Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn sử dụng phương pháp hệ thống kiến thức cơ bản của phần làm văn, đọc văn, và...

Tài liệu Skkn sử dụng phương pháp hệ thống kiến thức cơ bản của phần làm văn, đọc văn, và lý luận văn học trong chương trình ngữ văn thpt để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi tỉnh lớp 12 môn ngữ văn ban cơ bản

.PDF
30
1228
91

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: "SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP HỆ THỐNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA PHẦN LÀM VĂN, ĐỌC VĂN, VÀ LÝ LUẬN VĂN HỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGƯC VĂN THPT ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI DƯỢNG HỌC SINH GIỎI TỈNH LỚP 12 MÔN NGỮ VĂN BAN CƠ BẢN" 1 A.Đặt vấn đề: I.Cơ sở lí luận: Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh có nói “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”và Đảng, Nhà nước ta luôn xác định Giáo dục là quốc sách hàng đầu.Đó là chiến lược lâu dài để xây dựng và phát triển đất nước, nhất là trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Vì thế ngoài chất lượng giáo dục đại trà, chúng ta rất chú trọng đên chất lượng mũi nhọn nhằm khuyến khích tài năng qua hình thức tổ chức các trường chuyên, lớp chọn, tổ chức các kì thi học sinh gỏi từ cấp trường đến cấp quốc gia để chọn nhân tài . Bởi theo Thân Nhân Trung “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Môn Ngữ văn là môn khoa học xã hội cơ bản chiếm vị trí quan trọng trong nhà trường. Ngay từ khi lọt lòng mẹ mỗi người con đã được tiếp cận với những tác phẩm văn chương ngọt ngào, kì thú qua lời ru, lờ kể của bà, của mẹ, của chị. Vào mẫu giáo con trẻ vẫn thẻ thọt câu được câu chăng qua những vần thơ, những câu chuyện cổ tích của cô giáo. Và khi vào bậc học tiểu học rồi lên trung học các em học sinh không chỉ làm quen mà được tiếp cận và tìm hiểu sâu các tác phẩm văn học, tùy cấp học mà tiếp cận từ dễ đến khó. Vậy mới thấy chức năng giáo dục của tác phẩm văn học là không nhỏ. Nhất là trong hoàn cảnh xã hội như hiện nay, khi nền kinh tế thị trường diễn ra mạnh mẽ, khoa học kĩ thuật phát triển đến chóng mặt thì vấn đề kĩ năng sống đặt ra cho học sinh qua mỗi bài học lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Song dạy Ngữ văn cho học sinh không chỉ là giáo dục đời sống tâm hồn cho các em, mà còn phải dạy các em cách tư duy mạch lạc, phân tích một vấn đề thấu đáo, qua đó làm toát lên tư tưởng, tình cảm, ý đồ nghệ thuật mà nhà văn muốn gửi gắm. Nhưng rồi trong điều kiện kinh tế, xã hội phát triển như hiện nay, số lượng học sinh chuyên tâm và có hứng thú học môn này rất ít, các em chỉ học đối phó, còn dành thời gian để học các môn khoa học tự nhiên. Điều đó là rất thực tế với xu thế chọn nghề ở các em. Nhưng không phải vì thế mà người giáo viên dạy bộ môn này buông xuôi mà chúng tôi luôn có cái tâm nghề nghiệp, đó là dạy làm sao cho có hiệu quả và gây được hứng thú học tập cho các em. Nhất là hàng năm môn học này là một trong những môn thi học sinh giỏi các cấp II. Cơ sở thực tiễn. 1. Thuận lợi: Môn Ngữ văn là một trong hai môn học khoa học cơ bản ( Toán, Ngữ văn) trong nhà trường, HS đã được tiếp cận và học từ bậc tiểu học. Và dù bất kì kỳ thi nào: kiểm tra định 2 kì, thi vượt cấp…môn học này cũng đóng vai trò quan trong trong đánh giá chất lượng học sinh. Đặc biệt với chương trình Ngữ văn ở bậc THPT môn học không chỉ nhằm cung cấp tri thức và kĩ năng sống cho HS mà còn là một trong 3 môn cơ bản trong kì thi tốt nghiệp( Toán – Văn – Ngoại) và thi Đại học - cao đẳng khối C 2.Khó Khăn: - Thực trạng chung hiện nay học sinh ít chọn ban C,D để học và thi chọn nghề nghiêp. Các em chọn học ban KHTN để chọn nghề cho phù hợp với xu thế thời đại.Vì thế HS chỉ học các môn ban KHXH trong đó có môn văn một cách qua quýt để đối phó cho xong chuyện, có học cũng là gượng ép, thiếu hứng thú, non sở thích. - Thực tế ở trường THPT Hậu Lộc 3 , 100% HS đăng kí học ban KHTN, việc chọn được một đội tuyển đi thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 12 quả là hết sức khó khăn. Trường nằm trên vùng bán sơn địa của huyện Hậu Lộc, công tác xã hội hóa giáo dục học tập còn kém, chất lượng mũi nhọn cực kì hạn chế. Những em có năng khiếu văn một chút, có thể tư duy được thì lại rơi vào những học sinh học tốt môn khoa học tự nhiên. Mà trong kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh không cho phép một học sinh có thể dự thi hai môn, vì thế khi chọn môn thi các em không chọn môn Ngữ văn mà chọn môn KHTN liên quan đế quyền lợi của mình trong kì thi Đại học – Cao đẳng sắp tới. Vậy nên người lãnh đội phải chọn những học sinh ở tốp dưới để bồi dưỡng mà không hi vọng mang lại hiệu quả cao. - Chọn được đội tuyển rồi,thời gian bồi dưỡng cũng rất hạn chế ( Khoảng từ 6- 10 buổi), những HS này vừa phải học bồi dưỡng Toán, Lí, Hóa để thi Đại học- cao đẳng, vừa ôn luyện để thi học sinh giỏi môn Ngữ văn. …. 2. Mục đích: Với đề tài nghiên cứu này bản thân tôi muốn sử dụng phương pháp hệ thống kiến thức làm văn, đọc văn để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi tỉnh môn Ngữ văn lớp 12 - ban cơ bản. - Thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn hàng năm ở đơn vị chúng tôi như đã trình bày ở trên gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế bản thân những người dạy phải giúp học sinh nắm những vấn đề thật cụ thể, chi tiết, có hệ thống thì các em mới dễ nắm bắt, nhớ lâu và biết cách xử lí đề ra. B.Giải quyết vấn đề: I. Xác định cấu trúc đề thi: Trước khi cung cấp kiến thức và cách làm bài cho học sinh người giáo viên phải giúp học sinh nắm được cấu trúc đề thi học sinh giỏi của bộ môn Ngữ văn. Cụ thể là: Đề được chia làm hai phần: 3 1. Nghị luận xã hội ( 6 điểm). 2. Nghị luận văn học ( 14 điểm) được chia làm hai câu. II. Hệ thống những đơn vị kiến thức sẽ ra đề thi. Phần này thực tế hàng năm Sở giáo dục và đào đạo đã có công văn hướng dẫn và giáo viên phải cung cấp cho học sinh. Trong đó nhấn mạnh cho các em rõ: Trọng tâm là chương trình lớp 12, và các bài đọc thêm vẫn thi học sinh giỏi. IV. Hệ thống lại các kiểu làm bài văn nhị luận. Trong quá trình học tập ở nhà trường nhất là bậc phổ thông, đối với môn Ngữ văn học sinh được tiếp cận, thực hành và đánh giá qua các kì thi chủ yếu là văn nghị luận. Đó là cái đích cuối cùng của bộ môn này vì qua đó người học thể hiện được cách vận dụng kiến thức và kĩ năng làm bài của mình để cho ra sản phẩm là một văn bản hoàn chỉnh. Vậy nên dù ở dạng nghị luận xã hội hay nghị luận văn học với nhiều kiểu bài khác nhau giáo viên phải rèn cho học sinh kĩ năng làm một bài văn nghị luận. Với bất kì đối tượng học sinh nào cũng phải rèn cho học sinh kĩ năng làm bài văn nhưng đối với đối tượng là học sinh giỏi thì cần yêu cầu cao hơn để các em làm bài một cách khoa học: vừa sâu, rộng trong kiến thức vừa chặt chẽ, thống nhất trong hình thức, kết cấu. - Xác định được luận điểm của đề bài và triển khai, phát triển được luận điểm đó. - Kĩ năng lập luận và vận dụng một cách nhuần nhuyễn khi kết hợp các thao tác lập luận như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh - đối chiếu, phản bác... - Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý để khi làm bài đúng trọng tâm, đủ ý, không lan man, xa đề, lạc đề. - Kĩ năng viết mở bài, thân bài, kết bài: + Mở bài:Là ấn tượng đầu tiên của một bài văn, tạo sức hút lớn cho người đọc và phải là sao đanh như tiếng pháo. Để làm được điều đó, giáo viên phải yêu cầu học sinh khi viết mở bài cần phải đạt ba yêu cầu sau: Dẫn dắt, nêu trọng tâm và giới hạn vấn đề ngắn gọn; Gây được sự chú ý của người đọc về vấn đề mình viết; Viết tự nhiên, giản dị nhưng sinh động, độc đáo , tránh sự cầu kì giả tạo, sáo rỗng. + Thân bài: Có nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề đặt ra ở phần mở bài, mở bài gồm nhiều đoạn văn . Mỗi đoạn văn sẽ ôm chứa nội dung của một luận điểm để làm sáng tỏ cho luận đề trong đó mỗi luận điểm được phát triển bằng các luận cứ, được làm sáng tỏ bằng các lí lẽ và dẫn chứng cụ thể. Và các đoạn văn này được viết bằng nhiều cách khác nhau như song hành, móc xích, diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp nhưng phải có sự liên kết chặt chẽ với nhau cả về nội dung lẫn hình thức. 4 + Kết bài: Để có một kết bài hay ngoài phải đảm bảo được việc tổng kết lại vấn đề đặt ra ở phần mở bài và kết bài, cần tiếp tục khơi gợi được suy nghĩ, tình cảm của người đọc. Hay nói cách khác là vừa phải có sức khái quat cao vừa mở rộng nâng cao vấn đề vừa tạo dư ba trong lòng người đọc. - Kĩ năng dùng từ phải đảm bảo tính chính xác, vừa cụ thể vừa mang tính khái quát vừa mang màu sắc văn chương; diễn đạt trong sáng, mạch lạc nhưng phải có sự logic, liên kết câu, đoạn văn chặt chẽ cả về nội dung lẫn hình thức; trình bày sạch đẹp, bố cục rõ ràng. 1. Trong phần văn nghị luận xã hội với ba kiểu đề: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí,Nghị luận về một hiện tượng đời sống Và Nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn học. Phần này về lí thuyết để làm bài không xa lạ gì đối với đối tượng HS giỏi, nhưng để có được một bài văn hay, sâu sắc người giáo viên phải dạy cho học sinh: - Nhận dạng rõ ràng kiểu bài, xác định được vấn đề cần nghị luận. Nhất là đối với những bài luận đề được rút ra từ những câu chuyện ngụ ngôn ngắn, câu chuyện trong quà tặng cuộc sống, các câu danh ngôn, các ý kiến....Muốn xác định được luận đề của những đề bài ấy giáo viên yêu cầu HS phải đọc kĩ đề, phải hiểu được câu chuyện, câu nói, ý kiến ấy đề cập đến vấn đề gì qua hệ thống ngôn từ giàu tính hình tượng, đa nghĩa , hàm súc ... và phải đặt ra câu hỏi tại sao lại nói như vậy, nói như vậy là có ý nghĩa gì?... - Kĩ năng làm bài: + Cần vận dụng các thao tác nghị luận một cách uyển chuyển, linh hoạt các thao tác và kết hợp chúng để bài viết đạt hiệu quả cao nhất. + Cần vận dụng tổng hợp các phương thức biểu đạt: Bên cạnh việc kết hợp nhiều thao tác lập luận, bài văn nghị luận xã hội cần phải có sự kết hợp với các phương thức biểu đạt đó là biểu cảm, thuyết minh, tự sự, miêu tả... nhất là phương thức biểu cảm. Bởi văn nghị luận thuyết phục người đọc không chỉ riêng lí trí mà còn phải tác động vào tình cảm, cảm xúc. Khi đó để chân lí không chỉ được nhận thức mà còn phải tác động vào tình cảm, cảm xúc, người đọc không chỉ biết, hiểu mà còn xúc động nữa. - Và với phần văn nghị luận xã hội không chỉ đơn thuần là mục đích cung cấp kiến thức xã hội mà mục đích cao cả hơn là giúp học sinh nhận thức đúng đắn những vấn đề đạo đức nhân sinh cao đẹp trong đời sống xã hội để rồi giáo dục nhân cách cho các em.Vì thế đối với kiểu bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lí cần yêu cầu cao ở HS khi rút ra được ý nghĩa, bài học nhận thức và hành động về một tư tưởng, đạo lí. Còn với kiểu bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống phải yêu cầu cao ở HS khi bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã hội đó. 5 1.Phần nghị luận văn học: Giáo viên hướng dẫn HS nắm lại lí thuyết về từng kiểu bài nghị luận văn học cụ thể: *Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ. Với kiểu bài này GV cũng phải hướng dẫn cho học sinh làm bài một cách cụ thể như sau: + Nắm bắt được nhân vật trữ tình trong văn bản , phải xác định được nhân vật trữ tình chủ thể hay trữ tình nhập vai và phải nắm bắt được sự vận động, phát triển của tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình đó. + Phân chia bài thơ làm các phần, đoạn và phải xác định được luận điểm của từng phần và từng đoạn . + Phải phân tích nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ, câu thơ như cách viết câu, sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, âm thanh... để rồi làm nổi bật nội dung tư tưởng mà nhà thơ muốn thổ lộ.Nhưng không nên dàn trải, bình quân mà phải có sự lựa chọn và chú trọng vào chi tiết nghệ thuật độc đáo. + Sau khi phân tích phải tổng hợp, khái quát, đánh giá, nâng cao vấn đề *Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi: GV chia tách thành các kiểu bài với cách tiếp cận và nắm bắt cụ thể như sau: - Phân tích nhân vật. + Ý nghĩa của việc phân tích nhân vật: Nhân vật là “công cụ” giúp nhà văn phản ánh tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con người, về nhân sinh của nhà văn. Nhân vật chính thường điển hình cho một giai tầng nào đó trong xã hội, thậm chí một thời đại.Vì vậy khi giúp học sinh nhận thức một nhân vật, giáo viên phải giúp các em hướng tới khái quát được các giá trị đó. Ngoài ra nhân vật là con đẻ của nhà văn trong suốt cả một quá trình thai ngén vì thế khi phân tích nhân vật cũng là để nhận ra tài năng, đặc điểm bút pháp nghệ thuật của nhà văn. + Các phương diện cơ bản khi phân tích nhân vật tự sự. . Lai lịch: Chính là hoàn cảnh xuất thân, hoàn cảnh gia đình, điều kiện sống trong quá khứ của nhân vật... nó phần nào chi phối đến tính cách, số phận của nhân vật. . Ngoại hình: Theo quan niệm của ông bà ta xưa “ Trông mặt mà bắt hình dong, Con lợn có béo thì lòng mới ngon”, nhà văn cũng vậy, miêu tả ngoại hình nhân vật nhằm hé mở tính cách, chiều sâu nội tâm bên trong. Đại thể là như vậy nhưng với một số trường hợp cũng có thể là một sự trật khớp giữa ngoại hình và tính cách. . Ngôn ngữ: Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm văn học được cá thể hóa cao độ, mang đậm dấu ấn cá nhân. 6 . Nội tâm nhân vật: Đó là thế giới bên trong của nhân vật với những cảm xúc, cảm giác, tình cảm, suy nghĩ....Thâm nhập thế giới nội tâm phong phú của nhân vật trở thành cuộc hành trình đầy thú vị của nhà văn, cũng là điều hấp dẫn với người đọc và người phân tích tác phẩm sau đó. . Cử chỉ, hành động: Bản chất con người ta bộc lộ chân xác, đầy dủ nhất qua cử chỉ, hành động. Vì thế phân tích nhân vật cần phân tích được cử chỉ hành động và cách hành xử của nhân vật ấy. + Vai trò của tình huống truyện đối với việc thể hiện nhân vật trong tác phẩm tự sự: Khi phân tích nhân vật, chúng ta cần quan tâm thích đáng đến tình huống truyện.Vì thông qua tình huống truyện, nhân vật sẽ phần nào thể hiện được tính cách, số phận nhân vật. Trên đây là phần hướng dẫn cơ bản cho học sinh làm một bài văn phân tích nhân vật, nhưng giáo viên cần lưu ý học sinh không nên máy móc mà phải linh hoạt ở từng nhân vật văn học cụ thể để đạt hiệu quả cao khi làm bài. - Nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn xuôi: Đây là dạng đề liên quan đến một vấn đề, một phương diện về nội dung hoặc nghệ thuật của tác phẩm văn học. Giáo viên phải giúp học sinh chỉ ra được những biểu hiện, ý nghĩa của vấn đề đó trong tác phẩm. * Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học: Với kiểu bài bài này thi học sinh giỏi cấp tỉnh rất hay ra bởi đòi hỏi ở HS khả năng khái quát, đánh giá vấn đề. Ý kiến bàn về văn học có thể là một nhận định về văn học, một danh ngôn về vấn đề trong văn học. Mà vấn đề đó có thể thuộc lí luận văn học, về văn học sử, về tác phẩm, phong cách tác giả.Để làm tốt được kiểu bài này giáo viên phải hướng dẫn học sinh như sau: - Yêu cầu về kiến thức: + HS phải nắm được kiến thức về lí luận văn học, về văn học sử, về tác phẩm, về phong cách tác giả, quan điểm sáng tác... + Kiến thức có được là nhờ vào cả một quá trình tích lũy, tổng hợp trong cả quá trình học tập, từ sách giáo khoa, từ các bài giảng của thầy cô, tù các văn hay của các bạn học sinh trong các kì thi học sinh giỏi. - Yêu cầu về phương pháp: + Phải hiểu đúng toàn diện nội dung, tinh thần của ý kiến, nhận định để xác định đề bài đề cập đến vấn đề gì, bản chất của vấn đề là gì? + Khi phân tích, chứng minh nhận định đó vào cụ thể trong văn học, học sinh phải biết nhìn nhận xem ý kiến, nhận định đó xác đáng chưa, sâu sắc chưa, có khía cạnh nào phải 7 bàn thêm không, nếu có chúng ta cũng có thể sử dụng thao tác bình luận để làm sáng rõ quan điểm của mình. * Nghị luận về một vấn đề mang tính chất tổng hợp: Đây là dạng đề yêu cầu HS phải biết tổng hợp, khái quát so sánh, đối chiếu những vấn đề trong các tác phẩm văn học. Nhưng những tác phẩm văn học phải ra đời trong một giai đoạn lịch sử, có cùng chung đề tài, xu hướng, trào lưu. Khi so sánh người làm bài chỉ ra được sự giống nhau, khác nhau của từng tác phẩm văn học cùng mang đề tài, xu hướng, trào lưu ấy để thấy được sự độc đáo thú vị trong quá trình khám phá, phát hiện cũng như tài năng văn chương của các nhà văn. Để làm tốt được kiểu bài này giáo viên phải hướng dẫn học sinh như sau: - Yêu cầu về kiến thức: Nhóm các văn bản về cùng một đề tài, một xu hướng, một trào lưu văn học - Yêu cầu về phương pháp: + Xác định được vấn đề cần phải làm sáng tỏ là gì? + Giải thích cho người đọc hiểu khái niệm của vấn đề đó . + Biểu hiện của vấn đề đó trong từng tác phẩm cụ thể. + So sánh để chỉ ra sự giống nhau, khác nhau của vấn đề đó trong từng tác phẩm. + Lí giải nguyên nhân vì sao có sự giống nhau và khác nhau đó. V. Hệ thống kiến thức các bài đọc văn. 1. Hệ thống kiến thức các bài đọc văn cụ thể. Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận, giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi còn phải giúp học sinh hệ thống lại kiến thức của các bài đọc văn. Bởi vì các bài đọc văn trong chương trình lớp 11, 12 sẽ là phần trọng tâm trong kì thi.Với dung lượng kiến thức nhiều, thời gian dành cho các buổi ôn luyện rất hạn chế nên giáo viên sẽ phải có phương pháp cụ thể để các em có thể tự học, nghiên cứu sách vở và giải đề.Cụ thể như sau: * Trên tinh thần các bài đọc văn các em đã được học trên lớp theo thời khóa biểu chính khóa, giáo viên được giao trách nhiệm bồi dưỡng phải giúp HS hệ thống lại kiến thức của bài học để các em lĩnh hội vừa đầy đủ, vừa chi tiết nhưng vừa khái quát nhất về văn bản. Để làm được điều đó ngoài kiến thức trong SGK, SGV, Chuẩn kiến thức kĩ năng, giáo viên phải năng đọc thêm các tài liệu, tìm tòi sáng tạo trong quá trình giảng dạy thì bài học mới có chiều sâu .Cụ thể HS phải nắm được: 8 - Nét chính về tác giả: Như quan điểm sáng tác, đặc điểm văn học, phong cách nghệ thuật. Học sinh nắm và hiểu được những điều đó sẽ hiểu sâu hơn về tác phẩm và ý đồ ngệ thuật của nhà văn. - Hoàn cảnh sáng tác , xuất xứ, vị trí của tác phẩm. - Nội dung tư tưởng chủ đạo và nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm. - Điểm sáng văn chương của tác phẩm. Trong mỗi tác phẩm văn học nhất là văn xuôi thường có một đoạn văn hoặc một chi tiết nghệ thuật đặc sắc để lại rất nhiều dư vị trong lòng người đọc đồng thời cũng thể hiện tài năng nghệ thuật của nhà văn.Bởi có thể nói điểm sáng văn chương chính là gan ruột và sự tìm tòi, sáng tạo để đưa đến cho người đọc sự thú vị nhất và cũng nhằm bộc lộ rõ nhất tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Ví dụ như: Cảnh đoàn tàu đi qua phố huyện lúc đêm khuya ( Hai đứa trẻ - Thạch Lam), Cảnh cho chữ ( Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân), Hồn quê trong Tràng giang của Huy Cận; Hình ảnh đôi bàn tay Tnú ( Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành).... * Sau khi các em đã nắm được kiến thức của các bài đọc văn, giáo viên sẽ hệ thống các kiểu đề bài của văn bản đó, học sinh nắm bắt được các dạng đề bài và về nhà thực hành để vừa khắc sâu kiến thức vừa thuần thục trong kĩ năng làm một bài văn. 2. Hệ thống kiến thức các bài đọc văn theo từng giai đoạn, mảng đề tài, xu hướng, trào lưu, thể loại. a. Hệ thống theo từng giai đoạn: * Hệ thống lại, hoàn cảnh lịch sử, xã hội ,nội dung, đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam hiện đại qua từng giai đoạn với mục đích: - Giúp học sinh nắm kiến thức một cách khái quát nhất về một giai đoạn văn học, đó sẽ là cơ sở ở học sinh nắm bắt các bài đọc văn được sáng tác trong giai đoạn ấy một cách bài bản, khoa học, sâu sắc nhất. Ngược lại, khi giáo viên giảng các bài đọc văn cụ thể cần gắn với nét chính của giai đoạn văn học ấy và xem đó như một dẫn chứng làm sáng tỏ phần nào giai đoạn văn học. Rõ ràng đó là một mối quan hệ hữu cơ với nhau và nó sẽ phục vụ rất nhiều cho việc làm một bài văn Nghị luận về một ý kiên bàn về văn học. Ví dụ ta có đề bài sau: Đề bài: Có ý kiến cho rằng “ Thơ những năm kháng chiến chống Pháp đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Tình yêu quê hương , đất nước, lòng căm thù giặc, ca ngợi kháng chiến và con người kháng chiến là những cảm hứng chính” ( SGK lớp 12- Ban cơ bảntập1, Nhà xuất bản Giáo dục, tr5). 9 Qua các tác phẩm thơ viết trong thời kì chống Pháp đã học và đọc thêm trong chương trình Ngữ văn lớp 12 hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. - Giúp HS có thể so sánh các giai đoạn văn học với nhau thông qua những tác phẩm cùng viết về một đề tài, để rồi giúp học sinh có thể nhận thấy: Cùng viết về một đề tài, đối tượng các nhà văn về cơ bản nhìn nhận, đánh giá đối tượng giống nhau nhưng bên cạnh đó sẽ có nét khác nhau ở cách kết thúc cuộc đời , số phận nhân vật. Tôi có thể lấy ví dụ: Khi các nhà văn viết về đề tài người lao động nghèo trong chế độ cũ như: Chí Phèo ( Nam Cao) - viết trước cách mạng tháng Tám năm 1945, Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài), Vợ nhặt ( Kim Lân) - viết sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Các nhà văn đều phát hiện ra bản chất tốt đẹp trong tâm hồn cũng như số phận đau khổ, bất hạnh của người lao động nghèo khổ.Nhưng nếu là những tác phẩm viết trước cách mạng tháng Tám năm 1945, các nhà văn chỉ mới dừng lại ở đó nên kết thúc truyện không mở cho nhân vật lối thoát với một tương lai tươi sáng ở phía trước, mà là sự tù túng, đầy sự bi quan, bế tắc, bế tắc cho cả một giai cấp. Cụ thể : Ở Chí Phèo của Nam Cao là Chí Phèo chết, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và nghĩ tới cái lò gạch cũ. Còn những tác phẩm viết sau cách mạng tháng Tám năm 1945 kết thúc truyện bao giờ cũng là kết thúc mở, nhà văn mở ra một con đường sáng cho nhân vật mà ở đó là sự đổi đời theo ánh sáng của cách mạng. Các nhân vật sẽ kết thúc một cuộc đời tăm tối, cực nhục, bị chà đạp, bị áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị, cường quyền để vươn lên đòi lại quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc cho bản thân. Như tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân chẳng hạn: Kết thúc truyện hiện lên trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng cùng những người đói đi phá kho thóc Nhật. Giáo viên cũng giúp cho học sinh nhận thấy vì sao có sự khác nhau như vậy. Đó là do nhận thức chính trị của các nhà văn ở thời điểm sáng tác tác phẩm. Và sở dĩ có được kết thúc như vậy là do nhà văn nhìn cuộc đời, nhân vật bằng nhãn quan cách mạng. b. Hệ thống theo trào lưu, xu hướng văn học. - Giáo viên phải giúp học sinh phương pháp nắm bắt từng văn bản cụ thể trên tinh thần của từng trào lưu, xu hướng văn học. Để học sinh vừa nắm được đặc trưng, xu hướng của từng trào lưu văn học, có nghĩa từ đó các em có thể làm sáng tỏ nó ở từng tác phẩm cụ thể .Ví dụ như: Với phong trào thơ mới là tinh thần của nó chính là ở cái tôi cá nhân với sự giải phóng về tình cảm, cảm xúc và về trí tưởng tượng; Văn học hiện thực phê phán chính là ở nhân vật điển hình và tính cách điển hình cho một giai cấp, tầng lớp người nào đó; văn xuôi chống Mĩ là đề cập đến chất sử thi và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; Văn học sau năm 1975 mang cảm hứng thế sự - đời tư... c. Hệ thống theo thể loại văn học. 10 Giáo viên giúp học sinh hệ thống các bài đọc văn có cùng một thể loại, bởi khi đã cùng chung một thể loại thường có những nét tương đồng về nghệ thuật. Cùng với việc học sinh đã nắm kĩ từng văn bản, học sinh có thể so sánh nét giống nhau và khác nhau để chỉ ra sự độc đáo trong nghệ thuật sáng tạo của nhà văn. Ví dụ bài Tùy bút Người lái đò sông Đà ( Nguyễn Tuân) và bài Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ( Hoàng Phủ Ngọc Tường) ta có thể nhận thấy chúng có nét tương đồng của thể kí.Đó là bằng ngòi bút phóng khoáng, tự do các nhà văn thoải mái ghi chép lại những sự vật, sự việc, con người cụ thể bằng phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác. V. Hệ thống các khái niệm thuộc về phần lí luận văn học. Khi học sinh làm bài văn về một vấn đề trong tác phẩm văn học, hay xử lí một đề bài tổng hợp mà trong đó có chứa đựng khái niệm bắt buộc các em phải hiểu và giải thích được khái niệm rồi sau đó mới đi phân tích làm sáng tỏ. Các khái niệm đó trong quá trình giảng dạy giáo viên cũng đã cung cấp nhưng cụ thể thành khái niệm, lời văn như thế nào, giáo viên phải cho học sinh nắm lại. Các khái niệm đó là: - Tình huống truyện. - Tiềm tàng, tiềm ẩn. - Tình huống truyện. - Yêu nước. - Nhân đạo. - Cái tôi cá nhân. - Tính sử thi . - Cảm hứng lãng mạn. - Chủ nghĩa anh hùng cách mạng. - Phong cách nghệ thuật... VI. Hệ thống đề bài. Sau khi giúp học sinh hệ thống lại những kiến thức cơ bản trên, giáo viên sẽ đưa ra hệ thống đề bài dựa trên kết cấu đề thi học sinh giỏi tỉnh hàng năm để các em thực hành. Các em có thể làm bài tại lớp và làm bài ở nhà, nhưng điều quan trọng là khi các em làm bài giáo viên phải chấm bài để kiểm tra về kiến thức, về kĩ năng làm bài của các em. Giáo viên phải chỉ ra chỗ đạt, chỗ chưa đạt và phải sửa cho các em từ những lỗi nhỏ nhất để các em rút kinh nghiệm và không tái phạm lần sau. 11 Ở bài viết này tôi chỉ đưa ra hai đề bài và hướng dẫn chấm để minh họa cho những lí thuyết trên. Đề 1. Câu 1( 4 điểm): Trình bày hoàn cảnh sáng tác và đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Việt Bắc ( Tố Hữu). Câu 2 ( 6 điểm ): Bài học cuộc sống mà anh (chị) rút ra từ lời tâm sự của nữ nhà văn Mĩ Helen Keller: “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến khi nhìn thấy một người không có chân để đi giày”. Câu 3 ( 10 điểm): Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua tác phẩm Người lái đò sông Đà và Hoàng Phủ Ngọc Tường qua tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông. Hướng dẫn chấm: CÂ U YÊU CẦU ĐIỂ M I Học sinh cần nêu được các ý chính sau: 4.0 1. Hoàn cảnh sáng tác : - Tháng 5- 1954 chúng ta chiến thắng Điện Biên Phủ, đã mang 0,25 lại niềm vui kháng chiến, thắng lợi, hòa bình . Nhân sự kiện có tính chất lịch sử tháng 10 - 1954 Trung ương Đảng quyết định rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội,Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc . - Bài thơ đã nói lên được tình nghĩa thắm thiết với Việt Bắc quê hương cách mạng, với nhân dân và cuộc kháng chiến gian 0,25 khổ của người cán bộ cách mạng. Tất cả nay đã thành kỉ niệm sâu nặng, để trong niềm vui không quên những cội nguồn của thắng lợi, không quên những ngày gian khổ và nghĩa tình gắn bó, để càng tin tưởng ở tương lai. 2. Nghệ thuật : Việt Bắc tiêu biểu cho giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của TH và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc trong thơ ông. a. Thể thơ lục bát truyền thống được vận dụng tài tình trong 0,5 12 một bài thơ dài, vừa tạo được âm hưởng chung thống nhất vừa thể hiện một sự biến hóa đa dạng, không nhàm chán cho người 0,5 đọc. Để rồi suối nguồn tình cảm cứ tuôn chảy dạt dào dưới ngòi bút của ông. b. Kết cấu đối đáp: Diễn biến tâm trạng được tổ chức theo lối đối đáp giao duyên trong ca dao - dân ca: bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ, người hô ứng.Hỏi và đáp điều mở ra bao nhiêu kỷ niệm về cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, bao nỗi niềm nhớ thương.Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn 0,5 bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến. Nên vừa có sự biến đổi linh hoạt , vừa như phân thân, hóa thân của chính nhân vật trữ tình vào hai đại từ mình- ta. c.Những lối nói giàu hình ảnh, cách chuyển nghĩa truyền thống như so sánh, ẩn dụ... được sử dụng thích hợp: Nhớ gì như nhớ người yêu;... Nhớ hoa cùng người...nhằm gợi hình ảnh và giàu biểu cảm, cảm xúc cho câu thơ. d. Nhiều câu ca dao, câu Kiều được vận dụng: - Ta về, mình có nhớ ta 0,5 Ta về, ta nhớ những hoa cùng người. (Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ hàm răng mình cười) - Mình về mình có nhớ ta 0,5 Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. (Những là rày ước, mai ao Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình) Vừa miêu tả được hiện thực cụ thể, diễn tả tình cảm, tâm trạng vừa quen thuộc, vừa mới mẻ. e. Về ngôn ngữ: Sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất mộc mạc, giản dị nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào nghĩa tình g. Tình nghĩa với căn cứ cách mạng , với nhân dân, với Đảng, 13 với Bác Hồ là tình cảm của người cách mạng nhưng đã trở thành ý nghĩ, tình cảm cao đẹp chung của con người Việt Nam trong kháng chiến: Thủy chung son sắt với quê hương đất 0,5 nước. 0,5 II Cần đảm bảo được các yêu cầu sau: 6 điểm a/ Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách làm bài nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống. Sử dụng linh hoạt phương pháp: Giải thích, phân tích, bình luận. Lập luận chặt chẽ, thuyết phục, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. b/ Yêu cầu về kiến thức: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: - Vấn đề cần nghị luận: Sự thiếu thốn khó khăn của mình 0,5 chẳng thấm gì nếu so với những khổ đau, bất hạnh của nhiều người khác trong cuộc sống. - Nội dung cần nghị luận: * Giải thích hai hình ảnh đối lập nhau: “không có giày để đi” và “không có chân để đi giày” + “Không có giày để đi”: là sự thiếu thốn, khó khăn về vật 14 chất (tức là nói về hoàn cảnh nghèo khó) 0,5 + “Không có chân để đi giày”: là nỗi bất hạnh nghiệt ngã của số phận (nỗi đau về thể xác và tâm hồn) 0,5 => Ý nghĩa của lời tâm sự: Cuộc sống có muôn vàn khổ đau và bất hạnh, sự thiếu thốn của bạn chẳng thấm vào đâu khi so với nỗi bất hạnh của nhiều người của nhiều người khác. Hãy thấy 0,5 mình còn là người may mắn để biết chia sẻ và cố gắng vươn lên và không bao giờ được cúi đầu tuyệt vọng trước những bất hạnh, những chông gai trong cuộc sống. * Phân tích, bình luận: + Người ta khóc là khi trạng thái tâm hồn xúc động, đau buồn, có khi vui quá cũng khóc. Nữ sĩ khóc vì hoàn cảnh túng thiếu của mình “không có giày để đi” bà đã khóc mãi cho đến khi bà nhìn thấy một người không có cả đôi chân để đi giày→bà đã kịp nhận ra mình còn là người may mắn hơn họ rất nhiều. Như vậy dù phải đi bằng đôi chân trần thì mình còn có chân để 1.0 bước trên đường đời, còn họ không có chân nên dù có giày cũng không thể đi được, không thể làm những gì họ muốn => những thiếu thốn về vật chất chẳng thấm gì so với sự thiếu thốn về xác và tinh thần. + Lời tâm sự của Helen Keller không dừng lại ở đôi giày, đôi chân (nếu đôi giày là ước mơ, khát vọng của mình thi đôi chân lại là ước mơ khát vọng của người khác). Hãy biết hài lòng với những gì mình đang có và biết chia sẻ nỗi bất hạnh cùng người khác, động viên nhau để đạt được những điều mà mọi người uớc mơ. Nếu yêú đuối, thiếu bản lĩnh, nghị lực cuộc sống sẽ dễ 1.0 bị buông xuôi và rơi và tuyệt vọng (dẫn chứng- những tấm gương vượt khó trong thực tế cuộc sống); + Lời tâm sự của nữ sĩ không chỉ thể hiện sự thức ngộ trước cuộc sống mà còn hàm chứa lời động viên, khích lệ: Dù ở bất kì hoàn cảnh nào cũng không được gục ngã phải gắng sức mà vươn lên, khó khăn bất hạnh chính là thử thách tôi luyện ta trưởng thành, hoàn thiện mình. -Bài học cuộc sống: Không nên than vãn, bi quan trước hoàn cảnh khó khăn về vật chất phải hiểu được giá trị đích thực của 15 cuộc sống. Cuộc sống của mỗi người được quyết định bởi nhận thức, bản lĩnh và nghị lực vươn lên không ngừng. Hơn thế ta 1.0 phải nhìn ra cuộc đời để nhận biết, đồng cảm, chia sẻ từ đó có thêm sức mạnh, lòng tin yêu cuộc sống để làm việc và cống hiến nhiều hơn. Tương lai của mỗi người phụ thuộc vào sự nỗ lực của bản thân... 1.0 III Cần đảm bảo được các yêu cầu sau: 10 a, Yêu cầu về hình thức: - Biết cách viết một bài văn nghị luận văn học - Bài viết đảm bảo một văn bản hoàn chỉnh, trình bày rõ ràng, mạch lạc. Văn viết không sai phạm về dùng từ, ngữ pháp. b, Yêu cầu về nội dung: a. Giới thiệu khái quát về tác phẩm Người lái đò sông Đà và tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông?. - Người lái đò sông Đà: Là tùy bút đặc sắc , in trong tập Sông 0,5 Đà, Nguyễn Tuân đi tìm chất vàng của thiên nhiên và chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn người lao động miền Tây Bắc. - Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Là bút kí viết về vẻ đẹp của 0,5 dòng sông Hương, qua đó ca ngợi vẻ đẹp của một vùng văn hóa xứ sở và con người xứ Huế. => Đều là thể kí in đậm phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên 0,5 bác của hai nhà văn Gợi ý: b.Giải thích khái niệm Phong cách nghệ thuật: - Là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng của các phương tiện biểu hiện 16 nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong các sáng tác của nhà 0,25 văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc. - Phong cách văn học có dấu hiệu riêng và nổi lên trên bề mặt của tác phẩm như một thực thể hữu hình , mà yếu tố cơ bản là nội dung và hình thức tác phẩm. Chỉ có ở những nhà văn có tài 0,25 năng, có bản lĩnh mới có được phong cách riêng độc đáo. c. Khái quát về phong cách nghệ thuật của hai nhà văn - Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng là lay động người đọc nhiều nhất. 0,5 - HPNT: Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí.... Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích,mê đắm và tài hoa. d. Nêu những nét tương đồng trong phong cách nghệ thuật 0,5 của hai tác giả g thể hiện qua hai tác phẩm: - Đều là thể loại tuỳ bút và đều thấm đẫm chất trữ tình: ghi chép , miêu tả chi tiết cụ thể về vẻ đẹp của đối tượng được đề cập đến trong văn bản, qua đó bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của mình về đối tượng đó. Cụ thể: + NLĐSĐ: Miêu tả dòng sông Đà với hai tính cách đối lập nhau, SĐ sinh thể sống, có tâm trạng , có tính cách , rồi SĐnhư 0,5 một cố nhân.Bên cạng đó là người lái đò bình dị mà tài hoa, trí dũng ,rất đáng khâm phục và trân trọng. + AĐ ĐTCDS? Miêu tả dòng sông Hương thấm đẫm chất thơ: SH thơ mộng, dịu dàng, chung tình làm mê đắm lòng người bởi có vẻ đẹp của một người thiếu nữ, của một người mẹ phù 1.0 sa bồi đắp cho một vùng văn hóa xứ sở. - Hai cây bút đều tài hoa, uyên bác + SĐ : NT sử dụng kiến thức của nhiều ngành khi miêu tả con sông Đà như : địa lí, quân sự, điện ảnh, võ thuật và tài hoa ở 17 cách sử dụng ngôn từ: nhiều từ ngữ độc đáo mới lạ, sử dụng nghệ thuật liên tưởng, tưởng tượng, so sánh, nhân hóa. 1.0 + AĐ ĐTCDS: HPNT am hiểu về các lĩnh vực địa lí, lịch sử, văn hóa, thi ca...và miêu tả dòng sông bằng bút pháp nghệ thuật miêu tả đặc sắc như: liên tưởng, tưởng tượng, so sánh nhân hóa. e.Nét khác biêt: Thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo: a. Nguyễn Tuân với Người lái đò sông Đà: Nghiêng về phát 1.0 hiện và diễn tả những hiện tượng đập mạnh vào giác quan người đọc ( Phân tích con sông Đà Hung bạo và cuộc chiến giữa người lái đò với con sông). b. Hoàng Phủ Ngọc Tường với Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Thiên về chất thỏ trữ tình dịu ngọt ( Phân tích sông Hương để 1.0 nhận thấy). g. Đánh giá nhận xét. - Họ đều là những nhà văn tài năng, tâm huyết với nghề, có tâm với nghề. - Có tình yêu quê hương đất nước thiết tha. 1.0 1.0 0,25 0,25 Lưu Học sinh có thể trình bày theo những kết cấu khác nhau và có những cảm nhận riêng của mình miễn là đáp ứng được yêu cầu 18 ý đề; Khuyến khích thêm điểm cho những bài làm có năng lực cảm thụ văn chương, có sáng tạo. Đề 2. Câu 1 ( 4 điểm): Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong khổ thơ: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. ( Huy Cận - Tràng giang) Câu 2 ( 6 điểm): Địa ngục hay thiên đàng ? Một ký giả được phép xuống địa ngục và lên thiên đàng để làm phóng sự về cuộc sống ở đó. Anh xuống địa ngục vào đúng giờ ăn. Thức ăn toàn sơn hào hải vị nhưng cư dân lại ốm o, gầy còm, da bọc xương. Và anh chỉ hiểu ra khi quan sát họ dùng bữa. Muỗng, nĩa, đũa rất dài buộc dính vào đôi tay nên dù cố gắng mấy họ cũng không thể đưa thức ăn vào miệng, mà thức ăn lại đổ ra bàn hay rơi tung toé xuống đất. Tệ hơn nữa là họ tranh giành nhau, và muỗng, nĩa, đũa trở thành vũ khí để họ đâm chém nhau. Khi giờ ăn kết thúc, họ buồn bã, thất vọng rời phòng ăn với dạ dày rỗng không. Quá sợ hãi, chàng ký giả rời địa ngục để lên thiên đàng. Đến nơi cũng đúng vào giờ ăn. Thức ăn đơn sơ, giản dị nhưng cư dân ai cũng vui tươi, khỏe mạnh. Đôi bàn tay họ cũng được gắn chặt vào muỗng, nĩa, đũa rất dài. Có khác là thay vì đưa thức ăn vào miệng của mình thì họ lại yêu thương dùng muỗng, nĩa để đút thức ăn cho nhau. Phòng ăn vang tiếng ca hát, nói cười vui vẻ. (Theo internet) Anh/chị suy nghĩ như thế nào trước những điều anh ký giả trông thấy ? Câu 3 ( 10 điểm) : Số phận bi thảm và vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ Việt Nam qua ba nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài), người vợ nhặt 19 trong Vợ nhặt ( Kim Lân) , người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu). Hướng dẫn chấm: CÂ U YÊU CẦU ĐIỂ M I Học sinh cần nêu được các ý chính sau: 4,0 * Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vị trí khổ thơ và vấn 0,25 đề cần nghị luận. * Giải thích ngắn gọn khái niệm cổ điển và hiện đại : Cổ điển là 0,5 cách sử dụng đề tài, thể thơ,thi liệu, tứ thơ của thơ cổ, còn hiện đại chính là tinh thần của thơ mới, đó là cái tôi cá nhân. * Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ: - Màu sắc cổ điển hiện rõ ở các hình ảnh: mây, núi, cánh chim, bóng chiều. 0,25 + Hình ảnh: "Lớp lớp mây cao đùn núi bạc" khiến người đọc liên tưởng tới hai câu thơ của Đỗ Phủ trong bài Thu hứng: 0,5 Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng Tái thượng phong vân tiếp địa âm (Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm Mặt đất mây đùn cửa ải xa) Lớp lớp mây trắng "đùn" lên, chồng lên nhau thành những núi mây. Ánh hoàng hôn chiếu vào như dát bạc, núi mây trở thành núi bạc. Cảnh tượng thật hùng vĩ nhưng không vì thế mà nỗi sầu vợi đi. Những núi mây kia vẫn là những núi buồn khổng lồ. + Hình ảnh cánh chim lẻ loi, cô độc bay nghiêng trong ánh hoàng hôn đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ trong thơ cổ điển: Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi(Bà Huyện Thanh Quan);Chim hôm thoi thót về rừng(Nguyễn Du); Lạc hà dữ cô lộ tề phi (Ráng 0,5 chiều và cánh cò cùng bay - Vương Bột) báo hiệu một ngày đã 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng