Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn sử dụng câu hỏi nâng cao hiệu quả trong giảng dạy sinh học thpt...

Tài liệu Skkn sử dụng câu hỏi nâng cao hiệu quả trong giảng dạy sinh học thpt

.DOC
33
97
132

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: "SỬ DỤNG CÂU HỎI NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG GIẢNG DẠY SINH HỌC THPT " 1 I. ĐẶT VẤN ĐỀ I.1. Lí do chọn sáng kiến Trong dạy học câu hỏi có những vai trò rất quan trọng: + Dùng câu hỏi để “mã hoá” nội dung sách giáo khoa. + Kích thích định hướng nhận thức tri thức mới, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập của học sinh. + Giúp học sinh tự lĩnh hội kiến thức một cách có hệ thống. Như vậy có thể dùng câu hỏi để tổ chức học tập cho học sinh giúp học sinh tự chiếm lĩnh tri thức mới, rèn luyện các thao tác tư duy tích cực sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp học tập để học sinh tự học. Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, đối tượng quan sát trong dạy học sinh học là các sơ đồ, hình vẽ, mẫu vật tự nhiên, các thí nghiệm…Giáo viên có thể sử dụng câu hỏi để hướng dẫn học sinh quan sát phương tiện trực quan để kích thích quan sát chú ý..., khơi dậy ở học sinh tính tò mò khoa học, phát hiện những băn khoăn, thắc mắc của học sinh, tạo tình huống có vấn đề. Trong thời đại kinh tế vốn tri thức của nhân loại ngày càng nhiều, không những thế còn luôn luôn đổi mới. Xu hướng chính của chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo là: Giáo dục định hướng vào học tập, hoạt động nhận thức của học sinh. Do vậy mà phải có phương pháp giáo dục, dạy học phù hợp, hiệu quả. Trong dạy học thì câu hỏi có vai trò rất quan trọng. Có câu hỏi tốt là cơ sở cho việc sử dụng các phương pháp dạy học khác có hiệu quả. Thực trạng của việc xây dựng câu hỏi 2 trong dạy học nói chung và trong dạy học sinh học nói riêng đã khẳng định cần phải rèn luyện kĩ năng xây dựng câu hỏi trong dạy học sinh học là một vấn đề cấp bách và cần thiết. Xuất phát từ mục đích đó, là giáo viên ai cũng trăn trở, làm sao phải tìm ra cho mình một phương pháp dạy học hữu hiệu nhất, phù hợp với đối tượng học sinh, gây được hứng thú cho học sinh, giúp học sinh có một kết quả cao trong học tập là một vấn đề khó. Với kinh nghiệm giảng dạy sách giáo khoa đổi mới, bản thân tôi nhận thấy để giờ dạy học sinh học có hiệu quả cao thì cần phải rèn luyện kĩ năng: “SỬ DỤNG CÂU HỎI ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG DẠY HỌC SINH HỌC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”. I.2. Mục đích nghiên cứu Bồi dưỡng kĩ năng xây dựng câu hỏi để giảng dạy sinh học ở trường trung học phổ thông nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập và đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. I.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu I.3.1. Đối tượng Câu hỏi để giảng dạy sinh học trung học phổ thông. I.3.2 Phạm vi nghiên cứu Sinh học trung học phổ thông. I.4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá cơ sở lí luận về xây dựng câu hỏi để giảng dạy sinh học nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh. - Sử dụng câu hỏi để giảng dạy sinh học trung học phổ thông. 3 I.5. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu các tài liệu liên quan để làm cơ sở lí thuyết cho chuyên đề. - Các tài liệu, công trình nghiên cứu về lí luận dạy học, phương pháp dạy học sinh học. - Các sách giáo khoa sinh học hiện hành và các tài liệu chuyên môn. Trao đổi với giáo viên, học sinh để tìm hiểu về thực trạng xây dựng và sử dụng câu hỏi trong dạy học sinh học. * Phương pháp: Thử nghiệm một vài bài ở trường dạy. - Chọn lớp thử nghiệm. - Bố trí thử nghiệm. - Bài giảng ở các lớp thử nghiệm được thiết kế theo hướng sử dụng câu hỏi đã xây dựng để giảng dạy. - Xử lí kết quả thực nghiệm. - Phân tích định lượng: Các bài kiểm tra thu được chấm theo thang điểm số 10. - Phân tích định tính: + Phân tích nội dung bài kiểm tra của học sinh để đánh giá chất lượng câu trả lời, mức độ hiểu sâu sắc kiến thức, từ đó đánh giá khả năng quan sát, chú ý, mức độ tích cực trong giờ học. + Quan sát sư phạm để tìm hiểu hứng thú học tập của học sinh. II. GIẢI QUYẾT VẦN ĐỀ II.1. Cơ sở II.1.1. Cở sở lí luận Hỏi là nêu ra điều mình muốn người khác trả lời để mình biết về vấn đề nào đó. 4 Câu hỏi: Aristotle là người đầu tiên đã phân tích câu hỏi dưới góc độ lôgic, ông cho rằng: “Câu hỏi là một mệnh đề trong đó chứa đựng cả cái đã biết và cái chưa biết”. Câu hỏi đó là những bài làm mà khi hoàn thành chúng, học sinh phải tiến hành hoạt động tái hiện, bất luận là trả lời miệng, trả lời viết hoặc có kèm theo thực hành hoặc xác minh bằng thực nghiệm. Khái niệm câu hỏi cũng còn được diễn đạt dưới dạng khác như: câu hỏi là dạng cấu trúc ngôn ngữ, diễn đạt một yêu cầu, một đòi hỏi, một mệnh lệnh cần được giải quyết. Câu hỏi thuộc phạm trù khả năng; nó chứa đựng cả hai yếu tố, sự có mặt của cái không rõ và nguyện vọng nhu cầu của người muốn hỏi. Tuy có những quan niệm khác nhau nhưng về dấu hiệu bản chất của câu hỏi, đều được các tác giả nêu ra, đó là: xuất hiện điều chưa rõ, cần được giải quyết từ điều đã biết. Trong đời sống cũng như trong nghiên cứu khoa học, con người chỉ nêu ra thắc mắc, tranh luận khi đã biết nhưng chưa đầy đủ, cần biết thêm. Nếu khi không biết gì hoặc biết tất cả về sự vật nào đó, thì không có gì để hỏi về sự vật đó nữa. Sự tương quan giữa cái biết và cái chưa biết thúc đẩy việc mở rộng hiểu biết của con người. Ví dụ: Khi nêu “Tổ chức của hệ thống sống” chưa phải là câu hỏi, vì chưa thể hiện điều muốn người khác trả lời là gì, chưa dựa vào cơ sở nào để trả lời. Nêu như trên là chưa chỉ rõ nhiệm vụ cần giải quyết và chưa rõ điều cần giải quyết đó là dựa vào những kiến thức nào. Để thành câu hỏi, có thể diễn đạt vấn đề trên như sau: Hệ thống sống được tổ chức theo các cấp độ thế nào để mỗi cấp độ tự nó tồn tại và phát triển được ? Điều đã biết ở đây là tồn tại, phát triển và tồn tại phát triển là đặc điểm cơ bản của mỗi cấp độ tổ chức của hệ thống sống. Điều cần tìm là sinh giới từ đơn bào đến đa bào, từ bậc 5 thấp đến bậc cao, từ mỗi cá thể đến tất cả sinh vật bao quanh vỏ Trái Đất, trong lòng đất, được tổ chức theo từng cấp độ như thế nào. II.1.2. Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng câu hỏi Dạy học và sự phát triển gắn bó chặt chẽ với nhau. Dạy học không chỉ nhằm cung cấp cho học sinh một số lượng tri thức do nội dung chương trình và sách giáo khoa đã qui định, mà phải tổ chức cho học sinh lĩnh hội tri thức một cách tích cực, chủ động, độc lập để phát triển tư duy khoa học, rèn luyện được trí thông minh, óc sáng tạo, suy nghĩ linh hoạt. Đó là những phẩm chất trí tuệ của con gnười lao động mới theo đúng mục tiêu đào tạo của nhà trường, của cấp học khi mà đại bộ phận học sinh tốt nghiệp bậc học này có thể ra đời tham gia lao động. Giáo dục đạo đức tình cảm, thái độ hành vi trong ứng xử thân thiện với con người, với lao động là thể hiện sự “dạy người thông qua dạy chữ”. Thông qua dạy học bộ môn mà góp phần xây dựng nhân cách con người lao động mới, xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cùng các phẩm chất về tinh thần ý chí cho học sinh trong hiện tại và ý chí vượt khó để hoàn thành mọi nhiệm vụ trong lao động, nghiên cứu sau này. Qua việc hình thành những kiến thức và kĩ năng trên sẽ hình thành và phát triển niềm tin của học sinh vào tri thức khoa học trong việc nhận thức bản chất và tính qui luật của các hiện tượng sinh học. Từ đó có ý thức vận dụng các tri thức, kĩ năng đã học được vào thực tiễn cuộc sống, lao động và học tập. Hình thành được ý thức tự giác và thói quen bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ sức khỏe của bản thân và những người xung quanh. Thực trạng về việc xây dựng và sử dụng câu hỏi để giảng dạy sinh học: Không sử dụng các câu hỏi dẫn dắt để hướng dẫn học sinh từ quan sát các dấu hiệu bên ngoài của phương 6 tiện trực quan đến việc rút ra nhận xét, kết luận về bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình…Do đó mà chưa hình thành được ở học sinh năng lực quan sát. II.2. Giải quyết vấn đề II.2.1. Thành phần câu hỏi Như phần khái niệm về câu hỏi ta thấy: Câu hỏi chứa đựng điều đã biết và điều cần tìm. Trong câu hỏi, điều đã cho và điều cần tìm luôn luôn phải quan hệ chặt chẽ với nhau, cho đến đâu sẽ tìm được đến đó hay nói cách khác, điều cần tìm chỉ có thể thực hiện được khi dựa vào điều đã cho và phải cho đầy đủ. Điều đã cho là rộng và khái quát thì điều tìm được cũng khái quát; điều cần tìm càng cụ thể, chi tiết thì điều tìm được cũng cụ thể, chi tiết. Ví dụ: Nếu hỏi: Nhìn vào hình 1 (Sách giáo khoa Sinh học 10 Cơ bản) em có nhận xét gì ? Học sinh sẽ trả lời rất rộng, thuộc nhiều lĩnh vực như hình có rõ, đẹp, nội dung mỗi hình là gì. Điều kiện cho ở đây là hình 1, tuỳ mức độ hiểu của người trả lời. Nhưng nếu hỏi: Quan sát hình 1, em thấy sự sống có cấu trúc theo các cấp độ như thế nào? Học sinh chỉ trả lời về các cấp độ tổ chức sống (trả lời các lĩnh vực khác là sai). Điều kiện cho là hình 1, về các cấp tổ chức sống từ thấp (phân tử) đến cao (sinh quyển). Nếu hỏi: Quan sát hình 1, em thấy vật không sống khác sinh vật ở điểm nào ? Trong câu hỏi này điều đã cho và điều cần tìm không phù hợp với nhau, nên không trả lời được. Cũng cùng hình 1 đã nêu, nhưng muốn hỏi được nhiều vấn đề và mỗi vấn đề thuộc những khía cạnh khác nhau, người ta dùng cách diễn đạt khác bằng cách cho biết nhiều điều kiện, hỏi nhiều vấn đề, diễn đạt nhiều mệnh đề khác nhau. Chẳng hạn như: đọc mục I, nghiên cứu hình 1 và cho biết: – Sự sống được cấu tạo theo các cấp độ từ thấp đến cao như thế nào? 7 – Cấp độ tổ chức vật chất sống, khác cấp độ tổ chức hệ thống sống như thế nào? – Cấp độ tổ chức biểu hiện ở hình 2, giống cấp độ tổ chức biểu hiện ở hình 6 như thế nào? – Dựa vào cơ sở nào xếp tế bào trong cơ thể đa bào và mô vào cấp độ tổ chức của hệ thống sống? Trong bài tập vừa nêu, điều kiện cho bao gồm: các loại cấp độ tổ chức của sự sống, các cấp độ tổ chức sống của từng loại và đặc điểm của mỗi cấp độ tổ chức, các ví dụ minh hoạ cho mỗi cấp độ (thể hiện trong thông tin bằng đoạn văn viết và hình vẽ). Từ những điều đã cho đủ để tìm được bốn vấn đề cần tìm, được thể hiện ở 4 vế hỏi. II.2.2. Cấu trúc câu hỏi Sinh học Mỗi câu hỏi đều có 2 thành phần tạo nên, có quan hệ với nhau, nhưng về mặt cấu trúc ta cần xem thành phần nào nêu trước, thành phần nào nêu sau. Thực tiễn cho thấy, trình tự này không đòi hỏi nghiêm ngặt, vì rằng, câu hỏi cũng phản ánh hiện thực khách quan nhưng về hình thức thể hiện của câu hỏi, bài tập lại thông qua cấu trúc lôgic của tư duy con người, nghĩa là theo lôgic nhận thức. Mà lôgic nhận thức không phải lúc nào cũng tuân thủ lôgic vận động của sự vật trong thực tại khách quan. Trong thực tại, bao giờ nguyên nhân cũng xuất hiện trước, từ đó mới xuất hiện kết quả. Nhưng trong nhận thức, lại có thể dựa vào kết quả mới tìm được nguyên nhân. Do vậy, tuỳ tác giả diễn đạt mà trong câu hỏi có thể nêu điều đã biết, sau đó mới nêu điều cần tìm, hoặc có thể nêu điều cần tìm trước và kèm theo điều kiện đã cho. Ví dụ bài tập: Dựa vào đặc điểm cấu trúc của ADN, hãy giải thích sự phong phú, đa dạng của sinh vật. 8 Hoặc: Hãy giải thích sự phong phú, đa dạng của sinh vật bằng đặc điểm cấu trúc của ADN. Câu hỏi: Dựa vào đặc điểm cấu trúc của ADN, ta có thể giải thích sự phong phú, đa dạng của sinh vật như thế nào? Hoặc: Có thể giải thích sự phong phú, đa dạng của sinh vật như thế nào bằng đặc điểm cấu trúc của ADN? Câu hỏi vô cùng đa dạng, mà trong dạy học thì câu hỏi được sử dụng trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, trong dạy học không phải trong chủ đề nào của nội dung dạy và học đều có sẵn các câu hỏi phù hợp với mọi đối tượng. Vì vậy nhiều trường hợp giáo viên phải tự xây dựng câu hỏi để hướng dẫn người học nghiên cứu, phát hiện kiến thức. Khi lựa chọn và xây dựng câu hỏi để tổ chức hoạt động học tập, giáo viên phải nắm vững cần có những câu hỏi thuộc loại nào để đạt được mục tiêu dạy học. Câu hỏi chỉ phát huy được tác dụng dạy học khi sử dụng loại câu hỏi phù hợp với mục tiêu dạy học. II.2.3. Sử dụng câu hỏi trong dạy học sinh học ở trường phổ thông. Trong dạy học, câu hỏi luôn được sử dụng và được sử dụng trong các khâu khác nhau nhằm đạt được những mục tiêu khác nhau. Trong phạm vi của chuyên đề này, chúng ta chỉ nghiên cứu sâu vào việc sử dụng câu hỏi, bài tập để tổ chức hoạt động nhằm khám phá kiến thức mới hình thành kĩ năng mới, qua đó phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động và hình thành nhân cách. II.2.3.1. Sử dụng câu hỏi để tạo tình huống học tập Con người hoạt động khi có nhu cầu, nhu cầu có được khi đứng trước một nhiệm vụ cần được giải quyết. Do đó giáo viên cần xác định rõ nhiệm vụ nhận thức và diễn đạt nhiệm vụ nhận thức đó bằng câu hỏi. Khi đó câu hỏi là phương tiện để tạo tình huống học tập. 9 Ta có thể sử dụng câu hỏi để tạo các tình huống trong dạy học Sinh học nói chung, Sinh học 11 nói riêng như sau: Giáo viên có thể đưa ra tình huống: Tại sao cây non khi bị chiếu sáng từ một phía sẽ phát triển thân theo hướng cong về phía ánh sáng? Học sinh chắc sẽ nhanh chóng trả lời đó là vì cây có tính hướng quang. Tuy nhiên, nếu hỏi cơ chế nào dẫn đến cây sẽ bị cong đi như vậy thì học sinh không dễ gì giải thích được. Việc đưa ra những tình huống mang tính thách đố như vậy sẽ kích thích học tập và thi đua nhau tìm câu trả lời. Những em trả lời được sẽ rất tự hào và nhớ kiến thức lâu và chắc, còn những em chưa trả lời được sẽ gắng học hơn. Ví dụ khác: Khi dạy bài 22 “Enzim và vai trò của enzim trong quá trình chuyển hoá vật chất”, ta có thể nêu vấn đề học tập của bài này như sau: Qua bài 8 ta đã biết: tinh bột và xenlulozơ đều được liên kết từ nhiều phân tử đường glucozơ, chỉ khác nhau về cách liên kết, nhưng khi người ăn xenlulozơ vào cơ thể không tiêu hoá được, mà tinh bột lại được tiêu hoá. Vì sao lại có hiện tượng như vậy? II.2.3.2. Sử dụng câu hỏi để hình thành kiến thức, kĩ năng mới  Sử dụng câu hỏi để định hướng vấn đề học tập Nhiều khi nghiên cứu một vấn đề có chứa đựng nhiều nội dung, người học không dễ gì xác định được vấn đề nào là cơ bản, đặc điểm nào là bản chất. Do vậy giáo viên cần định hướng cho người học bằng câu hỏi. Ví dụ: Khi dạy bài 9 “Quang hợp ở các nhóm thực vật” Sinh học 11 Cơ bản, sau khi ghi đầu bài lên bảng ta có thể định hướng vấn đề học tập như sau: Quang hợp ở cây xanh diễn ra như thế nào ở các nhóm thực vật khác nhau và sống trong môi trường khác nhau thì quá trình quang hợp có đặc điểm gì riêng biệt? 10 Câu hỏi định hướng vấn đề học tập khác với câu hỏi tạo tình huống học tập ở chỗ: chỉ cần chỉ ra những vấn đề học tập mà không cần chỉ ra mâu thuẫn thế nào dẫn đến cần giải quyết.  Sử dụng câu hỏi để gợi ý, để giới hạn vấn đề cần trả lời Khi một câu hỏi lớn đặt ra, gồm nhiều khía cạnh khác nhau, ta có thể nêu câu hỏi để gợi ra từng vấn đề nhỏ và nội dung từng vấn đề, sau một loạt câu hỏi gợi ý, dẫn người học giải quyết được vấn đề lớn. Ví dụ khi dạy mục “Cấu trúc của prôtêin” bài 9, sau một câu hỏi lớn là: Prôtêin có cấu trúc như thế nào, ta sẽ lần lượt nêu các câu hỏi gợi ý: – Đơn phân của prôtêin (axit amin) có cấu tạo như thế nào? – Các đơn phân liên kết với nhau như thế nào? – Chuỗi các axit amin sẽ tiếp tục biến đổi thế nào để tạo được cấu trúc bậc 2, bậc 3, bậc 4? – Cấu trúc không gian ba chiều của prôtêin có vai trò như thế nào?  Sử dụng câu hỏi để hướng dẫn quan sát Khi quan sát hình vẽ có nhiều chi tiết hoặc quan sát thiên nhiên có nhiều hiện tượng đồng thời xảy ra, nhưng cần nghiên cứu một hiện tượng trong đó, giáo viên phải rèn luyện cho học sinh có kĩ năng quan sát và nhận biết, ta thường dùng câu hỏi để hướng dẫn.  Sử dụng câu hỏi để phát triển kĩ năng tư duy Trong tổ chức hoạt động học tập, ngoài việc hướng tới mục tiêu tri thức, đồng thời phải hướng tới mục tiêu quan trọng nữa là phát triển tư duy. Trong các kĩ năng tư duy, trước hết phải sử dụng câu hỏi để phát triển kĩ năng so sánh, phân tích, tổng hợp 11 Sử dụng câu hỏi để tự kiểm tra và kiểm tra kết quả học tập  Để học sinh hoạt động tích cực, tự lực trong học tập, khâu kiểm tra và tự kiểm tra sẽ góp phần định hướng cho hoạt động dạy và hoạt động học. Do vậy cần xác định mục tiêu dạy học cụ thể, để từ mục tiêu cụ thể mà sử dụng câu hỏi phù hợp để học sinh tự kiểm tra và tự điều chỉnh cách học nhằm nắm vững kiến thức, kĩ năng và phát triển năng lực nhận thức. Để giúp học sinh tự kiểm tra tốt nhất là sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan, dạng nhiều lựa chọn. Để học sinh tự kiểm tra kiến thức bài 4 (Sinh học 10 Cơ bản), ta có thể sử dụng bài tập sau: Hãy ghép số thứ tự các câu đánh số từ I đến IV với các câu đánh số từ 1 đến 10 cho phù hợp: I. Đường đơn 1. Saccarozơ II. Đường đa 2. Glicôgen III. Lipit 3. Kitin IV. Đường đôi 4. Xenlulozơ 5. Lactozơ 6. Galactozơ 7. Glucozơ 8. Photpholipit 9. Stêrôit 10. Dầu II.2.4. Kĩ thuật thiết kế câu hỏi 12 Để thiết kế được câu hỏi đảm bảo các yêu cầu sư phạm, để sử dụng trong quá trình dạy học cần thực hiện theo trình tự sau: – Thứ nhất, phải xác định rõ và đúng của việc hỏi. Mục tiêu hỏi được hiểu là mục tiêu của việc hỏi, nghĩa là muốn người học phải trả lời ở mức độ nào về kiến thức, tư duy, kĩ năng. Như vậy, giáo viên phải nắm vững mục tiêu bài dạy, nội dung bài dạy, biện pháp tổ chức thực hiện bài dạy và năng lực của học sinh. – Thứ hai: liệt kê và sắp xếp những cái cần hỏi theo một trình tự phù hợp với trình độ các hoạt động học tập. – Thứ ba: diễn đạt cái cần hỏi bằng các câu hỏi. Mỗi câu hỏi cần diễn đạt rõ điều đã biết và điều cần tìm. Điều đã biết và điều cần tìm có quan hệ với nhau; điều đã biết là cơ sở để suy ra điều cần tìm, hay điều cần tìm là hệ quả của điều đã biết. Điều đã biết thường là những thông tin được nêu trong sách giáo khoa hay những kiến thức vừa thu nhận trước đó; điều đã biết có thể được thể hiện qua kênh chữ hay kênh hình. Điều cần tìm thường là mối quan hệ giữa các hiện tượng, hay đặc điểm bản chất, hay xác định giá trị hay kĩ năng ứng dụng, hay phương pháp luận, hay nguyên nhân giải thích. – Thứ tư: Thử xác định những nội dung cần trả lời, tìm nội dung trả lời để xác định câu hỏi này có tìm được đáp số hay không, đáp số này có phù hợp với trình độ hay không. Qua việc tìm ý trả lời mà xác định việc diễn đạt câu hỏi đã phù hợp hay chưa, nếu chưa phù hợp cần sửa lại thế nào. – Thứ năm: Chỉnh sửa lại nội dung và hình thức diễn đạt câu hỏi để đưa vào sử dụng. Ví dụ minh hoạ: 13 Khi thiết kế câu hỏi, bài tập để dạy mục I.2: “Pha tối” trang 41 (SGK Sinh học 11 Cơ bản) ta tiến hành như sau: 1) Mục tiêu của việc xây dựng câu hỏi là: + Hiểu được đặc điểm của pha tối là pha khử CO2 ở thực vật C3. + Hình thành năng lực thu thập xử lí thông tin từ SGK – một năng lực tự học cần được hình thành qua việc dạy học sinh trả lời câu hỏi. 2) Liệt kê những điều cần hỏi và những điều đã biết. + Điều đã biết: Chu trình Canvin, đặc điểm các giai đoạn của chu trình. + Điều cần hỏi:  Hợp chất tham gia đồng hoá CO2.  Sản phẩm đầu tiên khi khử CO2.  Các giai đoạn của pha tối.  Giải thích tên gọi của chu trình  Ý nghĩa của chu trình. 3) Diễn đạt điều cần hỏi bằng câu hỏi: Quan sát hình 9.2, SGK trang 41 và cho biết: + Hợp chất tham gia đồng hoá CO2 là chất nào? + Sản phẩm đầu tiên khi khử CO2 là gì? Có bao nhiêu cacbon trong phân tử? + Pha tối có những giai đoạn nào? Nêu đặc điểm của mỗi giai đoạn. + Tại sao lại có tên là thực vật C3? Chu trình C3 có ý nghĩa gì? 14 4) Xác định các nội dung cần trả lời cho từng câu hỏi: + Hợp chất tham gia đồng hoá CO2 là ribulôzơ -1,5-diphotphat. + Hợp chất ribulôzơ -1,5-diphotphat (có 5C) kết hợp với CO2 tạo 2 phân tử APG có 3C. + Chu trình Canvin có 3 giai đoạn:  Cố định CO2 tạo APG.  Khử APG thành AlPG. Cuối giai đoạn có phân tử AlPG tách khỏi chu trình tạo glucôzơ.  Tái sinh chất nhận ban đầu là ribulôzơ -1,5-diphotphat. + Sản phẩm ổn định đầu tiên của chu trình C 3 là một hợp chất có 3 cacbon (do đó chu trình này có tên là chu trình C3). Nhóm thực vật cố định CO2 theo con đường C3 (chu trình Canvin) gọi là thực vật C3. + Ý nghĩa của chu trình C3: - Chu trình C3 là chu trình quang hợp cơ bản nhất của thế giới thực vật, xảy ra trong tất cả thực vật. - Chu trình C3 tạo nên nhiều sản phẩm sơ cấp đó là hợp chất C 3, C5, C6… là nguyên liệu để tổng hợp nên các sản phẩm quan trọng như đường, tinh bột, protein, lipit. 5) Chỉnh sửa lại câu hỏi và ý trả lời: Xem lại câu hỏi và câu trả lời, chỉnh sửa lại nội dung cách diễn đạt cho phù hợp mục tiêu (nếu cần). II.2.5. Nguyên tắc xây dựng câu hỏi 1) Đảm bảo nội dung khoa học, cơ bản, chính xác của kiến thức. 15 2) Phát huy được tính tích cực trong học tập của học sinh. 3) Phản ánh được tính hệ thống. 4) Phù hợp với trình độ đối tượng học sinh. Tóm lại việc xây dựng các câu hỏi phải dựa trên các nguyên tắc trên. Tuy nhiên không phải câu hỏi nào được xây dựng cũng phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc trên mà tuỳ thuộc vào nội dung kiến thức của từng bài học. 5. Yêu cầu sư phạm của câu hỏi Sinh học – Câu hỏi phải là công cụ, phương tiện trong dạy học. Câu hỏi phải là phương tiện để hướng dẫn phương pháp học, hướng dẫn nội dung học, cũng như nội dung kiểm tra và tự kiểm tra kết quả học tập. – Câu hỏi phải mã hoá được lượng thông tin quan trọng đã trình bày dưới dạng thông báo, phổ biến kiến thức thành dạng nêu ra vấn đề học tập. Ví dụ: Khi học mục I, bài 5, Sinh học 10, Nâng cao, ta có thể mã hoá nội dung thông báo trong mục I, bằng bài tập sau: Qua nghiên cứu, người ta đã xác định được động vật có những đặc điểm trái ngược với thực vật như ở bảng sau: Đặc điểm Thực vật Thành tế bào Thành Động vật xenlulozơ Kiểu dinh dưỡng Tự dưỡng Khả năng cảm ứng Chậm Khả năng di chuyển Không Hãy xác định và điền các đặc điểm của động vật vào các ô trống ở bảng trên. 16 – Câu hỏi, bài tập cần được diễn đạt gọn, súc tích, rõ ràng, chứa đựng được hướng trả lời. Ví dụ: Từ hình 2.1 và 2.2, em thấy việc phân chia sinh giới có điểm nào giống nhau? Những điểm nào khác nhau? Trong câu hỏi này chứa đựng điều đã biết là các thông tin chứa trong hình 2.1, 2.2 số từ ít nên câu ngắn, nhưng rõ ý muốn hỏi, đó là những điểm nào khác nhau và những điểm giống nhau. Hướng trả lời là sự khác nhau, giống nhau thể hiện ở hình 2.1, 2.2. Nếu hỏi: Hệ thống 5 giới sinh vật và hệ thống 3 nhánh sinh vật có những điểm nào giống, khác nhau? Tuy câu gọn, rõ ý muốn hỏi, nhưng định hướng trả lời chưa rõ về mức độ, nghĩa là chưa rõ yêu cầu nêu chi tiết đến mức nào. Do đó câu hỏi càng nêu rõ căn cứ để trả lời và yêu cầu mức độ cần trả lời được thì người trả lời có cơ hội tìm được câu giải đáp tốt. – Câu hỏi phải diễn đạt được điều cần hỏi. Trong một mục hay một bài thường chứa đựng nhiều nội dung, người xây dựng hay sử dụng câu hỏi cần phân tích thật rõ ràng mục tiêu của nội dung dạy, xác định được câu hỏi dẫn dắt, câu hỏi rút ra kết luận, kết luận thế nào từ đó mới tìm cách diễn đạt ý muốn hỏi bằng câu hỏi. Ví dụ: dạy mục “I – Các cấp tổ chức sống” của bài 1, Sinh học 10, Cơ bản. Khi xây dựng câu hỏi để tổ chức hoạt động học tập, trước hết người dạy phải xác định được: Vấn đề cần hỏi ở đây là cái gì? Và hỏi câu hỏi đó để làm gì? Vấn đề cần hỏi ở mục I là: + Về mặt cấu trúc, sự sống được chia thành các mức độ như thế nào ? Câu hỏi này nhằm giúp học sinh rèn luyện năng lực xác định được nội dung quan trọng qua tự đọc sách, 17 đồng thời về tri thức là nhớ được các cấp độ tổ chức sống mà các nhà khoa học đã phân chia. + Câu hỏi quan trọng hơn là: Mỗi cấp độ tổ chức sống có đặc điểm đặc trưng như thế nào? Dựa vào cơ sở nào mà chia các cấp độ như vậy? Hiểu được các cấp tổ chức sống có giá trị gì? Ba câu hỏi sau mới là điều cơ bản, vì đó là nội dung cốt lõi, nội dung bản chất, nếu liệt kê được đủ các cấp độ tổ chức sống mới là nêu được dấu hiệu bề ngoài. Trả lời được 3 câu hỏi sau mới là hiểu bản chất, phát triển tư duy. Phân tích như trên ta sẽ xác định được 4 câu hỏi có yêu cầu từ thấp đến cao: Câu 1: Cấu trúc của sự sống được chia thành các cấp độ nào? Đây là câu hỏi dẫn dắt. Câu 2: Mỗi cấp độ tổ chức sống có đặc điểm đặc trưng như thế nào? Đây là câu hỏi khai thác dấu hiệu bản chất. Câu 3: Dựa vào cơ sở nào phân chia cấp độ tổ chức sống như vậy? Cũng là câu hỏi khai thác dấu hiệu bản chất. Câu 4: Hiểu được các cấp độ tổ chức sống có giá trị gì? Đây là câu hỏi nhằm rèn luyện cho học sinh năng lực nhận xét, đánh giá kiến thức. Bốn câu hỏi nêu trên là những câu hỏi hướng vào cái cần hỏi. Nếu đặt câu hỏi loại như: Phân tử vô cơ là gì? Tế bào là thế nào?... thì đó là những câu hỏi chưa hướng vào vấn đề cần hỏi của mục I, ở bài 1. – Câu hỏi có tác dụng kích thích tư duy Câu hỏi nêu ra phải có cấu trúc thế nào để học sinh trả lời cần có sự lựa chọn hoặc phân tích, hoặc tổng hợp, hoặc so sánh những thông tin đã có trong tài liệu đang nghiên cứu để trả lời. Không nên nêu câu hỏi mà học sinh trả lời một cách ngẫu nhiên như có hay không, 18 đúng hay sai. Chẳng hạn như: Vật chất sống có được chia thành các cấp độ tổ chức khác nhau không? Trong trường hợp câu hỏi mà yêu cầu trả lời cần nêu có hoặc không, đây mới là sự dẫn dắt, chưa phải nội dung cần khám phá, do đó tiếp sau phải có vế thứ hai là: Tại sao? Trả lời vế này mới đi vào bản chất và mới là cái cần hỏi. II.2.6. Sơ đồ quy trình bồi dưỡng kĩ năng xây dựng câu hỏi Bước 1: Bồi dưỡng cho giáo viên cơ sở lí luận về bản chất và nguyên tắc xây dựng câu hỏi Bước 2: Phân tích nội dung tài liệu giáo khoa Bước 3: Xác định mục tiêu bài dạy Bước 4: Tìm các khả năng có thể đặt câu hỏi 19 Bước 5: Xác định các tài liệu phụ trợ cho sách giáo khoa Bước 6: Diễn đạt các khả năng đó thành câu hỏi Bước 7: Sắp xếp các câu hỏi thành hệ thống logic Bước 8: Xây dựng câu hỏi để soạn bài dạy Bước 9: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất