Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực giúp học sinh hệ thống kiến thức v...

Tài liệu Skkn sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập một số tác phẩm ngữ văn 12

.DOC
22
118
60

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT LÊ LỢI THỌ XUÂN TÊN ĐỀ TÀI SỬ DỤNG MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC GIÚP HỌC SINH HỆ THỐNG KIẾN THỨC VÀ ÔN TẬP MỘT SỐ TÁC PHẨM NGỮ VĂN 12 Người thực hiện: Đỗ Thị Huyền Chức vụ: Giáo viên Sáng kiến kinh nghiệm môn: Ngữ Văn Tổ: Ngữ Văn Đơn vị: THPT Lê Lợi – Thọ Xuân – Thanh Hóa SKKN Năm học 2012 - 2013 0 A. A. PHẦN MỞ ĐẦU. Lí do chọn đề tài. Vào các năm gần đây, “Đổi mới phương pháp dạy học”, sử dụng “kĩ thuật dạy học” là những cụm từ trở nên quá quen thuộc trong ngành giáo dục. Nó là một đòi hỏi cấp bách, một xu hướng tất yếu của các trường học. Cùng với một số môn học khác, thực trạng dạy - học môn Văn được đề cập rất nhiều trên các phương tiện thông tin, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tỉ lệ học sinh yếu ở bộ môn Văn ngày càng cao, kéo theo kết quả không mấy khả quan trong các kỳ thi tốt nghiệp THPT và thi Đại học, Cao đẳng. Vì vậy, vấn đề làm thế nào để có thể nâng cao kết quả học tập và ôn thi tốt nghiệp THPT, thi Đại học, Cao đẳng môn Ngữ Văn cho học sinh lớp 12 thật sự là vấn đề thiết yếu và được quan tâm hàng đầu hiện nay. Có thể khẳng định, từ khi tiến hành cải cách chương trình Sách giáo khoa bậc THPT (năm 2006) đến nay, nhiều giáo viên đã rất nỗ lực trong việc dạy - học, không ngừng nâng cao trình độ, đổi mới phương pháp dạy học, cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ thông tin ngày càng hiện đại, để mang lại cho học sinh những cách học Văn lý thú, giúp các tiết học Văn đạt hiệu quả cao. Song việc học sinh không hứng thú với môn học, học yếu môn Văn, kết quả thi còn thấp, hiện vẫn đang là một tồn tại mà bất cứ ai quan tâm đến nền giáo dục của nước nhà cũng có thể thấy. Khách quan mà nói, có điều đó một phần là do vẫn có giáo viên chưa quan tâm đúng mức, chưa giúp đỡ kịp thời đối với học sinh trong quá trình dạy - học nên để các em có những lỗ hổng kiến thức cơ bản. Một phần không nhỏ là do chính bản thân các em không thích học (kể cả không chịu học) các môn xã hội nói chung, môn Ngữ Văn nói riêng; kể cả việc có em không biết cách học như thế nào cho có hiệu quả nên dẫn đến kết quả học tập của các em ngày càng thấp so với yêu cầu và mặt bằng xã hội nói chung. 1 Từ thực tế trên, vấn đề được quan tâm hiện nay là làm thế nào để có thể nâng cao chất lượng, kết quả học tập môn Ngữ Văn nói riêng, các môn xã hội nói chung qua các kỳ thi hàng năm. Vấn đề trên đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong mọi chương trình nghị sự khi bàn về giáo dục, nhất là năm học 2012 – 2013 này, các em học sinh lớp 12 phải thi nhiều môn khoa học xã hội trong kỳ thi tốt nghiệp THPT sắp tới thì vấn đề trên càng được cả xã hội quan tâm nhiều hơn. Không kể nguyên nhân do đâu, việc giúp đỡ các em học sinh lớp 12 học và ôn tập thi tốt nghiệp THPT, thi Đại học, Cao đẳng môn môn Ngữ Văn đạt hiệu quả là việc làm hết sức cần thiết, cần được nhà trường và đặc biệt là người giáo viên Ngữ Văn quan tâm nhiều nhất trong tình hình hiện nay. Đó là lí do tôi chọn đề tài Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập một số tác phẩm Ngữ Văn 12. B. Néi dung cña ®Ò tµi 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/ QĐ – BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”. Theo khảo sát mới nhất của PGS.TS Nguyễn Công Khanh trường Đại học Sư phạm Hà Nội, có một con số khiến các nhà giáo “giật mình”: Gần 55% học sinh được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú và không biết cách học tập môn Văn. Theo kết quả sơ bộ kỳ thi đại học năm 2012 có gần 10.000 bài thi bị 0 điểm, trong đó môn Văn chiếm phần không nhỏ. Cũng sau kỳ thi đại học này, nhiều bài phân tích, bình giảng văn, thơ của các sĩ tử đã khiến các thầy, cô giáo trực tiếp làm công tác giảng dạy cũng như các cán bộ trong ban chấm thi phải lên tiếng trước công luận, rung một tiếng chuông cảnh tỉnh báo hiệu về một thực tế: học sinh ngày càng cảm thụ các áng văn hay, các bài thơ truyền cảm bằng những tư duy xã hội học, theo chủ nghĩa tự nhiên nếu không muốn nói là thô tục. Theo TS. Nguyễn Thị Hồng Nam thì có những lý do rất cơ bản để dẫn đến tình trạng trên là: chương trình quá thiên về nhồi nhét kiến thức lý thuyết mà không chú 2 trọng đến việc rèn luyện kỹ năng thực hành bài viết; chương trình quá nặng, bài quá dài là một trong những nguyên nhân khiến giáo viên không thể sử dụng các biện pháp dạy học tích cực như đàm thoại, thảo luận, cho học sinh thuyết minh, đóng kịch mà phải "chạy" cho kịp bài, hết bài đúng thời gian chương trình. Và một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là học sinh không có phương pháp học tập khoa học, không chịu đầu tư thời gian, công sức cho môn học và đặc biệt, không xác định đúng mục tiêu học tập bộ môn. Vậy, làm thế nào để có thể phát huy được mọi đối tượng học sinh trong quá trình dạy - học, nhất là các em học yếu môn Ngữ Văn 12 để giúp các em đạt được kết quả khả quan trong học tập và vượt qua được các kì thi cuối cấp? Trong tài liệu: "Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông", GS Phan Trọng Luận cũng nhấn mạnh: “Giờ học mới phải là một kết cấu logic chặt chẽ khoa học mà uyển chuyển linh hoạt, hệ thống đơn vị tình huống học tập được đặt ra từ bản thân tác phẩm phù hợp với sự tiếp nhận của học sinh. Và song song tương ứng là một hệ thống việc làm, thao tác do giáo viên dự tính tổ chức để dẫn dắt từng cá thể học sinh tự chiếm lĩnh tác phẩm một cách hứng thú”. Như vậy, dù không phát biểu trực tiếp song ý kiến trên cũng đã nhấn mạnh sự dẫn dắt khéo léo của giáo viên trong giờ học Ngữ Văn sao cho phù hợp với mọi đối tượng học sinh như tác giả Nguyễn Kế Hào đã từng nhấn mạnh: "Dạy học theo phương pháp mới phải đảm bảo tính đồng loạt, phát huy được mọi đối tượng". Tiến sỹ Huỳnh Công Minh Giám Đốc Sở GD-ĐT Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng “Ưu điểm của bản đồ tư duy là sẽ đem đến cho học sinh những lợi ích cụ thể trong quá trình học tập là nắm được nội dung cơ bản của bài học, hệ thống nội dung kiến thức và biểu thị bằng sơ đồ, ghi nhớ nội dung học tập một cách sâu sắc và bền vững” Như vậy, sử dụng một số kĩ thuật dạy học như lập kế hoạch học tập hay sử dụng mô hình bản đồ tư duy hợp lí sẽ giúp cho học sinh rất nhiều trong việc nắm vững và khắc sâu kiến thức. 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ Cùng với những môn Khoa học Tự Nhiên, những môn Khoa Học xã hội cũng có lượng kiến thức rất nhiều. Làm thế nào để học sinh hệ thống kiến thức, nắm vững kiến thức một cách khoa học, logic, tránh sự nhầm lẫn? Là một giáo viên đứng trên bục giảng tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập một cách tốt nhất? Đặc biệt là với đối tượng học sinh chỉ chú trọng các môn học tự nhiên, chủ yếu học khối A, B như trường THPT Lê Lợi. Đối với bộ môn Ngữ văn, học sinh không những phải chăm học mà còn phải có phương pháp học phù hợp mới có thể nắm vững kiến thức cơ bản. 3 Một thực trạng đáng lo ngại trong quá trình ôn tập là khi giáo viên hỏi bài, học sinh đã nắm hầu hết kiến thức, nhưng khi kiểm tra lại thì học sinh đã quên hoặc có sự nhầm lẫn tai hại. Nhầm lẫn kiến thức của giai đoạn văn học này sang giai đoạn văn học khác, tác giả này với tác giả khác, thậm chí từ nhân vật này sang nhân vật khác… Khi sử dụng kỹ thuật dạy học lập kế hoạch để hệ thống hóa kiến thức và kĩ thuật sơ đồ tư duy trong giảng dạy tôi nhận thấy học sinh hứng thú, tích cực hơn so với các phương pháp khác. Tuy nhiên, khi thực hiện những kỹ thuật dạy học này giáo viên cũng cần kết hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp để khai thác triệt tác dụng của phương pháp dạy học tích cực. III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN 3.1. Lập kế hoạch và xây dựng kế hoạch 3.1.1. Lập kế hoạch Bộ môn Ngữ Văn nằm trong nhóm 3 môn thi bắt buộc trong kỳ thi tốt nghiệp THPT hàng năm, bao gồm: Văn, Toán và Ngoại ngữ. Đặc điểm này yêu cầu nhà trường, giáo viên bộ môn và học sinh phải có kế hoạch chủ động chuẩn bị ngay từ đầu năm học. Giáo viên bộ môn lập kế hoạch dạy học trên cơ sở kế hoạch công tác chung của nhà trường và tổ chuyên môn để có sự thống nhất, đồng bộ trong giảng dạy. Cụ thể: Kế hoạch (bản kế hoạch) là “toàn bộ những điều vạch ra một cách có hệ thống về những công việc dự định làm trong một thời hạn nhất định, với mục tiêu, cách thức, trình tự, thời gian tiến hành” ( Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội – 1988 ). Nói cách khác, kế hoạch là chương trình hành động trong tương lai hướng vào việc thực hiện một mục tiêu nào đó. Xét về phương diện học tập của HS, còn có thể hiểu : Kế hoạch học tập bộ môn là thể hiện việc xác định những nội dung học tập, phương pháp học tập và mục tiêu cần đạt trong các kỳ thi với một giới hạn thời gian nhất định dành cho bộ môn. 3.1.2 Xây dựng kế hoạch: Xây dựng kế hoạch (còn gọi là lập kế hoạch) là xác định các mục tiêu, các hoạt động và nguồn lực cần thiết để đạt tới mục tiêu một cách phù hợp với tình hình thực tiễn trong khoảng thời gian xác định. Xây dựng kế hoạch là làm rõ: o Khả năng bản thân o Mục tiêu đạt được trong tương lai o Nội dung sẽ thực hiện. o Phương pháp thực hiện o Đánh giá kết quả. 4 Xây dựng kế hoạch là hoạt động có ý thức của chủ thể để đưa ra các quyết định về phương hướng của một hoạt động trước khi thực hiện, nhằm đảm bảo cho hoạt động đó được tiến hành một cách hợp lý nhất và đạt đích mong muốn. 3.1.2.1Về phía nhà trường và tổ chuyên môn: -Phân công giảng dạy: những giáo viên có kinh nghiệm, có trách nhiệm và năng lực, tâm huyết trong việc giảng dạy và ôn tập khối 12. -Nhà trường có kế hoạch tăng tiết từ đầu năm: 1 tiết/ tuần. Tiến hành kiểm tra chung các bài kiểm tra 2 tiết cho toàn khối 12 ngay từ đầu năm học với sự thống nhất trong tổ chuyên môn về ma trận đề và nội dung trong từng bài kiểm tra. -Học sinh khối 12 học văn hóa sớm từ trong hè, đến cuối tháng 3 là hết chương trình. Khi có thông báo của Bộ Giáo dục Đào tạo về các môn thi tốt nghiệp, nhà trường tiến hành xếp lịch ôn tập môn Ngữ Văn 5 tiết/ tuần (tháng 4, tháng 5 với thời gian từ 6 - 7 tuần). -Tổ bộ môn thảo luận, lập kế hoạch và thống nhất nội dung dạy học tăng tiết trong từng tuần cho toàn khối; đề ra nội dung cụ thể cho từng tuần trong việc ôn thi tốt nghiệp. Trong quá trình ôn tập, tiến hành ôn chương trình học kì II trước, sau đó quay lại ôn tiếp chương trình học kì I. 3.1.2.2. Về phía giáo viên bộ môn: - Ngay từ đầu năm, giáo viên bộ môn cần giới thiệu đến học sinh cấu trúc đề thi tốt nghiệp THPT để các em làm quen, chủ động về kiến thức và có cách giải quyết đề bài hiệu qủa nhất. Cụ thể: Đề thi tốt nghiệp THPT thường có hai phần với 3 câu hỏi: A-Phần chung: (5,0đ): 1 - Câu hỏi giáo khoa (2,0 điểm): tái hiện kiến thức về giai đoạn văn học, tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam và tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài. 2 - Đề nghị luận xã hội (3,0 điểm): Vận dụng kiến thức hiểu biết về xã hội và đời sống để viết bài nghị luận xã hội ngắn (khoảng 400 từ) với hai dạng đề: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí hoặc nghị luận về một hiện tượng đời sống. B-Phần riêng (5,0đ): 3-Đề nghị luận văn học (5,0 điểm): Vận dụng khả năng đọc – hiểu và kiến thức văn học để viết bài nghị luận văn học, phân tích giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ hoặc một tác phẩm văn xuôi (đặt mỗi tác phẩm trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể). Gồm: a-Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ. b-Nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi. Trong quá trình học trên lớp, học sinh cần phải được trang bị những kiến thức cơ bản của môn học một cách đầy đủ, có hệ thống (theo Phân phối chương trình của Bộ Giáo Dục - Đào tạo) thông qua sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. 5 Đối với tác phẩm thơ: học sinh cần nắm vững giá trị nội dung, tư tưởng (ý ghĩa văn bản) và những đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ hoặc bài thơ. Đối với tác phẩm văn xuôi: học sinh cần nắm chắc tóm tắt tác phẩm; tìm các chi tiết, sự việc, tình huống tiêu biểu để làm nổi bật giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Hướng dẫn học sinh cách tìm hiểu, phân tích một nhân vật trong tác phẩm văn học. 3.2. Kỹ thuật sử dụng sơ đồ tư duy: 3.2.1. Quy cách chung Như đã nói ở trên, khối lượng kiến thức mà học sinh phải học mỗi ngày là rất lớn (đặc biệt là học sinh lớp 12) nhưng quỹ thời gian và sức khỏe có giới hạn. Mặt khác, xã hội ngày càng đòi hỏi con người sáng tạo. Vậy biện pháp nào giúp chúng ta giải quyết tình trạng này? Thực tế cho thấy, trong quá trình học tập khó ai có thể nhớ kĩ từng chi tiết, nhớ nguyên văn một cuốn sách hoặc một bài học dài. Có chăng là con người có thể nhớ một sơ đồ, một hệ thống, một công thức chung nhất nào đó của bài học. Vấn đề đặt ra là, giáo viên cần cung cấp cho học sinh một phương pháp phù hợp để học sinh tự học, tự hệ thống kiến thức. Sơ đồ tư duy sẽ đáp ứng tốt yêu cầu trên. Muốn nắm vững, nhớ sâu, vận dụng sáng tạo học sinh phải cùng giáo viên tìm tòi, xây dựng hệ thống bài học. Đã qua rồi thời kì đọc – chép, chiếu – chép, nhìn – chép…Vì vậy, giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách thực hiện sơ đồ mô phỏng kiến thức bài học. Đồng thời, giúp học sinh tư duy, sáng tạo, tận dụng khả năng ghi nhớ và hồi tưởng những kiến thức đã ghi nhớ. Hay nói cách khác, học sinh có thể thể hiện nội dung bài học theo cách của mình qua các từ khóa, từ chủ đề trung tâm đến các ý lớn đến các ý nhỏ. Khác với cách ghi chép thông thường, ở cách sử dụng màu sắc kích thích trí nhớ và sự hứng thú vì mỗi nhánh có một từ khóa kèm hình ảnh. Với một kĩ thuật hình họa có đường nét, có màu sắc có từ ngữ, hình ảnh được dựa trên sự tưởng tượng và kết nối, bản đồ tư duy giúp chúng ta tự do suy nghĩ và phát huy tiềm năng sáng tạo của bộ não. Học sinh không còn thụ động ngồi nghe giáo viên giảng bài rồi ghi bài một cách máy móc mà trái lại các em sáng tạo ra “tác phẩm” của riêng mình qua sự định hướng, gợi ý của giáo viên. Ngoài việc dùng bản đồ tư duy trong dạy và học, bản đồ tư duy còn giúp học sinh nâng cao năng lực tự học, tự kiểm tra. Vì sao phải sử dụng Bản đồ tư duy trong việc dạy, học và hệ thống kiến thức? Bản đồ tư duy sẽ giúp chúng ta sáng tạo hơn, tiết kiệm thời gian hơn, ghi nhớ tốt hơn, có thể nhìn thấy bức tranh tổng thể…Khi lập một bản đồ kiến thức, ngoài việc nhớ và hiểu kiến thức mới còn giúp chúng ta nắm kiến thức sâu, kĩ hơn. Dùng Bản đồ tư duy để dạy, giáo viên sẽ có một định hướng rõ rệt, một kế hoạch cụ thể nắm vững và trình bày những nội dung cơ bản một cách đơn giản hơn để học sinh dễ hiểu, dễ nắm bắt 6 được tính hệ thống và mối quan hệ của những tri thức mà không rơi vào những chi tiết vụn vặt, thứ yếu hoặc không thấy rõ tính hệ thống của bài học. 3.2.2. Quy trình lập bản đồ tư duy: Trước hết, chúng ta bắt đầu bằng từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Sau đó, nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp hai đến các nhánh cấp một…bằng các đường kẻ (luôn sử dụng màu sắc vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh). Các đường kẻ càng gần hình ảnh trung tâm càng được tô đậm hơn, dày hơn. Khi chúng ta nối các đường với nhau, chúng ta có thể hiểu và nhớ nhiều hơn do bộ não chúng ta làm việc bằng sự liên tưởng. (Các đường ở cùng một cấp độ phải có cùng màu sắc). - Lưu ý: Mỗi từ hoặc ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ. Nên dùng đường kẻ cong thay vì các đường thẳng vì các đường cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn. Ngoài ra cần bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm. Hiện nay đã có rất nhiều phần mềm hỗ trợ vẽ bản đồ tư duy trên máy tính. Khi học sinh học trên lớp, chúng ta chỉ cần hướng dẫn cách vẽ sơ đồ. Các em chỉ cần dùng bút màu, giấy A4 …. - Ví dụ: Khi học bài Người lái đò sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân + Với phương pháp đặt câu hỏi phát vấn hoặc nêu vấn và giải quyết vấn đề, chúng ta có thể tìm hiểu từng nội dung theo các đoạn văn bản ở sách giáo khoa. Giáo viên có thể dùng câu hỏi: Đoạn văn “Hùng vĩ của Sông Đà….vừa tắt phụt đèn điện” miêu tả đá bờ sông như thế nào? Tác giả đã dùng nghệ thuật gì để khắc họa hình ảnh đó? Hình ảnh đó còn giúp em hình dung ra điều gì? Có thể nói, khi giáo viên đặt câu hỏi thì học sinh tìm các chi tiết từ văn bản ở sách giáo khoa (hoặc học sinh đã soạn trước ở nhà) rồi trả lời câu hỏi. + Với phương pháp dùng Bản đồ tư duy, giáo viên cũng có thể phát huy tính tích cực của học sinh bằng cách sử dụng các câu hỏi, đồng thời giúp học sinh nhớ kĩ và liên tưởng đến nội dung bài học mà không cần ghi chép quá nhiều. Cũng với đoạn văn trên, chúng ta có thể dùng câu hỏi: Đoạn văn “Hùng vĩ của Sông Đà….vừa tắt phụt đèn điện” miêu tả hình ảnh gì của sông Đà? Hãy tìm một từ miêu tả hình ảnh ấy? Từ học sinh tìm được sẽ là “đá bờ sông”. Từ đó học sinh có thể tự tìm những chi tiết miêu tả đá bờ sông và triển khai theo các cấp độ. Chúng ta có thể vận dụng Bản đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hoặc hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi kì…Trong bài viết này tôi muốn đề cập đến vấn đề giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức bằng Bản đồ tư duy. 7 IV. TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN. 1.GIỚI THIỆU PHÂN PHỐI CHƯƠNG TRÌNH THEO QUY ĐỊNH – CƠ SỞ CỦA VIỆC LẬP KẾ HOẠCH HỌC TẬP BỘ MÔN HỌC KÌ I Tiết 1,2 Khái quát văn học Việt Nam từ CM tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX Tiết 3 Nghị luận về một tư tưởng đạo lí Tiết 4 Tuyên ngôn Độc lập (phần một: Tác giả) Tiết 5 Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Tiết 6 Bài viết số 1: Nghị luận xã hội Tiết 7,8 Tuyên ngôn Độc lập (phần hai: Tác phẩm ) Tiết 10,11 Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc Tiết 13 Nghị luận về một hiện tượng đời sống Tiết 14 Phong cách ngôn ngữ khoa học Tiết 15 Trả bài viết số 1, Bài viết số 2 Nghị luận xã hội (bài làm ở nhà) Tiết 16,17 Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003 Tiết 18 Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ Tiết 19,20 Tây Tiến Tiết 21 Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học Tiết 22 Việt Bắc (phần một: tác giả) Tiết 23, 30 Luật thơ Tiết 25,26 Việt Bắc (Phần 2: Tác phẩm) Tiết 27 Phát biểu theo chủ đề Tiết 28,29 Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm) Tiết 31 Thực hành một số phép tu từ ngữ âm Tiết 32,33 Bài viết số 3: Nghị luận văn học Tiết 36 Thực hành một số phép tu từ cú pháp Tiết 37,38 Sóng Tiết 39 Luyện tập vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn nghị luận Tiết 40,41 Đàn ghi ta của Lor-ca Tiết 42 Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận Tiết 43,44 Quá trình văn học và phong cách văn học Tiết 45 Trả bài viết số 3 Tiết 46,47 Người lái đò Sông Đà (trích) Tiết 48 Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận Tiết 49,50 Ai đã đặt tên cho dòng sông (trích) Tiết 52 Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận Tiết 53,54 Bài viết số 4 HỌC KÌ II Tiết 55,56 Vợ chồng A Phủ (trích) 8 Tiết 57,58 Bài viết số 5: Nghị luận văn học Tiết 60,61,62 Vợ nhặt Tiết 63 Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi Tiết 64,65,66 Rừng xà nu Tiết 67,68 Những đứa con trong gia đình Tiết 69 Trả bài viết số 5 - Bài viết số 6: Nghị luận văn học (học sinh làm ở nhà) Tiết 70,71 Chiếc thuyền ngoài xa Tiết 72 Thực hành về hàm ý Tiết 76,77 Thuốc Tiết 78 Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong bài văn nghị luận Tiết 79,80 Số phận con người (trích) Tiết 82,83 Ông già và biển cả (trích) Tiết 84 Diễn đạt trong văn nghị luận Tiết 85,86,87 Hồn Trương Ba, da hàng thịt (trích) Tiết 89,90 Nhìn về vốn văn hóa dân tộc Tiết 91 Phát biểu tự do Tiết 92,93 Phong cách ngôn ngữ hành chính Tiết 94 Văn bản tổng kết Tiết 95,96 Tổng kết phần Tiếng Việt: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ Tiết 97 Ôn tập phần Làm văn Tiết 98,99 Giá trị văn học và tiếp nhận văn học Tiết 101,102 Ôn tập phần văn học 2. HƯỚNG DẪN HỌC SINH LẬP KẾ HOẠCH HỌC TẬP BỘ MÔN NGỮ VĂN 12 Xác định những kiến thức cơ bản cần đạt trong từng học kỳ, tháng. Học kỳ 1: + Kiến thức: Đọc – hiểu 5 văn bản thuộc thể loại thơ (Tây Tiến, Việt Bắc, Đất Nước, Sóng, Đàn Ghi ta của Lor-ca) và 2 văn bản văn xuôi (người lái đò Sông Đà, Ai đã đặt tên cho dòng sông?) + Làm văn: Rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận xã hội (về một hiện tượng đời sống và một tư tưởng đạo lý), kỹ năng làm văn nghị luận văn học (về một bài thơ, đoạn thơ ) + Tiếng Việt: Giữ gìn sự trong sáng của TV và phong cách ngôn ngữ, phép tu từ cú pháp. Học kỳ 2: + Kiến thức : Đọc – hiểu các tác phẩm văn xuôi (Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt, Rừng xà nu, Những đứa con trong gia đình, Chiếc thuyền ngoài xa, Hồn Trương Ba, da hàng thịt ) 9 + Làm văn : Rèn luyện kỹ năng phân tích tác phẩm, đoạn trích văn xuôi, kỹ năng phân tích nhân vật. + Tiếng Việt : Hàm ý, phong cách ngôn ngữ hành chính. Đối với những HS có hướng thi đại học Khối C, D : Nội dung ôn tập phải bao gồm cả chương trình văn học lớp 11. Cách làm bài cho dạng đề thi đại học. 3. MỘT SỐ MINH HOẠ CỤ THỂ 3.1. Tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân Lớp 12, học sinh được tiếp cận tác phẩm Người lái đò sông Đà - Vẫn lối viết tài hoa nghệ sĩ, song đối tượng không còn thuộc tầng lớp đài các “vang bóng một thời” nữa mà là những người lao động bình thường – chất “vàng mười của Tây Bắc”. Để tôn lên vẻ đẹp của người lao động trên sông nước, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng con sông Đà với hai nét tính cách nổi bật. Khi giáo viên triển khai tiết học, bằng phương pháp này hay phương pháp khác, học sinh cũng nắm được những nội dung cơ bản của bài học. Khi tiến hành ôn tập hoặc hệ thống hóa kiến thức, giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng triển khai theo sơ đồ tư duy. Có thể kèm theo câu hỏi giúp học sinh định hướng đúng các ý chính cần trả lời. Ví dụ: Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng những hình tượng nhân vật nào? Hình tượng nhân vật ấy được thể hiện ra sao? Nhóm 1 trình bày hình tượng con sông Đà, nhóm 2 trình bày hình tượng người lái đò. Con sông Đà trên trang viết của Nguyễn Tuân hiện lên như một “nhân vật” với hai nét tính cách trái ngược. Người lái đò đã chinh phục được con sông hung bạo dữ dằn nhờ sự ngoan cường, dũng cảm và kinh nghiệm sông nước. Sau khi 2 nhóm trình bày lên bảng, giáo viên gọi học sinh dưới lớp nhận xét, bổ sung để hoàn thiện Bản đồ tư duy về kiến thức bài học đó. Như đã giới thiệu ở trên, chúng ta cũng có thể dùng cách chia nhỏ nội dung bài học để học sinh nắm vững kiến thức từng phần. Ví dụ như cũng yêu cầu học sinh vẽ Bản đồ tư duy tái hiện hai hình tượng cơ bản trong tác phẩm Người lái đò sông Đà, nhưng giáo viên yêu cầu 4 nhóm làm việc độc lập: + Nhóm 1: tái hiện hình tượng con sông Đà hung bạo, dữ dằn. + Nhóm 2: tái hiện hình tượng con sông Đà thơ mộng, trữ tình. + Nhóm 3: tái hiện hình tượng ông lái đò với sự ngoan cường dũng cảm và kinh nghiệm sông nước. + Nhóm 4: tái hiện hình tượng ông lái đò với vẻ đẹp bình dị và tài hoa. Lưu ý: Mỗi học sinh trong nhóm phải có trách nhiệm hoàn thiện một nhánh của Bản đồ tư duy. 10 Ví dụ: Ở nhóm 1, học sinh thứ nhất trình bày lên Bản đồ hình ảnh “đá bờ sông”, học sinh thứ hai trình bày “những cái hút nước”… cứ như vậy tất cả các học sinh trong các nhóm đều tích cực làm việc, đều thể hiện được dấu ấn của mình trong Bản đồ tư duy tái hiện kiến thức bài học. Với cách làm này, chúng ta khắc phục được tình trạng một số học sinh ỉ lại, lười biếng hoặc phó thác hết trách nhiệm cho nhóm trưởng. Trong các tiết hệ thống kiến thức, giáo viên cần yêu cầu học sinh tích cực tham gia xây dựng bản đồ. Có như vậy học sinh mới phát huy được tính tích cực và sáng tạo của mình. Khi trình bày xong bản đồ cũng là lúc học sinh hiểu kĩ và khắc sâu kiến thức đã học. Để làm được điều này, giáo viên phải nhắc nhở học sinh nắm kĩ nội dung của bài học. Giáo viên cũng phải hướng dẫn cho học sinh cách trình bày. Từ Bản đồ tư duy các em đã thực hiện, học sinh phải lên bảng thuyết trình nội dung bài học. 3.2. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu Nhắc đến Nguyễn Minh Châu, người đọc nhớ ngay đến “hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn” trong các sáng tác của ông qua nhân vật Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng”. Đến “Chiếc thuyền ngoài xa”, ta lại bắt gặp hạt ngọc trong lấm láp bùn đất, lam lũ đời thường ở người đàn bà hàng chài trong. Cũng cách gọi phiếm chỉ như ông lái đò trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, người đàn bà hàng chài đã để lại ấn tượng mạnh với người đọc như một sự ám ảnh. Nhân vật người đàn bà khiến ta nhớ đến Thị Nở (Chí Phèo – Nam Cao), hay nhân vật thị (Vợ nhặt – Kim Lân). Không phải vì vẻ bề ngoài do sự bất công của tạo hóa, vì nỗi bất hạnh khi họ phải gánh chịu mà có lẽ là vì sự cảm thông của họ dành cho người khác, vì vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng – dù sự trân trọng ấy có chút gì khiến ta không khỏi nghẹn lòng. Dõi theo lời kể của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Mở đầu là một “cảnh đắt trời cho”, tôi hiểu được cảm giác choáng ngợp tâm hồn bởi anh phát hiện được một khung cảnh toàn bích. Anh đang sống trong sự sung sướng – sự sung sướng của món ăn tinh thần chứ không thuộc về thể xác. Ấy vậy mà ngay lúc ấy, anh phải chứng kiến cảnh tượng tàn bạo như sự trêu đùa của tạo hóa. Một cảnh bạo hành dã man diễn ra ngay trước mắt. Lúc này không biết có ai đã từng nghĩ: người đàn bà kia là kẻ thù? Người đàn kia đã phạm phải một tội lỗi không thể dung tha? Nguyễn Minh Châu đã quá khéo khi đặt ra một tình huống truyện độc đáo làm người đọc nhấp nhổm, đứng ngồi không yên. Phải tìm hiểu tiếp câu chuyện để tìm lời giải đáp cho những thắc mắc trên. Đến tòa án Huyện, người đọc như nhìn thấy vẻ mặt lo lắng, bối rối của người đàn bà hàng chài. Sao không nghe thấy bà ta kể tội chồng mình như những người đàn bà bị chồng đánh khác? Hay bà bị một sự đe dọa nào đó? Được khuyên bỏ chồng, người đàn bà từ chối bằng một hành động khó hiểu “con lạy quý tòa”, “quý tòa bắt tội 11 con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Chính lúc này, người trực tiếp chứng kiến câu chuyện hay người gián tiếp nghe kể như chúng ta đều cảm thấy khó hiểu, một cảm giác bất ngờ, khó chịu và bức xúc. Từ trong lời kể của bà toát lên một nỗi đau, một sự cam chịu, một sự hi sinh vô bờ bến. Lúc đầu, chúng ta nghĩ rằng người đàn bà nghèo khổ kia phải biết ơn nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu. Nhưng không! Chính Phùng và Đẩu phải thầm cảm ơn vì sự sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời cuả người mẹ nghèo khổ. Một người mẹ luôn sống vì con. Thậm chí đến niềm vui của bà cũng nhờ có các con “vui nhất là khi ngồi nhìn đàn con tôi chúng được ăn no”. Khi học tác phẩm này ở nội dung câu chuyện ở tòa án Huyện, giáo viên có thể kết hợp nhiều phương pháp như thảo luận, nêu vấn đề, nêu giả thuyết… + Nếu em là người đàn bà hàng chài, em sẽ hành xử như thế nào? + Em có đồng tình với cách hành xử của bà không? Vì sao? + Giáo viên có thể cho học sinh thảo luận nhóm (hướng học sinh đến câu trả lời thể hiện rõ nhất phẩm chất đáng trân trọng của bà.) Khi ôn tập, giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng lập sơ đồ tư duy về lí do không bỏ chồng của người đàn bà, từ đó chúng ta có thể nhận ra những phẩm chất tốt đẹp, đáng trân trọng của hình tượng nhân vật này. Đồng thời, học sinh hiểu rõ hơn thông điệp mà nhà văn gửi gắm qua câu chuyện. THIẾT KẾ GIÁO ÁN TIẾT 70-71 : Đọc văn : CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA Nguyễn Minh Châu I/ MỤC TIÊU BÀI HỌC 1. Kiến thức: Thấy được những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc sống và con người một cách đa chiều, nghệ thuật chân chính luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời. Thấy được nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm: tình huống truyện độc đáo, mang ý nghĩa khái quát, phát hiện về đời sống, điểm nhìn nghệ thuật đa chiều, lời văn giản dị mà sâu sắc, dư ba. 2. Kĩ năng: Đọc hiểu truyện ngắn hiện đại. 3. Thái độ: lên án nạn bạo hành gia đình trong xã hội hiện đại ngày nay. II PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN - Giáo viên: SGK, TLTK, thiết kế bài giảng - Học sinh: Soạn bài theo câu hỏi III/ TIẾN TRÌNH BÀI HỌC 1/ Ổn định tổ chức 2/ Kiểm tra bài cũ 12 3/ Bài mới Hoạt động của giao viên và học sinh Nội dung cần đạt Hoạt động 1: Tổ chức I. TÌM HIỂU CHUNG tìm hiểu chung 1. Tác giả 1. HS Đọc mục Tiểu dẫn - Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã và tóm tắt những nét Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ chính về tác giả, kể tên An. Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh những sáng tác tiêu biểu và tài năng nhất của văn học ta hiện nay" của Nguyễn Minh Châu. - Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và 2. HS Đọc mục Tiểu dẫn hoàn thiện nhân cách. và tóm tắt những nét - Tác phẩm chính (SGK) chính về tác phẩm Chiếc 2. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa thuyền ngoài xa. - Tóm tắt tác phẩm (HS tự tóm tắt) - Truyện in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc GV tổ chức cho HS đọc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. văn bản, tóm tắt và chia - Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), đoạn. sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện HS trên cơ sở đọc ở nhà, ngắn (in năm 1987). trình bày tóm tắt, chia - Bố cục đoạn. - Truyện chia làm 2 phần lớn: + Phần 1: (Từ đầu đến “chiếc thuyền lới vó đã biết mất"). Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh. + Phần 2: (Còn lại): Câu chuyện của người đàn bà làng chài. Hoạt động 2: Tổ chức II. ĐỌC- HIỂU Đọc- hiểu văn bản 1. Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh: GV nêu câu hỏi và tổ a. Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng của người nghệ sĩ chức cho HS thảo luận: nhiếp ảnh Phát hiện thứ nhất của - "Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu .... tôi tưởng người nghệ sĩ nhiếp ảnh là chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, phát hiện đầy thơ mộng. khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". Anh (chị) cảm nhận như - Đôi mắt tinh tường, "nhà nghề” của người nghệ sĩ đã phát thế nào về vẻ đẹp của hiện vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả 13 chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mù sương mà người nghệ sĩ chụp được? HS thảo luận, cử đại diện trình bày trước lớp. GV nêu câu hỏi và tổ chức cho HS thảo luận: Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ nhiếp ảnh mang đầy nghịch lí. Anh đã chứng kiến và có thái độ như thế nào trước những gì diễn ra ở gia đình thuyền chài. HS thảo luận, phát biểu. GV nêu câu hỏi: Câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện nói lên điều gì? HS thảo luận nhóm, cử đại diện trình bày. đời bấm máy anh chỉ gặp một lần. Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc - đó là niềm hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu . Trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển trời mờ sương, anh đã cảm nhận cái đẹp toàn bích, hài hoà, lãng mạn của cuộc đời, thấy tâm hồn mình được thanh lọc. b. Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí của người nghệ sĩ nhiếp ảnh - Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến: từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau... Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. - Chứng kiến cảnh 1 đứa con đánh lại bố nó để bảo vệ mẹ nó. => Chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo, Phùng đã “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu .... vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Hành động đó nói lên nhiều điều. * Ý nghĩa của 2 phát hiện: - Cuộc đời không phải lúc nào cũng đẹp, cũng thi vị. Vẫn có những nghịch lí, những cảnh đời éo le bên cạnh những gì người ta vẫn cho là toàn bích. - Người nghệ sĩ hay mỗi chúng ta, khi nhìn cuộc đời, không chỉ nhìn bằng cái nhìn thi vị hóa mà phải nhìn nhận từ nhiều phương diện, nhìn sâu vào bản chất bên trong của sự vật hiện tượng. - Trước nghịch lí cuộc đời, mỗi người cần có hành động thiết thực để thay đổi nó. Đặc biệt là với người nghệ sĩ, nếu không, thứ nghệ thuật mà họ tạo ra cũng đáng vứt bỏ như chiếc máy ảnh của nghệ sĩ Phùng. 2. Câu chuyện của của người đàn bà ở toà án huyện Là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng, Đẩu hiểu rõ nguyên do của những điều tưởng như vô lí. Nhìn bề ngoài, đó là người đàn bàn quá nhẫn nhục, cam chịu, bị đánh đập... mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão chồng vũ phu. Nhưng tất cả đều xuất phát từ tình thương vô bờ đối với những đứa con. Trong đau khổ triền miên, người 14 S nêu cảm nghĩ về các đàn bà ấy vẫn chắt lọc những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi.... nhân vật: người đàn bà Qua câu chuyện của người đàn bà làng chài, tác giả giúp vùng biển, lão đàn ông người đọc hiểu rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn độc ác, chị em thằng nhận mọi sự việc, hiện tượng của đời sống. Phác, người nghệ sĩ nhiếp 3. Về các nhân vật trong truyện ảnh. - Về người đàn bà vùng biển: + Tác giả gọi một cách phiếm định “người đàn bà”. Điều tác giả gây ấn tượng chính là số phận của chị. + Ngoại hình: Ngoài 40, thô kệch, mặt rỗ, xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, nhiều cay đắng. - Phẩm chất: + Bà thầm lặng nhẫn nhục, chịu mọi đau đớn khi bị chồng đánh không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn chạy=> nghị lực sống mãnh liệt. + “tình thương con cũng như nỗi đau, sự thâm trầm trong cái việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng để lộ ra bên (HS làm việc cá nhân, ngoài”....bà không muốn những đứa con biết mình bị chồng phát biểu trước lớp) đánh, bà xót xa trước cảnh đứa con đánh lại bố nó… + Sắc sảo, giàu lòng tự trọng. => Một sự cam chịu đáng chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha. Gợi ý: Về người đàn ông - Về người đàn ông độc ác: Cuộc sống đói nghèo đã biến độc ác? Từ các chi tiết để “anh con trai” cục tính nhưng hiền lành xưa kia thành một làm rõ. người chồng vũ phu. Lão đàn ông “mái tóc tổ quạ”, “chân chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ vừa là nạn người của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy. Về chị em thằng Phác?chi - Chị em thằng Phác: Bị đẩy vào tình thế khó xử khi ở tiết nào thể hiện rõ? trong hoàn cảnh ấy. Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can Suy nghĩ về người nghệ sĩ đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, nhiếp ảnh ngăn em làm việc trái luân thường đạo lí. Cô bé là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Thằng Phác thương mẹ theo kiểu một cậu bé con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển. Nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt 15 GV tổ chức cho HS tìm hiểu cốt truyện: Cách xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này có gì độc đáo? HS tiến hành: a) Tóm tắt lại tình huống. b) Bình luận về ý nghĩa của tình huống HS nhận xét về ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm trên hai phương diện: a) Về ngôn ngữ người kể chuyện? b) Về ngôn ngữ nhân vật? chứa đầy trong những nốt rỗ chặng chịt”, “nó tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Hình ảnh thằng Phác khiến người đọc cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào. - Người nghệ sĩ nhiếp ảnh: + Vốn là người lính thường vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. + Tâm hồn tinh tế: Anh xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển lúc bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra sự bạo hành của cái xấu, cái ác ngay sau cảnh đẹp huyền ảo trên biển... +Hơn bao giờ hết, Phùng hiểu rõ: trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy làm ột người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người. 4. Cách xây dựng cốt truyện độc đáo Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo. Trước đó, anh nhìn đời bằng con mắt của người nghệ sĩ rung động, say mê trước vẻ đẹp huyền ảo- thơ mộng của thuyền biển. Trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn, Phùng phát hiện ra hiện thực nghiệt ngã của đôi vợ chồng bước ra từ con thuyền “thơ mộng” đó. Tình huống đó được lặp lại lần nữa: bên cạnh hình ảnh người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng “đòn chồng”, Phùng còn được chứng kiến phản ứng của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha đối với mẹ. Từ đó, trong người nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính chất người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội (Đầu) và hiểu thêm chính mình. Ý nghĩa: Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống 5. Ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm - Ngôn ngữ người kể chuyện: Thể hiện qua nhân vật 16 Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. - Ngôn ngữ nhân vật: Phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người. Hoạt động 3: Tổ chức III. TỔNG KẾT tổng kết Vẻ đẹp của ngòi bút Nguyễn Minh Châu là vẻ đẹp toát ra GV tổ chức cho HS tự từ tình yêu tha thiết đối với con người. Tình yêu ấy bao hàm đánh giá một cách tổng cả khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tôn vinh những vẻ đẹp con quát giá trị của tác phẩm. người còn tiềm ẩn, những khắc khoải, lo âu trước cái xấu, cái ác. Đó cũng là vẻ đẹp của một cốt cách nghệ sĩ mẫn cảm, đôn hậu, điềm đạm chiêm nghiệm lẽ đời để rút ra những triết lí nhân sinh sâu sắc. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số rất nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa với mọi thời, mọi người. V. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Sau hai năm kiên trì sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong các giờ đọc - hiểu văn bản văn học, tôi nhận thấy không khí các giờ học được cải thiện đáng kể. Số lượng học sinh xung phong phát biểu xây dựng bài cũng như số học sinh trả lời được câu hỏi do giáo viên nêu ra ngày càng nhiều hơn. Một số em thì thực sự thích học môn Ngữ Văn. Đặc biệt, qua việc xây dựng và lập kế hoạch trong khi ôn tập củng cố lại kiến thức, khả năng nắm bắt và kiến thức về tác phẩm của nhiều học sinh được mở rộng, khắc sâu. Nhờ thế, các em có vốn liếng văn học nhất định để làm tốt các bài nghị luận văn học. Điểm số của các bài Làm văn cũng như điểm số môn Ngữ Văn của các em được cải thiện đáng kể. Ở các lớp tôi phụ trách, tỷ lệ học sinh có điểm kiểm tra học kỳ cũng như điểm tổng kết môn Văn trên trung bình đạt từ 85% trở lên. Trong đó, điểm khá giỏi của bài kiểm tra học kỳ tăng từ 32,3% lên 46.7%, tỷ lệ khá giỏi trong điểm trung bình cả năm môn Văn tăng từ 21.6% lên 32.5%. Và sự hứng thú của các em đối với môn học cũng được cải thiện đáng kể. Kết quả cụ thể như sau: Kết quả giờ đọc văn Trước khi thực nghiệm: Lớp Sĩ Không số hiểu bài Hiểu bài Không Hứng thú hứng thú 17 Số lượn % g 12A11 48 7 14,5 12A12 50 1 2 Sau khi thực nghiệm: Không Lớp Sĩ 12A11 48 12A12 50 Số lượng 2 0 lượng 30 38 % 62,5 76 Hiểu bài hiểu bài số Số % 4.2 0 Số lượng 36 40 % 75 80 Số lượng 5 1 % 10,4 2 Không hứng thú Số lượng 2 0 % 4.2 0 Số lượng 5 8 % 10,4 16 Hứng thú Số lượng 8 10 % 16.6 20 Kết quả chất lượng kiểm tra 1. Năm học 2011- 2012 (Lớp: 12A11 và 12A12) Số lượng và tỷ lệ Trong đó, tỷ lệ điểm trên trung điểm khá, giỏi bình trở lên Bài KT học kỳ I 62/87 71.26% 20/62 (32.3%) Bài KT học kỳ II 70/87 80.45% 26/70 (37.1%) Điểm TBm HKI 72/87 82.75% 15/72 (20.8%) Điểm TBm HKII 75/87 86.20% 17/75 (22.7%) Điểm TBm CN 74/87 85.05% 16/74 (21.6%) Ghi chú Tổng số học sinh: 98 2. Năm học 2012- 2013 (Lớp 12A8 và 12A10) Bài KT học kỳ I Bài KT học kỳ II Điểm TBm HKI Điểm TBm HKII Điểm TBm CN Số lượng và tỷ lệ điểm trên trung bình 60/85 70.6% 73/85 85.9% 76/85 89.4% 80/85 94.1% 79/85 92.9% Trong đó, tỷ lệ điểm khá, giỏi Ghi chú 28/60 = (46.7%) 30/73 = (41.1%) 30/76 = (39.5%) 35/80 = (44%) 33/79 = (32.5%) Tổng số học sinh: 85 C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 1. KẾT LUẬN 18 Lựa chọn và áp dụng linh hoạt một số biện pháp trên trong quá trình giảng dạy và ôn tập cho các lớp 12 được phân công giảng dạy, tôi nhận thấy một số em học yếu, không nắm vững kỹ năng làm bài cũng đã dần từng bước cải thiện chất lượng học tập môn Ngữ Văn của mình. Điều đó được thể hiện qua sự tham gia của các em vào các hoạt động học tập trong giờ học, qua kết quả của các bài kiểm tra: các em nắm vững kiến thức và biết cách tái hiện kiến thức theo yêu cầu của đề bài qua các bài kiểm tra chung; điểm yếu kém của các em đã giảm dần qua từng bài kiểm tra. Những em học sinh học yếu khi được hỏi đã trả lời: những cách thức tiến hành như trên đã giúp các em hiểu bài tốt hơn; nắm được những kỹ năng và phương pháp làm bài đối với từng loại bài nghị luận xã hội hay nghị luận văn học để từ đó các em có thể vận dụng linh hoạt vào những đề bài cụ thể. 2. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG: Mỗi biện pháp, kĩ thuật dạy học đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, không thể có một biện pháp tối ưu cho mọi trường hợp. Thêm vào đó, việc thực hiện có hiệu quả qua mỗi cách dạy của người giáo viên Ngữ Văn luôn đòi hỏi cả người dạy và người học phải có những phẩm chất, kỹ năng nhất định và những điều kiện cần thiết để đảm bảo thực hiện tốt theo yêu cầu đặc trưng của bộ môn. Vì vậy, vấn đề không phải là cách dạy nào tốt hơn, mà là cách dạy nào phù hợp hơn với từng loại đối tượng học sinh. Trên đây chỉ là một vài biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trong suốt quá trình giảng dạy, ôn tập cho các em học sinh lớp 12 thi tốt nghiệp trung học phổ thông và thấy có hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là ý kiến cá nhân nên chắc chắn vẫn có những điều còn hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp, trao đổi ý kiến từ các đồng nghiệp để ngày càng có nhiều biện pháp giúp học sinh học Văn có hiệu quả hơn và môn Văn không còn là “nỗi ám ảnh” ngán ngẩm của các em nữa. Đề nghị nhà trường phổ thông, các cấp, các ngành quan tâm có thể tổ chức theo chu kì những hội thảo, chuyên đề trao đổi về phương pháp dạy học nói chung và dạy học tác phẩm văn chương nói riêng. Cần vận dụng phương pháp phù hợp với nội dung bài dạy và đối tượng học sinh. Tổ chức dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học. Đề cao và phát huy tối đa vai trò tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học. Cần tổ chức cho học sinh lĩnh hội tri thức bằng chính hoạt động của bản thân mình, rèn cho học sinh cách tự học và ý thức tự học. Cần lựa chọn, kết hợp nhiều phương pháp dạy học tích cực, phù hợp với đặc trưng bộ môn để giờ học nhẹ nhàng mà hiệu quả hơn. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh hoá, ngày 20 tháng 5 năm 2013 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất