Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây, Một bàn cờ thế phút sa tay. Bỏ nhà lũ tẻ lơ xơ chạy, Mất ổ đàn chim dáo dát bay. Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây. Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng, Nỡ để dân đen mắc nạn này. Khi Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kì rồi chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây Nam Kì, Nguyễn Trung Trực đã đấu tranh anh dũng qua hai trận đánh: đánh chìm tàu Ét-pê-răng của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (10/12/1861), tiêu diệt đồn kiên Giang (16/6/1868), ông đã được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi qua 2 câu thơ sau: Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần Hay giáo viên có thể lấy câu nói của Nguyễn Trung Trực khi ông bị giặc đem đi hành hình: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì khi hết người Nam đánh Tây” Vừa là ý chí chống giặc của ông cũng đồng thời là ý chí chống giặc của toàn dân Việt Nam. Cũng có thể sử dụng đoạn trích của Gosselin người Pháp nói về tinh thần chiến đấu của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc: “Đứng trước vũ khí của chúng ta, những người An Nam chỉ có một phương sách duy nhất là hi sinh cho sự bảo vệ các quyền tự do của họ. Họ đã bình tĩnh đương đầu cái chết với một sự can đảm tột đỉnh và trong số rất đông những người ngã xuống vì những viên đạn của các đơn vị hành hình hay dưới làn gươm của các tên đao phủ, chúng tôi không bao giờ ghi nhận được một sự yếu đuối nào”. Trong bài 20 “Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng”. Chiến thắng tiêu biểu trong cuộc đấu tranh của quân dân Bắc Kì là chiến thắng Cầu Giấy lần nhất (21/12/1873) và chiến thắng Cầu Giấy lần hai (19/5/1883), chiến thắng này công lớn thuộc về đội quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, để khắc họa về tài cũng như tinh thần chống Pháp của Lưu Vĩnh Phúc như sau: Cung kiếm tài cao ít kẻ lường Đáo để anh hùng lòng bất khuất Về Tàu còn nguyện giết Tây dương. Sau hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhân dân phản đối mạnh mẽ, nhân dân không chỉ đánh Tây mà chống cả triều đình Dập dìu trống đánh cờ xiêu Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây Trong bài 22 “Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp”, dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế cũng như xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, khi phân tích cuộc sống của người công nhân giáo viên có thể nhấn mạnh bằng các nội dung sau: Cao su đi dễ khó về Khi đi trai tráng khi về bủn beo Hay: Cao su xanh tốt lạ đời Mỗi cây bón một xác người công nhân Vào đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện phong trào cách mạng theo khuynh hướng mới mà tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, thành lập hội Duy Tân với chủ trương đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập, ngày 24/12/1913, Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam tại nhà tù Quảng Đông (Trung Quốc). Để khắc họa hình ảnh Phan Bội Châu giáo viên trình bày nội dung ngắn gọn tác phẩm “Những trò lố hay là Varen và Phan Bội châu” của Nguyễn Ái Quốc: “Trước khi Va-ren từ Pháp sang Đông Dương nhận chức Toàn quyền y hứa sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu. Khi gặp cụ Phan, Va-ren ra sức dụ dỗ, thuyết phục, nhưng vẫn không mua chuộc được Phan Bội Châu, cụ Phan thì tỏ thái độ im lặng, dửng dưng. Anh lính dõng thì quả quyết rằng có thấy đôi ngọn râu mép của cụ Phan nhếch lên một chút. Nhân chứng thứ 2 lại quả quyết cụ Phan đã nhổ vào mặt Va-ren”. Phan Châu Trinh theo xu hướng cải cách với nội dung chủ yếu là cải cách về văn hóa – xã hội gắn liền với giáo dục lòng yêu nước, mở trường Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội, các buổi diễn thuyết bhay bình văn thu hút được nhiều tầng lớp tham gia như có quan lại, binh lính, viên chức, nông dân … một bài văn thời đó đã viết: Buổi diễn thuyết, người đông như hội Kì bình văn, khách đến như mưa Trong bài 24 “Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), phần buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, từ rất sớm Người đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ như Phân Bội Châu, Phan Châu Trinh nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ nên quyết định tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Người quyết định sang phương Tây , đến nước Pháp để tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào, rồi trở về giúp đồng bào mình. Giáo viên có thể lấy một đoạn trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên để nhấn mạnh ý này: Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước” Không phải hình một bài thơ đã tạc nên người Một góc quê hương nửa đời quen thuộc Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai Thế đi đứng của toàn dân tộc Một cách vinh hoa cho hai mươi lăm triệu con người Ngoài ra tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi hoạt động ngoại khóa cho môn lịch sử và cách dễ thực hiện, đạt hiệu quả cao là đọc sách, nhằm cung cấp thêm kiến thức và phát triển tư duy cho học sinh. Muốn đưa tài liệu văn học vào dạy lịch sử trong hoạt động ngoại khóa có hiệu quả thì giáo viên phải giúp học sinh lập danh mục sách cần đọc, nêu một số tác phẩm truyện hoặc thơ có liên quan để học sinh tìm dễ dàng. Giáo viên có thể khơi dậy tính hiếu kì và lòng ham hiểu biết của học sinh bằng cách tóm tắt sơ lược nội dung trong sách, kể một vài chi tiết, những đoạn nhỏ trong sách để kích thích học sinh tiếp tục đọc để tìm hiểu 4. Kết quả đạt được: Tôi đã sử dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đạt được kết quả khả quan, khi sử dụng một số câu thơ, câu văn, câu trích dẫn… minh họa cho một sự kiện lịch sử, bài học lịch sử làm giờ học sinh động hơn, hấp dẫn học sinh hơn, giờ học đạt hiệu quả cao. Trong dạy học dùng thơ văn cho học sinh có vai trò tích cực, chủ động trong việc học tập, qua đó các em chủ động tìm những kiến thức đã học để hiểu sâu, toàn diện một sự kiện lịch sử, đồng thời học sinh còn ôn tập, củng cố, tổng hợp kiến thức ở mức độ cao hơn. Kết quả HK II: Lớp Sĩ số 10a2 10a4 33 35 Giỏi Khá Trung bình SL % SL % SL % 21 63.6 9 27.3 2 6.1 15 42.9 20 57.1 Yếu SL % 1 3.0 Kém SL % III. Bài học kinh nghiệm: Hướng dẫn học sinh đọc và sưu tầm các loại tài liệu tham khảo là những tác phẩm văn học cho phù hợp, giúp học sinh chọn, xác định những tác phẩm nào phục vụ cho yêu cầu của dạy học lịch sử, tránh sử dụng những tác phẩm bịa đặt ảnh hưởng xấu đến nhận thức lịch sử của học sinh Giáo viên lịch sử phải luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới trong phương pháp dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và thiết kế các đồ dùng dạy học đẹp chính xác phù hợp với nội dung bài dạy. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu tham khảo để cung cấp thêm thông tin và kiến thức ở mỗi bài học. kết hợp các phương tiện dạy học khác nhau như đồ dùng trực quan, hình ảnh, tranh vẽ, hệ thống thao tác sư phạm khi lên lớp.. để góp phần phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ dạy. Giáo viên phải biết hướng dẫn tổ chức cho học sinh tự mình khám phá kiến thức mới, dạy cho học sinh không chỉ có kiến thức mà cả phương pháp học trong đó, cốt lõi là tự học. Chính trong các hoạt động tự lực được giao cho từng cá nhân hoặc nhóm nhỏ tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh được bộc lộ và phát huy, Giáo viên phải biết luyện tập cho các em có thói quen nhìn nhận sự kiện dưới những góc độ khác, biết đặt ra nhiều giả thuyết khi lí giải một hiện tượng. Biết đề xuất những giải pháp khác nhau khi xử lí một tình huống. Phải giáo dục cho học sinh không vội vã bằng lòng với giải pháp đầu tiên được nêu ra, không suy nghĩ cứng nhắc theo những qui tắc đã học trước đó, không máy móc áp dụng những mô hình hành động đã gặp trong các bài học, trong sách vở để ứng xử trước những tình huống mới. Người giáo viên lịch sử cần bồi dưỡng năng khiếu vẽ bản đồ, lược đồ khoa học chính xác, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm thu hút sự chú của học sinh làm cho học sinh yêu thích môn học. C. KẾT LUẬN I. Kết luận: Tài liệu văn học được vận dụng trong các tiết dạy sẽ đạt được kết quả cao nhất của học sinh về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển, giúp học sinh hứng thú học tập, lĩnh hội kiến thức nhanh và vận dụng một cách sáng tạo vào thực tế. Giáo viên không chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn để học sinh có cơ hội tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức mà còn phải biết vận dụng vốn kiến thức đã biết để hiểu kiến thức mới, có như vậy mới phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh trong học tập. Trên đây là kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi, phần lớn dựa vào tình hình học tập của học sinh trường THPT Nguyễn Công Trứ nên khả năng áp dụng thực tiễn không rộng rãi và chắc chắn có nhiều hạn chế, kính mong quí thầy cô đóng góp ý kiến thêm. Tôi chân thành cảm ơn! II. Kiến nghị: Hiện nay trong nhà trường đã được cấp nhiều thiết bị dạy học tuy vậy đối với môn lịch sử thì đồ dùng còn quá ít, vì vậy muốn đạt kết quả cao trong bộ môn này cần có thêm những yêu cầu sau: - Cần có đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hóa, các chân dung nhân vật lịch sử - Cần tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học - Nên có những buổi học ngoại khóa, tham quan các di tích, bảo tàng lịch sử - Cung cấp nhiều tư liệu để giảng dạy tốt phần lịch sử địa phương. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Sách giáo khoa, sách giáo viên, bài tập lịch sử 10– Nhà xuất bản Giáo dục. - Sách giáo khoa, sách giáo viên, bài tập lịch sử 11– Nhà xuất bản Giáo dục. - Tài liệu hội thảo tập huấn : Đổi mới nội dung và phương pháp dạy lịch sử - Hoạt động dạy học ở trường THPT – Nhà xuất bản Giáo dục. - Phương pháp dạy học lịch sử của - Nhà xuất bản Giáo dục. - Giáo dục học (lý luận dạy học tập II) Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan