Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Skkn sử dụng đồ dùng dạy học trong môn gdcd lớp 9...

Tài liệu Skkn sử dụng đồ dùng dạy học trong môn gdcd lớp 9

.DOC
31
74
133

Mô tả:

PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: 1.1 Cơ sở lí luận Môn GDCD (Giáo dục công dân) có vị trí quan trọng trong nhà trường THCS. Môn học cung cấp cho học sinh một hệ thống chuẩn mực lối sống phù hợp với yêu cầu của xã hội ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, giúp học sinh biết sống hoà nhập với cuộc sống hiện tại với tư cách là một công dân tích cực và năng động; góp phần quan trọng để hình thành những phẩm chất cần thiết của nhân cách con người Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và tăng cường khả năng hội nhập trong xu thế phát triển và tiến bộ của thời đại. Mặt khác dạy học môn GDCD phải nhằm tạo ra sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, giữa lới nói và hành vi. Như vậy, môn GDCD cần phải đảm bảo cung cấp cho học sinh những phương thức ứng xử về đạo đức, pháp luật, văn hoá trong cuộc sống, hình thành ở mỗi học sinh sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, hướng học sinh vào việc thực hành trong cuộc sống hàng ngày các chuẩn mực và mẫu hành vi tích cực mà bài học đặt ra; khơi dậy trong học sinh ý chí thể hiện sự thống nhất đó. Cùng với những môn học khác, môn GDCD góp phần đào tạo những người công dân mới vừa có tri thức khoa học vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình và đất nước. Từ đó các em thấy rõ trách nhiệm của mình: Luôn luôn có ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp , Pháp luật, biết tự rèn luyện bản thân để trở thành người công dân hữu ích cho quê hương, đất nước. Vì vậy, để phát huy tính tích cực của học sinh thì việc sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học là điều kiện hết sức quan trọng giúp học sinh chiếm lĩnh các giá trị , các chuẩn mực đạo đức , pháp luật thông qua việc nắm tri thức , thực hành và rèn luyện trong và ngoài giờ học. 1.2. Cơ sở thực tiễn: 1.2.1. Từ thực tế xã hội: 1 Những năm gần đây, đạo đức xã hội đang bị xuống cấp, tội phạm của những người chưa thành niên có chiều hướng gia tăng, một trong những nguyên nhân dẫn đến các em có lối sống buông thả, thiếu văn hoá, phạm tội là hiểu biết về các giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và pháp luật của các em còn hạn chế.Vì vậy giáo dục đạo đức, pháp luật trong nhà trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần quan trọng trong việc giáo dục và rèn luyện con người ý thức tuân theo những chuẩn mực của đạo đức xã hội và tuân theo pháp luật. Bên cạnh đó trước đây, phần lớn giáo viên dạy bộ môn này là giáo viên chủ nhiệm hoặc những giáo viên những bộ môn khác được phân công giảng dạy nên họ không có điều kiện và ít quan tâm đến việc đầu tư cho bài giảng, chưa có kiến thức sâu rộng và kinh nghiệm khai thác và sử dụng kênh hình trong các tiết dạy. Do đó hiệu quả giờ dạy đạo đức, pháp luật chưa cao, các em hiểu biết về các chuẩn mực đạo đức, pháp luật còn mơ hồ. Những năm gần đây, phần lớn giáo viên dạy bộ môn này đã được đào tạo chính qui, được phân công chuyên giảng dạy bộ môn này, nên họ rất quân tâm đến việc đầu tư cho từng tiết dạy, đặc biệt là họ rất quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng trực quan và áp dụng các phương tiện hiện đại trong giảng dạy môn GDCD. Chính vì lẽ đó mà chất lượng và hiệu quả giờ dạy đạo đức, pháp luật được nâng cao hơn trước. Môn GDCD ở trường THCS trước đây thường bị coi làm môn học phụ nên các giờ học thường diễn ra một cách đơn điệu, khô khan, phương pháp chủ yếu là phương pháp thuyết trình . Trong giờ học , học sinh được hoạt động ít , thụ động , giờ học không gây hứng thú , đồ dùng dạy học ít được sử dụng hoặc sử dụng một cách hình thức. Nên đó chưa phải là là phương pháp tích cực vì học sinh chưa thực sự có cơ hội để thể hiện thái độ , lập trường của cá nhân mình .Những giờ học như vậy , học sinh ít có khả năng sáng tạo. 1.2.2. Từ mục tiêu đổi mới phương pháp: Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. Với định hướng “ lấy học sinh làm trung tâm” giáo viên cần đa dạng hoá các phương pháp dạy học đảm bảo hiệu quả cao và học sinh tích cực, 2 chủ động trong học tập.Vì vậy việc dạy đạo đức, pháp luật giáo viên không chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại mà còn phải sử dụng phương pháp trực quan. Tức là sử dụng các phương tiện, đồ dùng dạy học nhằm minh hoạ cho nội dung bài giảng ( Như: tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, băng hình, băng tiếng, bảng số liệu, thống kê…).thông qua các đồ dùng trực quan học sinh có thể tiếp thu tri thức thiết lập mối quan hệ giữa nội dung kiến thức với thực tế cuộc sống. Các em biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, vào trong vấn đề cụ thể hàng ngày. Cho nên giờ học đạo dức, pháp luật rất sôi nổi, chất lượng giờ dạy được nâng cao, học sinh nắm bắt các chuẩn mực của đạo đức, pháp luật chắc và nhanh. 1.2.3. Từ thực tế đơn vị: Trong những năm gần đây công tác bồi dưỡng chỉ đạo chuyên môn của Phòng giáo dục và Đào tạo ngày càng chặt chẽ hơn, các cụm chuyên môn được quan tâm, sinh hoạt tương đối hiệu quả. Bên cạnh đó tại đơn vị công tác chỉ đạo đổi mới phương pháp được thống nhất từ Ban giám hiệu đến các tổ, nhóm và từng cá nhân, đặc biệt là sử dụng đồ dùng dạy học có kết hợp các phương tiện hiện đại sẽ góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy nhiều hơn, mỗi giáo viên dạy Giáo dục công dân đều xác định rằng: “ Muốn cho giờ dạy đạo đức, pháp luật không bị khô cứng và tẻ nhạt phải sử dụng đồ dùng trực quan” giúp học sinh nắm vững kiến thức theo nguyên lí:“ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó là con đường biện chứng của nhân thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”. (Lê nin). Bên cạnh đó trong những năm gần đây nhà trường đã từng bước trang bước bị các phương tiện phục vụ cho giảng dạy như máy tính, mạng Internet nên việc sưu tầm tư liệu như tranh ảnh rất thuận tiện. Vì vậy mỗi giáo viên đều suy nghĩ, tìm tòi để làm sao nâng cao chất lượng sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy bộ môn GDCD nhằm đem lại hiệu quả cao trong việc dạy và học bộ môn này. Từ những cơ sở thực tiễn trên đây đòi hỏi phải có sự thay đổi về phương pháp dạy học . Muốn làm được điều đó , giáo viên phải là những người tổ chức , điều khiển các hoạt động học tập , hạn chế tối đa sự độc thoại của thầy bằng cách sử dụng đồ dùng dạy học một cách trực quan , phong phú , tạo ra sự hấp dẫn trong tiết 3 học , học sinh chủ động tiếp cận đồ dùng dạy học , phân tích , đánh giá từ đó rút ra nội dung bài học . Như vậy học sinh có cơ hội tối đa phát triển tính độc lập , sáng tạo , chủ động tiếp thu kiến thức , nâng cao nhận thức , rèn luyện kỹ năng , còn người giáo viên chỉ là người tổ chức tiết học thành môi trường để học sinh mà thôi. PHẦN II: NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận: 1.1. Đồ dùng dạy học là gì ? Đồ dùng dạy học ở đây được hiểu là những phương tiện, thiết bị vật chất được sử dụng trong quá trình dạy học như Tư liệu, tranh, ảnh, bản đồ, biểu đồ, sơ đồ, bản thống kê, số liệu, phim tình huống, phim tư liệu, trò chơi…Ngoài ra, ta có thể sử dụng một số đồ dùng thông thường trong gia đình, trong sinh hoạt: Dùng để sắm vai, chơi trò chơi 1.2. Chức năng của đồ dùng dạy học: Các kiểu và loại đồ dùng dạy học tuy có khác nhau nhưng chức năng của chúng là tích hợp và cơ động. Mỗi đồ dùng dạy học đều có thể thực hiện các chức năng sau: - Thông báo hay trình bày thông tin. - Giới thiệu vào bài - Minh họa, giải thích, mô tả trực quan. - Tổ chức và tiến hành các hoạt động. - Kết thúc bài học và giáo dục học sinh 1.3. Tác dụng của đồ dùng dạy học: Tạo điều kiện để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, loại trừ khuynh hướng dạy chay làm cho các giờ học khô khan, mang tính chất lý thuyết, áp ñặt đối với học sinh. Làm tăng tính hấp dẫn đối với nội dung học tập, gây hứng thú học tập ở học sinh. Làm cho việc học trở nên dễ dàng hơn, thuận lợi hơn. Các đồ dùng dạy học là nguồn cung cấp các chất liệu để học sinh khai thác nội dung học tập một cách 4 tích cực, tự giác. Trong dạy học đổi mới, học sinh hoạt động dưới sự hướng dẫn của giáo viên, nếu không có đồ dùng, thiết bị dạy học thì việc tổ chức các hoạt động của học sinh sẽ gặp rất nhiều khó khăn, do đó kết quả học tập không đạt yêu cầu mong muốn. 1.4. Sử dụng đồ dùng dạy học môn GDCD theo hướng đổi mới: Việc sử dụng đồ dùng dạy học bộ môn phải tuân theo những yêu cầu nhất định. Để việc sử dụng có hiệu quả, tránh xu hướng lạm dụng hoặc sử dụng một cách hình thức, trước hết đồ dùng và sử dụng đồ dùng phải gắn bó hữu cơ với phương pháp dạy học, như một thành tố của phương pháp dạy học. Mỗi hoạt động dạy học được xây dựng trên cơ sở vận dụng một phương pháp dạy học cụ thể, có phương tiện dạy học phù hợp để hỗ trợ cho hoạt động đó. Vì vậy sử dụng phương tiện dạy học phải đúng lúc, đúng chỗ, kịp thời, tránh đưa ra một cách tuỳ tiện. Một yêu cầu rất quan trọng là đồ dùng dạy học phải có tác dụng kích thích học sinh tư duy, suy nghĩ, tìm tòi, không phải chỉ như một phương tiện minh hoạ nội dung bài học. Khi sử dụng thiết bị, phương tiện dạy học là giáo viên cung cấp cho học sinh những chất liệu cần thiết để học sinh tìm tòi, tự kiến tạo tri thức, kỹ năng trên cơ sở làm việc với nguồn thông tin từ các phương tiện dạy học mà giáo viên trình bày, giới thiệu, học sinh phải có ý kiến nhận xét, đánh giá về nội dung, tính chất sự việc, rút ra kết luận bài học cần thiết. Mặt khác đổi mới phương pháp dạy học không chỉ là đổi mới phương tiện và không có nghĩa là dùng nhiều phương tiện dạy học, mà điều quan trọng là sử dụng phương tiện dạy học một cách hợp lý, có hiệu quả, tránh lạm dụng hoặc sử dụng một cách hình thức, Cần tránh xu hướng sử dụng đồ dùng dạy học một cách tràn lan, không có chủ đích rõ rệt, mà mỗi đồ dùng dạy học đưa ra cần được khai thác triệt để. 2. Các bước tiến hành sử dụng đồ dùng trực quan: Dạy đạo đức, pháp luật cũng như tất cả các môn học khác là phải sử dụng đồ dùng trực quan để minh hoạ cho nội dung bài giảng. Đồ dùng trực quan trong các tiết dạy đạo đức, pháp luật hiện nay rất đa dạng và phong phú, trong giai đoạn hiện nay khi khoa học công nghệ đang phát triển, mạng Intenet dang được sử dụng ngày 5 càng rộng rãi Vì vậy trong một tiết dạy giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức trực quan khác nhau vào những mục đích khác nhau nhằm làm cho bài giảng thêm hấp dẫn, đạt hiệu quả cao. Từ thực tiễn giảng dạy tôi thấy có những hình thức trực quan như sau: 2.1. Chuẩn bị đồ dùng dạy học: Muốn sử dụng đồ dùng trực quan đạt hiệu quả cao trong mỗi bài dạy đạo đức, pháp luật, người giáo viên dạy GDCD phải chuẩn bị đồ dùng trực quan sử dụng trong tiết dạy. Do những đồ dùng trực quan sử dụng trong các tiết dạy đạo đức, pháp luật ít có sẵn nên việc chuẩn bị đồ dùng cho một tiết dạy khá công phu đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư về mặt thời gian, công sức, trí tuệ và lòng nhiệt tình. Trước hết người giáo viên phải xác định xem trong tiết dạy này cần sử dụng loại đồ dùng gì? Bảng, phấn, giấy, bút, thước; tư liệu, tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, sơ đồ; phiếu học tập, bảng phụ…hay các loại phương tiện kỹ thuật nghe nhìn như máy băng đĩa ghi âm, máy chiếu các bản in, máy băng đĩa hình, các phương tiện đa chức năng như máy tính , máy chiếu, các phần mềm dạy học trên máy vi tính… Khi đã xác định được bài dạy này cần sử dụng những loại đồ dùng nào thì người giáo viên sẽ bắt tay vao công việc chuẩn bị. Ví dụ1: Khi dạy tiết ngoại khóa : “An toàn giao thông” (GDCD 8), tôi thấy ở bài này cần sử dụng những đồ dùng sau: - Máy vi tính. - Máy chiếu Projector. - Hình vẽ các biển báo, đèn tín hiệu…. - Phiếu học tập, bảng phụ, bút dạ. - Băng hình, tranh ảnh về các tình huống đi đường - Thông tin, số liệu, hình ảnh về tình hình TTATGT. Từng bài dạy giáo viên cần biết trong phòng đồ dùng của nhà trường đã có những đồ dùng nào, nếu thiếu thì tiến hành làm và sưu tầm, cố gắng vận động học sinh cùng tham gia: vẽ tranh, sưu tầm tranh ảnh, tìm số liệu, khi cần có thể tự quay hoặc nhờ đồng nghiệp quay những đoạn phim tư liệu ngắn hoặc các tình huống. 6 Biển báo nguy hiểm Biển báo cấm Đi hàng ba, hàng tư Tuyên truyền An toàn giao thông Biển báo chỉ dẫn Đá bóng dưới lòng đường Cảnh sát giao thông làm nhiệm vu 7 Khi đã có những đồ dùng cần sử dụng, tôi tiến hành nghiên cứu thật kỹ từng ký hiệu trên bản đồ, hình vẽ, tìm hiểu chi tiết nội dung, ý nghĩa của từng bức tranh, hình vẽ, ý nghĩa của những số liệu để khi lên lớp giảng dạy được tốt. Trong quá trình sưu tầm tư liệu tôi cố gắng tích lũy và sắp xếp chúng theo từng chủ đề khác nhau như: chủ đề về An toàn giao thông, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS , Thanh niên, Hôn nhân gia đình, Hội nhập quốc tế, Bộ máy Nhà nước, các chuẩn mực đức. Trong từng chủ đề có các thể loại tư liệu khác nhau: Phim tư liệu, tình huống, tranh ảnh, mẫu chuyện…những tư liệu này không chỉ dạy học ở lớp 9 mà còn những lớp khác tùy theo chủ đề để lựa chọn. Việc sắp xếp này cũng giúp cho giáo viên dễ dàng trong việc lấy dùng khi cần thiết, giáo viên có thể trình chiếu trực tiếp, thiết kế giáo án điện tử hoặc photo ra giấy để dạy. Để làm được những điều đã trình bày thi người giáo viên phải có những am hiểu tình hình chính trị xã hội chủa địa phương, đất nước, phải cập nhật thông tin trên đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí, trên mạng Internet để kịp thời bổ sung những tranh ảnh, bài viết, số liệu mới để đảm bảo tính chính xác, cập nhập của bài giảng. 2.2. Sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả: Muốn sử dụng đồ dùng trực quan có hiệu quả, trước hết người giáo viên cần xác định loại phương tiện cần sử dụng, tác dụng của nó đối với bài giảng. 2.2.1. Tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ, bản đồ: Những đồ dùng trực qua này sẽ có tác dụng gây ấn tượng sâu sắc trong ký ức mỗi học sinh. Nếu người giáo viên sử dụng tốt các phương tiện đó sẽ giúp cho học sinh phát triển được óc quan sát, trí tưởng tượng, khả năng tư duy liên hệ thực tế. Nó còn giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những điều thu nhận được. Ví du 1: khi dạy bài 4: Bảo vệ hòa bình (GDCD 9) chúng ta có thể giới thiệu đến học sinh những bức tranh Khi xem những bức ảnh này học sinh sẽ hình dung được: - Hậu quả to lớn của chiến tranh. - Ngày nay chiến tranh vẫn xãy ra nhiều nơi trên thế giới 8 - Trách nhiệm của cộng đồng thế giới, mỗi quốc gia, mỗi con người phải làm gì để ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Mỹ ném bom nguyên tử Nhật bản Hậu quả của chiến tranh Bảo vệ trật tự xã hội Bảo vệ Tổ Quốc Biểu tình vì hòa bình Vẽ tranh vì hòa bình 9 Ví du 2: Khi dạy bài 17: Nhà nước CH XHCN Việt Nam (Lớp 7); bài 18: Bộ máy Nhà nước cấp cơ sở (Lớp 7); Bài 20; Hiến pháp nước CH XHCN Việt Nam (Lớp 8): Giáo viên có thể giới thiệu các sơ đồ sau, nhằm giúp học sinh hiểu được một cách dễ dàng cơ cấu tổ chức Nhà nước ta từ trung ương đến địa phương: - Cơ quan quyền lực Nhà nước CH XHCN Việt Nam. - Tổ chức bộ máy nhà nước CH XHCN Việt Nam. - Cơ cấu tổ chức cơ quan hành chính nhà nước CH XHCN Việt Nam. - Cơ cấu tổ chức cơ quan xét xử nước CH XHCN Việt Nam. - Cơ cấu tổ chức cơ quan kiểm sát nước CH XHCN Việt Nam. 10 11 Ví dụ 3: Khi dạy bài: Ngoại khóa: “An toàn giao thông” (Lớp 9)giáo viên có thể đưa ra “Biểu đồ so sánh tai nạn giao thông theo từng tháng năm 2008 và 2009” Mục đích: Nhằm giúp học sinh so sánh tình hình tai nạn giao thông 2 năm gần nhất về số người chết theo từng tháng(có so sánh cùng thời điểm của 2 năm 2008, 2009) từ đó có cái nhìn khái về tình hình tai nạn giao thông cả nước. Biểu đồ so sánh tai nạn giao thông theo từng tháng năm 2008 và 2009: 12 Ví dụ 4: Khi dạy bài: Ngoại khóa: “Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc” (lớp 9) giáo viên có thể giới thiệu “Bản đồ hành chính Việt Nam”: Qua bản đồ giúp học sinh hiểu được: - Đất nước ta, vị trí tiếp giáp với nước ngoài, một phần đất nước ngoài biển khởi (Hoàng Sa, Trường Sa) - Xác định được vùng trời, vùng biển, những tất đất thiêng liêng của Tổ Quốc  Hình thành ý thức công dân, nghĩa vụ đối với đất nước Ví dụ 5: Khi dạy bài: Ngoại khóa “An toàn giao thông” (Lớp 8) giáo viên có thể giới thiệu “Lược đồ mạng lưới giao thông đường sắt Việt Nam” để : - Giới thiệu mạng lưới giao thông đường sắt ở Việt Nam và đặc điểm của đường sắt nước ta: Hầu hết các đường bộ đều giao cắt với đường sắt trên cùng một mặt phẳng (đoạn đường đó gọi là đường ngang). Ở nước ta có khoảng hơn 1000 đoạn đường như vậy, trên các đoạn đường đó thường xảy ra tai nạn vô cùng nguy hiểm. - Tìm những biện pháp đảm bảo an toàn khi đi qua đoạn đường bộ giao cắt với đường sắt. - Biết bảo vệ tài sản trên đường sắt, tránh việc ném đá lên tàu, đảm bảo an toàn tại địa phương nơi tàu đi qua Đường bộ giao với đường sắt Bản đồ hành chính Việt nam 13 2.2.2. Bảng thống kê, số liệu: Bảng thống kê, số liệu ấy sẽ là những minh chứng có sức thuyết phục nhất, sinh động nhất về thực tiễn cuộc sống. Giúp học sinh có cái nhìn thực tế, thiết thực so với lý thuyết chung chung, Từ đó các em nắm bài vững, hiểu bài sâu. Ví dụ 1: Khi dạy bài Ngoại khóa: “An toàn giao thông” (Lớp 9) giáo viên có thể đưa ra “Bản thống kê tình hình tai nạn giao thông”giúp học sinh: - Thấy được những tổn thất to lớn về người do tai nan giao thông gây ra. - Diễn biến phức tạp của tai nạn giao thông. - Tìm ra những giải pháp góp phần hạn chế tai nạn giao thông. Tai nạn giao thông Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tỉ lệ giảm so với ( Toàn quốc) Số vụ 14.701. 14.624. 11.522 Số người chết 12.731. 13.150. 10.397 Số người bị thương 10. 877. 10.546. 7.413 Bảng thống kê tình hình tai nạn giao thông. năm trước 13,3% 12,7 % 24.8 % Ví dụ 2 : Khi dạy bài 14: “ Phòng, chống nhiễm HIV/ AIDS” (GDCD 8) giáo viên có thể giới thiệu “Bảng thống kê tình hình nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam” nhằm giúp học sinh: - Thấy được nguy cơ, mức độ lây lan nhanh chóng của đại dịch HIV/AIDS ở nước ta đối với tất cả mọi người, không phân biệt độ tuổi, giới tính, tầng lớp - Thấy được sự nguy hiểm của căn bệnh thế kỉ. Có ý thức phòng ngừa và tuyên truyền mọi người phòng chống sự lây lan của HIV/AIDS. - Tránh phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS. Năm Năm Năm Năm Năm Cả nước 2001 2003 2006 2007 2008 Số người nhiễm HIV 41. 622 79. 660 104. 111 128.367 135.171 Số bệnh nhân AIDS 6. 251 11. 254 17. 289 25.219 29.134 Số người tử vong vì AIDS 3. 426 6. 325 10. 071 14.042 41.418 Bảng thống kê tình hình nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam 2.2.3. Phim tư liêu, Video clip tình huống: Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc tìm những thước phim tư liệu, phóng sự điều tra, Video clip tình huống không còn qua khó 14 khăn đối với người giáo viên, những tư liệu này có rất nhiều trên Iternet. Điều quan trọng là người giáo viên phải biết lựa chọn cho phù hợp vứi từng bài học, vừa mang tính giáo dục cao. Trong quá trình giảng dạy của mình, tôi đã cố gắng sưu tầm, sắp xếp các loại tư liệu này thành những chuyên mục, các đoạn phim có thể sử dụng dạy nhiều lớp khác nhau với cùng một chủ đề. Ví dụ 1: Khi dạy bài “Lý tưởng sống của thanh niên” (GDCD 9) tôi sẽ cho học sinh xem đoạn Video clip hình ảnh về Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Video clip về “Thanh niên tình nguyện” đi đến vùng sâu, vùng xa, Video clip về thanh thiếu niên ăn chơi hư hỏng, đánh bạc đua xe…nhằm giúp học sinh: - So sánh hai lối sống đối lập nhau và hậu quả của việc ăn chơi hư hỏng. - Thấy được trách nhiệm to lớn của thanh niên trong sự nghiệp Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. - Có ý thức phấn đấu rèn luyện của bản thân, có nhu cầu cống hiến vì sự nghiệp chung. Ví dụ 2: Khi dạy bài “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý của công dân” (GDCD 9) tôi sẽ cho học sinh xem những đoạn Video clip “Buôn bán ma túy”, “Học sinh đi hàng ba, hàng tư”, “lấn chiếm lòng, lề đường”, “Đi xe trong sân trường”nhằm giúp học sinh xác định các khái niệm: - Vi phạm pháp luật hình sự, - Vi phạm pháp luật hành chính; - Vi phạm pháp luật dân sự; - Vi phạm kỉ luật.  có ý thức chấp hành tốt các quy định của pháp luật và nôi quy của nhà trường Ví dụ 3: Khi dạy bài 12 “Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân” (GDCD 9) tôi sẽ cho học sinh xem đoạn Video clip về “Bạo lực gia đình”, nhằm giúp học sinh thấy được đó là hành vi vi phạm pháp luật cần lên án, qua đó giúp các em liên hệ đến gia đình mình, nơi em ở từ đó giáo dục ý thức trách nhiệm của mình đối với gia đình. 2.2.4. Những câu chuyện có thật trong cuộc sống, qua báo chí … 15 Những câu chuyện ấy sẽ là phương tiện minh hoạ chân thực nhất, sống động nhất góp phần làm cho bài giảng thêm hấp dẫn, tác động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm của học sinh. Thông qua những câu chuyện thực tế giáo viên bồi dưỡng cho học sinh những quan điểm đúng đắn, các em biết yêu ghét rõ ràng; biết bênh vực những việc làm, hành động đúng; biết đấu tranh với những hành động, việc làm sai trái, vi phạm nội qui trường lớp, vi phạm pháp luật. Ví dụ 1: Khi dạy bài 8 “Năng động sáng tạo” (GDCD 9) tôi đã kể cho học sinh nghe câu chuyện về “Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký”dù phải viết bằng chân nhưng đã vượt qua khó khăn, vượt qua số phận để trở thành “Nhà giáo ưu tú”, câu chuyện về “Thần đèn Nguyễn Cẩm Lũy” chỉ học h ết tiểu học nhưng có “biệt tài” di dời các công trình. Từ đó giúp học sinh có ý thức vươn lên trong cuộc sống, biết vượt qua khó khăn, năng động, sáng tạo trong công việc vươn tới thành công, có đóng góp cho xã hội. Cổng Tam quan được “Thần đèn Nguyễn Cẩm Lũy di dời đến địa điểm hiện nay Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký Ví dụ 2: Khi dạy bài 6 “Hợp tác cùng phát triển” (GDCD 9) tôi sẽ kể về tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam và vai trò của Bác Vũ Khoan và Bác Trương Đình Tuyển trong công tác đàm phám. Việc gia nhập WTO có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với Việt Nam. Khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và trên con đường hội nhập. 16 Lễ kí Việt nam gia nhập WTO Bác Vũ Khoan Bác Trương Đình Tuyển 2.3. Lựa chọn đồ dùng dạy học theo yêu cầu sách giáo viên có sưu tầm bổ sung phù hợp: Đây là khâu quan trọng quyết định hiệu quả giờ dạy, nếu dựa vào ý thích chủ quan của bản thân thì rất dễ bị sai lầm. Nếu sử dụng tuỳ tiện sẽ lạc chủ đề và phản tác dụng giáo dục, hiệu quả giờ dạy sẽ thấp. Khi chuẩn bị bài lên lớp, giáo viên cần hiểu được: giảng bài này cần sử dụng phương tiện, đồ dùng trực quan gì? Và sử dụng khi nào? Vào mục đích gì? Để phù hợp với nội dung bài giảng, vừa sát hợp với thực tiễn cuộc sống vừa có tính giáo dục cao. Theo tôi muôn sử dụng đồ dùng dạy học phù hớp yêu cầu từng bài giảng và mang lại hiêu quả cao, người giáo viên cần chú ý những vấn đề sau: 2.3.1. Phải xác định nội dung cơ bản của bài trên cơ sở chuẩn kiến thức sách giáo khoa về mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ từ đó lựa chọn phương tiện, đồ dùng phù hợp. Ví dụ: Khi dạy bài 7 “Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc” (GDCD 9) tôi đã xác định định yêu cầu cơ bản của bài này: - Kiến thức : Hiểu thế nào là truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ý nghĩa của truyền thống dân tộc và sự cần thiết phải kế thừa. Trách nhiệm của công dân - Kĩ năng :Biết phân biệt truyền thống tốt đẹp với phong tục, tập quán lạc hậu cần xóa bỏ. - Thái độ : Tôn trọng, bảo vệ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Phê phán những hành vi thiểu tôn trọng xa rời truyền thống dân tộc. Từ đó quyết định chọn lựa đồ dùng sau: 17 - Tranh ảnh các làng nghề truyền thống, lễ hội Cầu ngư (Miền Trung), các Video Clip: Lế hội đền Hùng, lế hội Chùa Hương, ca trù, Cồng chiêng Tây Nguyên, múa rối nước. Nhằm giúp học sinh hiểu rõ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam - Tranh ảnh về mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu nhằm giúp học sinh hình thành kĩ năng phân biệt được truyền thống tốt đẹp với mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu. Lễ hội cầu ngư ở Phan Thiết Múa rối nước 2.3.2. Tìm hiểu kĩ từng yêu cầu của sách giáo viên về phương tiện, đồ dùng dạy học: Đây chính là một trong những cơ sở để giáo viên lựa chọn đồ dùng trực quan nhằm đảm bảo tính chính xác, phù hợp với yêu cầu bài giảng, đảm bảo tính khoa học của bộ môn. Ví dụ 1: Khi dạy bài 16 “Quyền tham gia quản lí Nhà nước và xã hội của công dân” (GDCD 9) SGV đã chỉ dẫn cho người giáo viên những đồ dùng trực quan cần minh hoạ cho bài giảng là: - Luật khiếu nại, tố cáo. - Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. - Luật bầu cử đại biểu HĐND. - Sơ đồ nội dung bài học Từ đó giáo viên có thể chuẩn bị thêm hình ảnh, băng hình, mẫu chuyện có liên quan đến bài học để nội dung bài giảng sinh động hơn. 18 Ví dụ 2: Khi dạy bài 15 “Phòng ngừa tai nạn, vũ khí, cháy nổ và các chất độc hại” (GDCD 8) Sách giáo viên đã ghi rõ ở mục tài liệu và phương tiện để giáo viên chuẩn bị như sau: - Luật Hình sự năm 1999 - Luật phòng cháy và chữa cháy. - Các thông tin, sự kiện trên sách, báo về tai nạn, vũ khí, cháy nổ và các chất độc hại. Giáo viên có thể bổ sung thêm hình ảnh, băng hình, mẫu chuyện có liên quan đến bài học để tăng thêm tính thời sự của bài dạy. 2.3.3. Luôn theo dõi tình hình thực tế, thời sự, báo, đài, có phong cách sống chuẩn mực: Đây là kinh nghiệm rất bổ ích giúp người giáo viên có vốn kiến thức, hiểu biết sâu rộng mà để khai thác, sử dụng đồ dùng trực quan, làm cho việc sử dụng các phương tiện, đồ dùng này hay hơn, hấp dẫn hơn và đạt hiệu quả cao. Tìm đọc tài liệu tham khảo và tìm hiểu tình hình thực tế để giáo viên có thêm cơ sở lựa chọn các hình ảnh, phương tiện minh hoạ cho bài giảng điển hình nhất, mới nhất, sát hợp với thực tiễn và có tính giáo dục cao. Ví dụ 1: Khi dạy bài 18 “Sống có đạo đức và tuân theo pháp luật” (GDCD 9). Với bài này, yêu cầu giáo viên cần chuẩn bị một số bộ luật quan trọng: - Luật di sản văn hóa. - Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. - Luật Hôn nhân gia đình. - Một số Nghị quyết của Đảng về Giáo dục-đào tạo, Khoa học công nghệ, về văn hóa. - Ngoài ra giáo viên cần tìm hiểu những tấm gương về danh nhân đất nước, địa phương những tấm gương tiêu biểu được giới thiệu trên truyền hình “Người đương thời”; cần đọc và có hiểu biết về kiến thức chính trị xã hội. - Bản thân giáo viên phải là người sống có đạo đức, có lí tưởng, yêu trẻ, yêu nghề, mẫu mực trong cuộc sống, chấp hành tốt pháp luật, gia đình văn hóa, gắn bó với cộng đồng, nhà trường và nơi ở. 19 Ví dụ 2: Khi dạy bài 13: “ Phòng, chống tệ nạn xã hội” ( GDCD 8) giáo viên cần nghiên cứu và tìm hiểu những tài liệu sau: - Luật Phòng, chống ma tuý năm 2000. - Bộ luật hình sự Năm 1999. - Tranh ảnh, băng hình về tác hại của tệ nạn xã hội và hoạt động phòng chống tệ nạn xã hội. Để bài giảng của mình thêm hay, hấp dẫn, lôi cuốn học sinh, để có những số liệu thống kê, tranh ảnh minh hoạ cho bài giảng tôi đã tìm hiểu tình hình thực tế ở địa phương, tìm đọc báo chí, đọc và tìm hiểu những qui định của pháp luật về phòng ngừa tệ nạn xã hội, tìm đọc các tư liệu trên mạng Internet…Qua đọc những tài liệu đó, tôi đã có những số liệu cụ thể nhất, sống động nhất để minh hoạ cho bài giảng. Thông qua những số liệu, hình ảnh đó học sinh trực tiếp hiểu rõ tính chất nguy hiểm của tệ nạn xã hội, từ đó các em cũng thấy rõ các biện pháp phòng chống của nhà nước và địa phương, liên hệ được trách nhiệm của bản thân. 2.4. Chọn đồ dùng dạy học phù hợp để sử dụng cho từng hoạt động khác nhau : Cùng với việc lựa chọn, tìm hiểu các phương tiện, đồ dùng trực quan người giáo viên cần tìm ra cách thức sử dụng đồ dùng trực quan cho phù hợp và đem lại hiệu quả cao.Vì sử dụng tuỳ tiện, không đúng mục đích sẽ không đem lại kết quả mà còn ảnh hưởng không tốt đến chất lượng, hiệu quả dạy và học. Tùy từng đặc điểm của hoạt động mà giáo viên có lựa chon đồ dùng, phương tiện cho phù hợp. 2.4.1. Hoạt động giới thiệu bài : Đối với hoạt động này, nếu chỉ đàm thoại hay thuyết trình thì hiệu quả sẽ không cao, không lôi cuống được học sinh. Thông thường đối với hoạt động này chỉ cần một hoạt cảnh sắm vai tình huống nhỏ, một đoạn Video Clip phóng sự, sẽ giúp cho giáo viên có lối vào bài hiệu quả, lớp học sinh động. Ví dụ 1 : Khi dạy bài 15 “Phòng ngừa tai nạn, vũ khí, cháy nổ và các chất độc hại” (GDCD 8) giáo viên có thể cho học sinh xem 1 đoạn phim ngắn về tai nạn do cháy, nổ gây nên. GV : Đoạn phim tư liệu trên đề cấp đến vấn đề gì ? 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan