I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, đất nước ta không
ngừng hoàn thiện, đổi mới và phát triển về mọi mặt. Trong xu thế đó, Đảng ta
luôn khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và xem việc đổi mới, nâng
cao chất lượng trong giáo dục là yếu tố sống còn trong việc đào tạo, bồi dưỡng
những con người giàu tri thức, năng động, sáng tạo đảm nhận vai trò quan trọng
quyết định đến sự phát triển của đất nước trong tương lai.
Việc nâng cao chất lượng giáo dục phải được thực hiện gắn liền với việc
đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình, đổi mới về phương pháp, phương tiện
và hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá kiến thức, kỹ năng.
“ Phương pháp là sự vận động của nội dung”, nên cùng với sự phát triển
của nội dung, phương pháp dạy học cũng đang được đổi mới theo hướng hiện
đại hóa. Luật giáo dục điều 28.2 nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh (HS); phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. Việc đổi
mới phương pháp dạy học (PPDH) đòi hỏi phải tìm kiếm các PPDH mới và cải
tạo các phương pháp cổ truyền cho phù hợp với nội dung hiện đại, theo hướng
nâng cao tính tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực nội sinh của người
học, đổi mới cách điều khiển quá trình dạy học và đưa công nghệ hiện đại vào
nhà trường.
Những năm gần đây, qua quá trình giao lưu học hỏi, nghiên cứu và tiếp
thu những thành tựu giáo dục ở các nước phát triển, chúng ta đã ghi nhận và
thực hiện thành công nhiều phương pháp dạy học tích cực, hiện đại, mang lại
hiệu quả cao trong quá trình dạy học và quan trọng là phù hợp với tình hình giáo
dục Việt Nam hiện nay. Trong những phương pháp dạy học hiện đại đó không
thể không kể đến PBL (Project Based Learning: dạy học theo dự án).
PBL là một trong những PPDH hiện đại, chiếm một vị thế đáng kể trong
các lớp học, đang phát triển chính thức thành một chiến lược dạy học ở những
nước phát triển. So với các PPDH khác PBL vượt xa hơn trong việc tạo hứng
thú, tăng tính chuyên cần, nâng cao tính tự lực và thái độ học tập của HS. PBL
giúp HS có cơ hội phát triển những kỹ năng phức hợp như tư duy bậc cao, giải
quyết vấn đề, hợp tác và giao tiếp. Với PBL, HS có cơ hội thâm nhập vào những
1
vấn đề lôi cuốn, phức tạp mang tính thách thức cao nhưng sát với thực tế đời
sống. Tóm lại PBL góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho HS- một vấn đề mà
toàn xã hội đang quan tâm.
Là một môn học quan trọng trong chương trình giáo dục THPT,Vật lý có
vai trò to lớn trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của giáo dục phổ thông. Việc
lựa chọn và vận dụng sáng tạo các PPDH tích cực theo hướng đổi mới vào quá
trình dạy học môn Vật lý sẽ góp phẩn rèn luyện cho HS tư duy logic và tư duy
biện chứng, hình thành ở họ niềm tin về bản chất khoa học của các hiện tượng
tự nhiên, cũng như khả năng nhận thức của con người, khả năng vận dụng khoa
học để đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống cũng như các yếu tố tích cực khác.
Với những lý do nêu trên tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Rèn luyện kỹ
năng sống cho HS thông qua dạy học theo tinh thần dạy học dự án môn Vật
lý ở trường THPT”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Lồng ghép phương pháp dạy học theo tinh thần dạy học dự án vào bộ môn
Vật lý nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh THPT.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của vấn đề
2
1.1. Khái niệm chung về dạy học dự án(PBL)
1.1.1. Lịch sử khái niệm
Thuật ngữ dự án, tiếng Anh là “Project” theo gốc la tinh là “Projicere”, có
nghĩa là phác thảo dự thảo hay thiết kế. Ngày nay khái niệm dự án được hiểu
theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo hay một kế hoạch, trong đó cần
xác định rõ mục tiêu, thời gian, phương tiện tài chính, vật chất, nhân lực và cần
được thực hiện nhằm đạt mục tiêu đề ra. Khái niệm dự án được sử dụng trong
hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội; trong sản xuất nông nghiệp, trong nghiên
cứu khoa học cũng như trong quản lý xã hội…
Khái niệm dự án đã đi từ lĩnh vực kinh tế, xã hội vào lĩnh vực giáo dục,
đào tạo không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục mà còn được sử
dụng như một phương pháp hay hình thức dạy học.
Đầu thế kỷ 20, các nhà sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lý luận cho
phương pháp dự án và coi đó là PPDH quan trọng để thực hiện quan điểm dạy
học lấy HS là trung tâm, khắc phục nhược điểm của dạy học truyền thống coi
GV là trung tâm. Ban đầu phương pháp dự án (PPDA) chỉ được vận dụng trong
việc dạy thực hành ở các môn học kỹ thuật trong các trường đại học và cao
đẳng, về sau PPDA được dung hầu hết các môn học, kể cả các môn khoa học xã
hội.
Sau một thời gian phần nào bị lãng quên, ngày nay phương pháp dạy học
dựa trên dự án lại được chú ý vận dụng nhiều ở các nước có nền giáo dục phát
triển như: Mỹ, Đức, Hà Lan…Ở nước ta dạy học dựa trên dự án đang được
nghiên cứu vận dụng trong dạy học Đại học, Cao đẳng, Chuyên nghiệp cũng
như các trường phổ thông.
1.1.2. Định nghĩa về dạy học dựa trên dự án
Cách học dựa trên dự án PBL là một hoạt động học tập dựa trên dự án
được thiết kế cẩn thận, mang tính lâu dài, liên quan đến nhiều lĩnh vực học thuật
lấy HS làm trung tâm, hòa nhập với những vấn đề thực tiễn của thế giới thực tại.
Trong PBL, giáo viên (GV) là người cung cấp thông tin nền và đưa ra những chỉ
dẫn, nhưng HS phải có trách nhiệm tìm ra phương hướng và cách giải quyết vấn
đề trong phạm vi những tiêu chí do GV đặt ra. Chính vì lẽ đó PBL còn được
nhìn nhận như là một hình thức dạy học, vì khi thực hiện một dự án có nhiều
PPDH cụ thể đươc sử dụng.
3
Từ nhiều cách đưa ra khái niệm của các nhà khoa học trên thế giới ta có
thể hiểu: “PBL là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một
nhiệm vụ học tập phức tạp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra
các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thưc hiện với tính
tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập từ việc xác định mục đích, lập kế
hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết
quả thực hiện. Kết quả là những sản phẩm có thể trình bày, giới thiệu”.
1.2.
Cấu trúc của PBL
PBL đặc trưng bởi một số hoạt động cơ bản sau:
-
Xác định mục tiêu dự án
Thiết kế ý tưởng dự án
Xây dựng bộ câu hỏi định hướng
Lập kế hoạch dự án
Làm việc theo nhóm
Đánh giá dự án.
1.3. Sự tương đồng giữa kỹ năng sống (KNS) và mục tiêu của DHDA
Các KNS cơ bản
Lĩnh vực
nhận thức
Lĩnh vực tình
cảm
Lĩnh vực tâm
vận động
Mục đích của DHDA
Tư duy phê phán
Phát triển năng lực đánh giá
Tư duy sáng tạo
Phát triển khả năng sáng tạo
Tự nhận thức
Kích thích động cơ và hứng thú học tập của
người học
Thấu cảm
Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc
Tự trọng
Phát huy tính tích cực, tự lực
Trách nhiệm xã
hội
Ra quyết định và
giải quyết vấ đề
Phát huy tính trách nhiệm
Rèn luyện năng lực phát, và giải quyết những
vấn đề phức hợp.
Phát triển năng lực lập kế hoạch và thực hiện
kế hoạch, khả năng vận dụng tri thức vào
kinh nghiệm.
Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành
động, Nhà trường và xã hội
4
Đương đầu với
cảm xúc và căng
thẳng
Quan hệ liên
nhân cách và
giao tiếp
Rèn luyện tính bền bỉ và kiên nhẫn
Phát triển năng lực giao tiếp và khả năng
trình bày
Có thể thấy, phần lớn các KNS phù hợp với mục tiêu của DHDA, số còn
lại tuy không giống nhau hoàn toàn nhưng cũng có sự tương đồng nhất định,
chẳng hạn:
Tự nhận thức là kĩ năng nhận biết và hiểu rõ bản thân mình (về
tiềm năng, tình cảm, mặt mạnh, mặt yếu…) DHDA sẽ kích thích động cơ, tạo
hứng thú học tập cho HS, giúp họ tích cực huy động nhiều tiềm năng của bản
thân như: Tư duy, thực hành, trình bày, giao tiếp... để giải quyết vấn đề học tập
mang tính phức tạp, qua đó khám phá các ưu điểm và hạn chế của bản thân.
Kỹ năng thấu cảm ( bày tỏ sự thông cảm bằng cách tự đặt mình vào
vị trí của người khác và có sự hỗ trợ cần thiết đối với người đó) được rèn luyện
qua hoạt động nhóm trong quá trình HS thực hiện dự án.
Việc rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn trong DHDA cũng là một
trong những phẩm chất tâm lý hỗ trợ tích cực cho con người đương đầu với thực
tế mà họ có thể trải nghiệm trong cuộc sống.
Khi lập kế hoạch và thực hiện dự án, HS cần đưa ra quyết định cho
những hành động cụ thể nhằm đạt đến mục tiêu dự án, vì thế mà kỹ năng ra
quyết định được hình thành và trải nghiệm
Để đưa ra các quyết định phù hợp trong quá trình thực hiện dự án,
HS phải phân tích một cách có phê phán cái đúng, cái hợp lí, cũng như cái sai,
cái không hợp lí của thông tin, của quan điểm....nhằm lựa chọn những thông tin,
quan điểm, cách giải quyết thích hợp nghĩa là tư duy phê phán được hình thành
và phát triển.
Như vậy tích hợp DHDA trong dạy học Vật lý có thể góp phần giáo
dục KNS cho HS.
2. Thực trạng của vấn đề
Ở Việt Nam giáo dục KNS đã được đưa vào các trường học, song còn
hạn chế chưa thể hiện rõ, cách tổ chức còn nặng nề về cung cấp thông tin, chưa
chú trọng thỏa đáng vào việc đặt người học vào những tình huống được trải
5
nghiệm, được lựa chọn và ra quyết định để hình thành và thay đổi hành vi mang
tính tích cực…
Trong chương trình THPT, Công nghệ và Giáo dục công dân là hai môn
có nhiều tiềm năng để tích hợp KNS. Tuy nhiên theo tôi với những đặc thù của
mình môn Vật lý cũng có thể góp phần rèn luyện KNS cho HS bằng cách vận
dụng dạy học dự án (DHDA)
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
3.1. Xác định mục tiêu dự án
Mỗi dự án học tập luôn hướng đến một mục tiêu cụ thể. Để xác định được
mục tiêu dự án, (GV) phải căn cứ vào chương trình học, sách giáo khoa, giáo
trình, các mục tiêu giáo dục của địa phương cùng với phương hướng hoạt động
của Nhà trường, của lớp học…Từ mục tiêu học tập định ra các tiêu chuẩn học
tập bao gồm tiêu chuẩn nội dung và tiêu chuẩn thực hành. Trên cơ sở đó GV có
thể xác lập mục tiêu dự án.
3.2.Thiết kế ý tưởng dự án
Một dự án có tính khả thi thường bắt nguồn từ một ý tưởng tốt. Các hoạt
động học tập trong PBL được thiết kế mang tính thiết thực, liên quan đến nhiều
lĩnh vực kiến thức, lấy người học làm trung tâm và gắn kiến thức nhà trường với
những vấn đề thực tiễn của thế giới thực tại. Vì vậy GV cần nhìn thấy những
vấn đề trong cuộc sống xung quanh, nhất là các vấn đề có tính thời đại.
Xuất phát từ nội dung bài học, GV đưa ra một chủ đề với những gợi ý hấp
dẫn, thực sự có thể lôi cuốn HS, kích thích HS hứng thú tham gia thực hiện
thông qua các hoạt động học tập như:
- Học thông qua việc phục vụ cộng đồng: Những dự án này thường gắn
liền với cộng đồng địa phương và HS có thể áp dụng bài học trong lớp học vào
tình huống thực tế. Ví dụ, tạo những vật dụng hay đồ chơi từ các vật liệu phế
thải cho các em nhỏ trong “Mái ấm tình thương”.
- Mô phỏng và đóng vai: Những dự án này được thiết kế nhằm cung cấp
cho HS một kinh nghiệm thực tế đầu tay. HS sẽ vào vai một người khác, sống
trong một tình huống mô phỏng tái tạo lại thời gian và không gian nhất định. Mô
phỏng và đóng vai là cách rất hữu hiệu để phản ánh lịch sử, mang lại nhiều hiệu
quả hay tạo được sự thấu cảm tốt. Ví dụ, để nâng cao ý thức về “An toàn giao
thông”, HS hóa thân vào một vở kịch hay xây dựng một video clip với nội dung
nói về hậu quả của một tai nạn giao thông.
6
- Xây dựng và thiết kế: Những dự án này dựa trên nhu cầu thực tế hay có
thể được tạo nên bởi chuỗi sự kiện đáng tin cậy. Các dự án này đòi hỏi HS phải
xây dựng được mô hình thực sự hay lập kế hoạch đề xuất giải pháp cho các vấn
đề thực tế. Ví dụ, chế tạo tên lửa nước.
- Hợp tác trực tuyến: Những dự án này là các nhiệm vụ giáo dục thực
hiện trực tuyến. Các dự án cung cấp kinh nghiệm học tập thực tế khi hợp tác
trực tuyến với các lớp khác, các chuyên gia hay cả cộng đồng.
- Tra cứu web: Đây là các hoạt động yêu cầu định hướng trong đó một số
hay tất cả các thông tin mà người học sử dụng được lấy từ nguồn Internet. Các
dự án này được thiết kế nhắm đến việc lĩnh hội và tích hợp kiến thức.
Dự án là một bài tập tình huống mà HS phải giải quyết bằng các kiến thức
theo nội dung bài học, đặt HS vào tình huống có vấn đề nhưng việc giải quyết
vấn đề đòi hỏi tính tự lực cao ở HS.
3.3. Xây dựng bộ câu hỏi định hướng (Bộ câu hỏi khung)
a. Thế nào là bộ câu hỏi định hướng?
Bộ câu hỏi định hướng là một hệ thống những câu hỏi do GV đưa ra nhằm
mục đích định hướng cho dạy học một nhóm kiến thức thuộc một số bài học.
b. Vai trò của bộ câu hỏi định hướng
Trong PBL không thể thiếu bộ câu hỏi định hướng, nó có vai trò rất quan
trọng, là một trong những yếu tố quyết định chất lượng lĩnh hội kiến thức của
HS. Thay cho việc thuyết trình, đọc, chép, nhồi nhét kiến thức, GV chuẩn bị bộ
câu hỏi này sao cho gây được sự hứng thú ở HS, buộc HS suy nghĩ phát hiện
kiến thức, phát triển nội dung bài học, đồng thời khuyến khích HS động não
tham gia thảo luận xoay quanh những ý tưởng, nội dung trọng tâm của bài học
theo một trật tự lôgic.
Bộ câu hỏi định hướng còn nhằm định hướng, dẫn dắt cho HS từng bước
phát hiện ra bản chất sự vật, quy luật của hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm
tòi, sự ham hiểu biết, qua đó HS có được niềm vui, hứng thú của người khám
phá và tự tin khi thấy trong phần nhận xét của thầy cô có phần đóng góp ý kiến
của mình. Kết quả, HS lĩnh hội được kiến thức mới, biết cách đi đến kiến thức
mới, qua đó tư duy được phát triển hơn.
c. Cấu trúc bộ câu hỏi định hướng: Bộ câu hỏi định hướng bao gồm câu
hỏi khái quát, Câu hỏi BH và Câu hỏi ND.
* Câu hỏi khái quát: Câu hỏi khái quát là câu hỏi mở, bao quát được các
nhiệm vụ học tập quan trọng, kéo dài suốt chương trình. Câu hỏi khái quát có
thể được sử dụng để liên kết nhiều bài học, nhiều môn học hay nhiều chủ đề.
Với câu hỏi khái quát, có nhiều hơn một câu trả lời đúng duy nhất, do đó đòi hỏi
7
HS phải tư duy bậc cao. Thông thường câu hỏi khái quát phải gắn với nhu cầu
có thực trong thực tế cuộc sống, sở thích của HS và gây được sự tò mò, sự hứng
thú muốn khám phá ở HS.
* Câu hỏi BH: Câu hỏi BH cũng là câu hỏi mở nhưng hướng HS đi vào trọng
tâm một bài học, một chủ đề cụ thể. Câu hỏi BH đòi hỏi phải đủ rộng để bao
quát hầu hết các chủ đề của bài học, giúp HS tự khám phá và thể hiện những
hiểu biết của mình quanh các vấn đề cốt lõi của dự án một cách sáng tạo, độc
đáo, duy trì sự hứng thú ở HS. Với Câu hỏi BH có nhiều hơn một câu trả lời
đúng duy nhất nên cũng đòi hỏi HS phải tư duy bậc cao. Câu hỏi BH hỗ trợ việc
nghiên cứu câu hỏi khái quát.
* Câu hỏi ND: Câu hỏi ND là những câu hỏi cụ thể, trọng tâm, tập trung trực
tiếp vào các chuẩn kiến thức và mục tiêu học tập; là câu hỏi hỗ trợ cho các câu
hỏi khái quát và Câu hỏi BH. Câu hỏi ND được xếp vào loại câu hỏi “đóng”, nó
đòi hỏi phải có câu trả lời đúng, rõ ràng, cụ thể, không thể bác bỏ.
d. Yêu cầu của bộ câu hỏi định hướng
Đặt câu hỏi là kỹ năng quan trọng đối với mỗi GV với tác dụng khuyến
khích, kích thích tư duy của HS, hướng HS tập trung vào nội dung bài học, đồng
thời giúp HS ghi nhớ kiến thức và tự kiểm tra kiến thức của mình. Do đó việc
xây dựng bộ câu hỏi định hướng phải xuất phát từ nội dung cần học: Xác định
ai, lĩnh vực nào ứng dụng kiến thức cần học, đối tượng nào cần được chọn ưu
tiên; HS có thể thực hiện vai trò gì trong dự án liên quan chặt chẽ với nội dung
cần học.
Yêu cầu của việc đặt câu hỏi là phải thích hợp, có sức lôi cuốn sẽ khuyến
khích HS suy nghĩ sâu hơn, tạo nên một ngữ cảnh hiệu quả đối với việc học. Khi
HS thật sự bị lôi cuốn vào việc tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi, đó là lúc
các em cảm thấy thích thú với việc học. Khi câu hỏi giúp HS nhận ra được mối
liên hệ giữa môn học với đời sống bản thân, đó cũng là lúc việc học sẽ trở nên
có ý nghĩa. Những câu hỏi hay có thể giúp HS trở thành những người có động
cơ học tập, có khả năng tự định hướng hoạt động học tập và cao hơn nữa là khả
năng tự học suốt đời.
e. Kỹ thuật xây dựng bộ câu hỏi định hướng
Hãy bắt đầu xây dựng bộ câu hỏi định hướng xuất phát từ nội dung và
mục tiêu cần đạt đến. Đừng lo ngại về cách thức và ngôn ngữ, cần chú trọng vào
tư duy tập thể. Suy nghĩ về các câu hỏi HS sẽ hỏi khi bạn triển khai dự án và chú
trọng vào việc làm sao để lôi cuốn HS. Hãy tìm xem điều gì có thể làm cho HS
ghi nhớ sâu và lâu nội dung bài học. Bạn có thể viết câu hỏi như một mệnh đề
trước, sau đó phát triển nó thành câu hỏi; nếu cần, trước hết hãy viết câu hỏi
8
bằng ngôn ngữ “người lớn” để diễn đạt được nội dung chính, sau đó viết lại
bằng ngôn ngữ “học trò”. Đảm bảo rằng câu hỏi khái quát và Câu hỏi BH có
nhiều hơn một câu trả lời hiển nhiên “đúng” nhằm phát triển kỹ năng tư duy
mức cao.
Bộ câu hỏi khung chương trình được thiết kế lồng ghép vào nhau, câu hỏi
ND hỗ trợ câu hỏi BH và câu hỏi khái quát
3.4. Lập kế hoạch thực hiện dự án
Để dạy tốt và đảm bảo HS tham gia tích cực vào quá trình học, GV cần
lên kế hoạch và chuẩn bị bài chu đáo. Để thành công, GV cần phác họa các dự
án cụ thể, có thể thực hiện được dựa vào mục tiêu dạy học của chương trình.
Về cơ bản, khâu lập kế hoạch dự án bao gồm các bước sau:
Bước 1. Xác định mục tiêu học tập cụ thể bằng cách sử dụng các chuẩn nội
dung và những kỹ năng tư duy bậc cao mong muốn đạt được
Bước 2. Xây dựng bộ câu hỏi định hướng
Bước 3. Lập kế hoạch đánh giá dự án
Bước 4. Thiết kế các hoạt động
3.5.Làm việc theo nhóm
Đây là hoạt động đặc trưng của PBL. Các HS được chia thành nhiều nhóm
học tập và thực hiện dự án theo kế hoạch chung.
a. Vai trò của làm việc theo nhóm trong PBL
Làm việc theo nhóm có tác dụng tích cực trong việc nâng cao chất lượng
học tập và rèn luyện các kỹ năng “mềm” của Thế kỷ XXI cho HS. Trong quá
trình thực hiện dự án, hoạt động nhóm thể hiện được:
Thứ nhất, sự hợp tác làm việc, biết chia sẻ, giúp đỡ và tôn trọng lẫn nhau của
tất cả các thành viên trong nhóm. Tuy nhiên trong quá trình làm việc cùng nhau,
không tránh khỏi sự tranh luận nhưng sự tranh luận lại là một hoạt động rất hữu
ích, vì qua đó mỗi HS mới tìm được cái đúng, cái sai và nguyên nhân dẫn đến
những quan niệm khác nhau đó. Nhờ vậy, HS sẽ nắm vững kiến thức, vừa có
được kỹ năng xây dựng kiến thức. Kết quả học tập của nhóm được tạo ra khi có
sự thống nhất, sự kết hợp tất cả kết quả của các thành viên.
Thứ hai, mỗi thành viên đều được phân công thực hiện một phần của công
việc và tích cực làm việc để đóng góp vào kết quả chung. Qua đó thể hiện tính
trách nhiệm của mỗi thành viên.
Thứ ba, tất cả các thành viên trong nhóm đều có cơ hội để rèn luyện các kỹ
năng như: giao tiếp, hợp tác, lắng nghe tích cực, đặt câu hỏi, đưa thông tin phản
hồi tích cực, thuyết phục, ra quyết định…
9
Thứ tư, rèn luyện cho HS kỹ năng đánh giá: các nhóm HS thường xuyên rà
soát công việc đang làm “Chúng ta cần làm gì?” và “Kết quả ra sao?”. HS có thể
đưa ra ý kiến nhận định đúng hoặc sai, tốt hoặc chưa tốt để góp phần hoàn thiện
các nhiệm vụ được giao và kết quả chung của nhóm.
b. Đặc điểm của làm việc theo nhóm trong PBL: Trong PBL, lớp học
thường được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm từ 4 đến 8 HS. Việc chia nhóm
thường xuất phát từ mục tiêu, nội dung bài học nhưng phải đảm bảo tính đồng
đều về trình độ nhận thức và tính năng động trong các hoạt động. Tuy nhiên
cũng có thể chia nhóm theo sở trường của HS.
Sau khi phân nhóm, mỗi nhóm bầu nhóm trưởng, thư ký. Nhóm trưởng có
nhiệm vụ giao cho mỗi thành viên một nhiệm vụ riêng biệt trong gói nhiệm vụ
chung hoặc tất cả các thành viên đều thực hiện cùng một nhiệm vụ và quản lý
được tiến độ thực hiện dự án. Nhóm trưởng phải biết điều khiển hoạt động của
nhóm, chia sẻ kinh nghiệm cho nhau; thảo luận, thống nhất kết quả chung của
nhóm. Còn thư ký có nhiệm vụ ghi nhận lại việc phân công của nhóm trưởng,
các hoạt động của nhóm, kết quả của từng thành viên, của nhóm.
Để trình bày kết quả trước lớp, mỗi nhóm cử một đại diện hoặc các thành
viên có thể phối hợp cùng nhau trình bày. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ
góp phần vào kết quả học tập chung của cả lớp.
Trong quá trình làm việc theo nhóm, sẽ nảy sinh nhiều ý tưởng hay giúp
cho sự thành công của dự án. Đây chính là ưu điểm của làm việc nhóm.
Ngoài ra, để các nhóm dễ dàng làm việc, trao đổi với nhau thì bàn ghế,
chỗ ngồi phải được sắp xếp sao cho phù hợp: các HS trong cùng một nhóm được
ngồi đối diện nhau.
c. Định hướng của GV trong hoạt động nhóm của HS
HS có thực hiện thành công dự án và tạo ra sản phẩm có chất lượng hay
không còn phụ thuộc vào vai trò của GV trong việc định hướng hoạt động nhóm
của HS. Từng HS cần phải nắm rõ những việc cần và sẽ làm cho dự án. Muốn
thế, GV cần hướng dẫn mạch lạc công việc của từng thành viên trong nhóm và
các tiêu chí để đánh giá dự án. Công việc của nhóm là giải nghĩa các hướng dẫn
đó và thống nhất cách giải quyết vấn đề.
Trong quá trình các nhóm hoạt động, GV cần quan sát và theo dõi hoạt
động của từng cá nhân, từng nhóm để kịp thời phát hiện những sai lầm, bế tắc,
thấy được những vướng mắc của HS để từ đó, GV có thể góp ý, định hướng
hoặc đưa ra những chỉ dẫn cụ thể giúp HS vượt qua những khó khăn, thử thách,
dẫn dắt HS đi đúng hướng mà dự án yêu cầu để hoàn thành tốt sản phẩm của
mình.
10
d. Đánh giá hoạt động nhóm : Song song với việc đề ra nhiệm vụ cụ thể cho
từng thành viên trong nhóm thì việc GV đưa ra tiêu chí đánh giá ngay từ đầu dự
án cũng giúp HS định hướng công việc của mình. Việc đánh giá cần cụ thể hóa
cho từng mặt hoạt động, không chỉ đánh giá kết quả hoạt động nhóm mà còn
đánh giá thành quả của từng cá nhân HS. Qua đó, từng cá nhân HS thấy rõ vai
trò của mình vào việc đóng góp vào thành quả hoạt động chung của cả nhóm.
e. Sản phẩm của HS: HS hoàn tất dự án thông qua sản phẩm. Những sản
phẩm của dự án giúp HS thể hiện năng lực của bản thân mình, khả năng diễn đạt
và làm chủ quá trình học tập, đồng thời giúp HS áp dụng những điều đã học vào
thực tế cuộc sống.
3.6. Đánh giá dự án
Đánh giá là một hoạt động thường xuyên trong quá trình dạy và học, nó giữ
một vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng đào tạo.
Mục đích của việc đánh giá: Mục đích chính của việc đánh giá là nâng cao
chất lượng học tập và năng lực của HS. Căn cứ vào kết quả đánh giá, HS biết
được mức độ đạt được của mình so với mục tiêu, nhiệm vụ được giao. Trên cơ
sở đó HS điều chỉnh cách học để nâng cao kết quả học tập, đồng thời giúp GV
điều chỉnh cách dạy cho phù hợp.
3.7. Quy trình tổ chức thực hiện PBL
Dựa trên cấu trúc của PBL, để thuận lợi trong việc tổ chức các hoạt động
dạy học, có thể chia tiến trình dạy học theo PBL thành 3 bước được biểu diễn
bằng sơ đồ sau:
Bước 1: Lập kế hoạch
1.1 Lựa chọn chủ đề
1.2 Xác định mục tiêu dự án
1.3 Xây dựng kế hoạch thực hiện
Bước 2: Thực hiện dự án
2.1 Thu thập và xử lý thông tin
2.2 Tổng hợp thông tin
2.3 Xây dựng sản phẩm
11
Bước 3: Nghiệm thu sản phẩm.
Hợp thức hóa kiến thức
3.1 Báo cáo trình bày sản phẩm
3.2 Đánh giá, rút kinh nghiệm
3.3 Hợp thức hóa kiến thức
3.8. Bản chất, mục tiêu và đặc điểm của PBL
3.8.1. Bản chất của PBL: HS lĩnh hội kiến thức và rèn luyện các kỹ năng tư
duy bậc cao thông qua quá trình tự giải quyết một bài tập tình huống gắn liền
với thực tiễn cuộc sống, dưới sự hướng dẫn của GV. Kết thúc dự án sẽ cho ra
một sản phẩm cụ thể.
3.8.2. Mục tiêu của PBL
a. Về kiến thức: Gắn kết nội dung bài học với thực tiễn đời sống mà HS
quan tâm.
b. Về kĩ năng
- Rèn luyện cho HS các kỹ năng tư duy bậc cao (phân tích, tổng hợp, đánh
giá…) trong việc thu thập thông tin, tư liệu để phát hiện, xử lý và giải quyết vấn
đề.
- Rèn luyện các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng sống.
- Nâng cao kỹ năng sử dụng CNTT vào quá trình học tập và tạo ra sản phẩm.
c. Về thái độ, tình cảm
- Giúp HS yêu thích môn học hơn.
- Nhìn thấy được giá trị của lao động thông qua hoạt động nhóm.
- Không ngừng nỗ lực học tập.
- Tinh thần trách nhiệm, ý thức cộng đồng, ý thức dân tộc sẽ sâu sắc hơn khi HS
tự mình tham gia giải quyết những vấn đề mà địa phương đang đối mặt, dù
những giải pháp đưa ra còn chưa thật sự hoàn chỉnh.
3.8.3. Đặc điểm của PBL
Trong các tài liệu viết về PBL, có rất nhiều đặc điểm được đưa ra. Đầu thế
kỷ XX, các nhà sư phạm Mỹ khi xác lập cơ sở lý thuyết cho PBL đã nêu ra ba
12
đặc điểm cốt lõi của PBL đó là định hướng HS, định hướng thực tiễn và định
hướng sản phẩm. Có thể cụ thể hoá các đặc điểm của PBL như sau:
a. Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình
huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nhiệp cũng như thực tiễn đời sống.
Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng
của người học. Các dự án học tập góp phần gắn việc học tập trong nhà trường
với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lý tưởng, việc thực hiện
các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực.
b. Định hướng hoạt động HS: Trong quá trình thực hiện dự án, có sự kết
hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực
tiễn, thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết
cũng như rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
c. Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm
được tạo ra. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý
thuyết, mà trong đa số trường hợp, các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật
chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng,
công bố, giới thiệu.
d. Định hướng ứng dụng CNTT: Trong thời đại bùng nổ CNTT, HS có
nhiều cơ hội để mở rộng tầm hiểu biết từ thế giới bên ngoài. Thông qua CNTT,
HS tìm thấy các nguồn tài nguyên để thực hiện dự án và tạo sản phẩm. Qua đó,
kỹ năng sử dụng CNTT ở HS được hình thành và phát triển.
3.9.So sánh phương pháp dạy học dự án với các phương pháp dạy học
truyền thống
Phương pháp dạy học truyền thống
Phương pháp dạy học dự án
1. Quan niệm về quá trình dạy học
- Học là quá trình tiếp thu, lĩnh hội, - Học là quá trình tìm tòi, khám phá,
qua đó hình thành kiến thức, kỹ năng, phát hiện và xử lý thông tin, tự hình
thái độ.
thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất
thông qua hoạt động học tập, dưới sự
hướng dẫn của GV.
- Dạy là quá trình truyền đạt, chuyển - Dạy là quá trình tổ chức và điều
tải nội dung đã được quy định trong khiển các hoạt động nhận thức của HS
chương trình, SGK.
để đạt mục tiêu dạy học.
13
2. Bản chất dạy học
- GV truyền thụ tri thức
- Học tập bằng hoạt động nhận thức
của người học.
- GV là trung tâm, đóng vai trò chủ
động, quyết định.
- HS là trung tâm, GV tổ chức và điều
khiển các hoạt động.
- Quan tâm đến chuẩn kiến thức cần
đạt trong quá trình dạy học.
- Quan tâm đến quá trình học như thế
nào, khai thác động lực của học tập,
gắn việc học với nhu cầu, lợi ích cá
nhân người học.
3. Vai trò của GV
- Chủ đạo (người truyền thụ).
- Như một nhà tư vấn, cộng tác.
- Hướng dẫn HS suy nghĩ.
- Đưa ra dự án, đặt câu hỏi, hướng dẫn
HS hoàn thành dự án.
- Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, định
- Nắm giữ và truyền thụ tri thức, chứng hướng, kiểm tra hoạt động nhận thức,
minh chân lý của kiến thức trong SGK kết luận, chốt lại kiến thức.
và của GV.
4. Vai trò của HS
Thụ động theo dõi, ghi nhớ kiến thức, Chủ động tham gia các hoạt động
thừa hành, bắt chước.
nhằm chiếm lĩnh kiến thức, tự tìm hiểu
và giải quyết nhiệm vụ học tập.
5. Mục tiêu dạy học
- Chuẩn bị cho HS vào đời và tiếp tục - Chuẩn bị cho HS sớm thích ứng với
học lên.
đời sống xã hội, hòa nhập và góp phần
phát triển cộng động.
- Chú trọng hình thành năng lực nhận
- Chú trọng đến việc hình thành kiến thức, năng lực hoạt động, năng lực tự
thức cho HS.
học và các kỹ năng mềm như kỹ năng
giải quyết vấn đề, cộng tác…
- Tôn trọng lợi ích, nhu cầu, năng lực
của HS.
14
6. Nội dung dạy học
- Chú trọng cung cấp tri thức, kỹ năng, - Không chỉ quan tâm đến kiến thức lý
kỹ xảo.
thuyết mà còn chú trọng đến các kỹ
năng thực hành vận dụng kiến thức,
năng lực phát hiện và giải quyết các
vấn đề của thực tiễn.
- Nhiều kiến thức đã học ít được dùng - Gắn vốn hiểu biết, kinh nghiệm và
đến trong cuộc sống hàng ngày.
nhu cầu của HS với tình huống thực tế,
bối cảnh và môi trường địa phương,
những vấn đề HS quan tâm.
7. Phương pháp dạy học
- Các phương pháp dạy học chủ yếu - Các phương pháp dạy học theo hướng
theo lối truyền thụ một chiều, áp đặt.
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của HS.
- Các phương pháp thực hành thường - Các phương pháp tích cực như tìm
được dùng để kiểm nghiệm lại những tòi, điều tra, giải quyết vấn đề, hợp
gì đã học.
tác…qua đó HS tự lực nắm tri thức
mới, đồng thời được rèn luyện về
phương pháp tự học, tự tìm tòi, nghiên
cứu.
- Dạy học mang tính thông báo đồng
loạt, yêu cầu cả lớp cùng thực hiện như
nhau, ít quan tâm chú ý đến dạy học
phân hóa trình độ HS.
8. Hình thức, tổ chức dạy học
- Chủ yếu dạy học toàn lớp, GV đối
diện với cả lớp.
- Thường cố định trong không gian lớp
học.
- Bàn ghế cố định, không thay đổi.
- Thực hiện dạy học phân hóa theo
trình độ, năng lực, thiên hướng và nhịp
độ học tập của HS, tạo điều kiện thuận
lợi cho sự bộc lộ và phát triển tiềm
năng ở mỗi, tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui và hứng thú học tập ở
mỗi HS.
- Học cá nhân, đôi bạn, học theo nhóm.
- Địa điểm học tập cơ động, linh hoạt:
học ở lớp, học ở phòng thí nghiệm, ở
hiện trường, trong thực tế.
- Thường dùng bàn ghế cá nhân, hoặc
có thể thay đổi cách bố trí cho phù hợp
với các hoạt động học tập.
9. Phương tiện dạy học
15
- Phương tiện dạy học được sử dụng - Phương tiện dạy học được sử dụng
chủ yếu để minh họa, kiểm nghiệm như là nguồn thông tin dẫn HS đến
những nội dung trong SGK hoặc lời kiến thức mới.
nói của GV.
- Quan tâm vận dụng các phương tiện
dạy học hiện đại để HS hoàn thành
nhiệm vụ học tập theo tiến độ phù hợp
với năng lực.
10. Đánh giá
- Thường đánh giá theo nội dung dạy - Thường đánh giá theo mục tiêu bài
học, khả năng ghi nhớ và tái hiện kiến học, đánh giá kết quả học tập theo
thức là chính.
chuẩn kiến thức, kỹ năng và năng lực
của người học.
- Thường đánh giá sau khi học xong - Không chỉ đánh giá sau khi học một
một bài học hoặc một chương. GV nội dung mà thường đánh giá ngay
đánh giá kết quả học tập của HS.
trong quá trình học. HS tự giác chịu
trách nhiệm về kết quả học tập của
mình, được tham gia tự đánh giá và
đánh giá lẫn nhau.
- GV thường đánh giá thông qua điểm - GV đánh giá thường xuyên nhằm
số.
điều chỉnh quá trình dạy học. GV
hướng dẫn cho HS tự phát triển năng
lực tự đánh giá để tự điều chỉnh cách
học, khuyến khích cách học thông
minh sáng tạo, biết giải quyết các vấn
đề nảy sinh trong các tình huống thực
tế.
4. Kiểm nghiệm
Trong suốt 3 năm học qua sau khi được lĩnh hội kiến thức về phương
pháp dạy học theo tinh thần DHDA từ khóa học Sau Đại Học tại trường Đại học
Vinh tôi đã áp dụng vào thực tế giảng dạy môn Vật lý ở trường THPT Yên Định
16
2, bản thân tôi nhận được kết quả là chất lượng của HS khả quan hơn rất nhiều
so với cách dạy học thông thường lâu nay. Cụ thể: Trong các năm học 2011
-2012, 2012 -2013 và 2013 -2014 tôi được Nhà trường phân công giảng dạy
môn Vật lý ở một số lớp trong đó có hai lớp C3 và C4 là hai lớp có số HS bằng
nhau, trình độ HS đầu vào là như nhau và là các lớp Ban Tự Nhiên, tôi đã áp
dụng phương pháp dạy học theo tinh thần dự án cho lớp C3 còn lớp C4 tôi giảng
dạy theo phương pháp truyền thống thì kết quả thu được là tất cả các bài kiểm
tra định kỳ và tổng kết cuối năm của lớp C3 luôn luôn cao hơn lớp C4, hơn nữa
bản thân tôi còn cảm nhận được tình cảm, tinh thần đoàn kết, sự gần gũi, mạnh
dạn và biết chia sẻ ở HS lớp C3 là rất rõ rệt qua quá trình thực hiện các dự
án.Trong thời gian tiến hành dự án các KNS của HS được hình thành và phát
triển. Dưới sự định hướng và gợi ý của GV hầu hết các nhóm đã xây dựng được
kế hoạch rất chi tiết nhằm thực hiện mục tiêu dự án. Các thành viên trong một
nhóm hoạt động rất hiệu quả, vai trò của mỗi người như một mắt xích của nhóm.
Quá trình thực hiện dự án đã hình thành và phát triển ở HS các năng lực như: tư
duy sáng tạo, hành động, thực hiện kế hoạch, hợp tác giải quyết vấn đề, đề xuất
giải pháp tình thế…và cuối cùng là giai đoạn báo cáo sản phẩm kỹ năng thuyết
trình và tự tin của HS được thể hiện rất rõ ràng.
Với giới hạn eo hẹp của một SKKN tôi không thể trình bày hết những
việc mình đã làm song tôi xin khẳng định rằng việc lồng ghép đưa tinh thần
DHDA vào giảng dạy bộ môn Vật lý là không khó khăn vì đây là một môn học
có tính thực tiễn cao. Ví dụ như ở chương trình lớp 10 ta có thể vận dụng đưa
dạy học dự án vào áp dụng cho khối kiến thức phần năng lượng, các định luật
bảo toàn… Ở lớp 11 ta có thể áp dụng các kiến thức về dòng điện, về hiện tượng
cảm ứng điện từ…để tạo ra những sản phẩm trong thực tế hoặc những đồ dùng
dạy học mà ở kho thiết bị Nhà trường chưa có qua DHDA. Trong chương trình
Vật lý lớp 12 cũng có rất nhiều kiến thức có thể tích hợp DHDA đặc biệt là ở
chương “ Dòng điện xoay chiều” là một chương có khối lượng kiến thức rất lớn
chiếm tỷ lệ cao nhất của chương trình Vật lý 12. Tôi xin gới thiệu một giáo án
lồng ghép DHDA mà tôi đã sử dụng trong SKKN này (xem phần phụ lục).
Sau đây là bảng thống kê kết quả tổng kết cuối năm lớp 12 của 2 lớp C3 và C4
Lớp
Sĩ
số
Kết quả xếp loại
17
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
12C3(TN) 45
13
28,8 30
66,6 2
4,5
12C4(ĐC) 45
5
11,1 25
55,6 10
22,2 5
III.
0
0
0
0
11,1 0
0
KẾT LUẬN
Như vậy việc vận dụng lý thuyết PBL vào quá trình dạy học Vật lý
thành công sẽ rèn luyện cho HS các kỹ năng tư duy bậc cao, bồi dưỡng năng
lực giải quyết vấn đề, phát triển các kỹ năng sống, làm việc theo nhóm, vận
dụng kiến thức vào thực tiễn và tạo hứng thú học tập trong HS, từ đó góp
18
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học. Có nghĩa là DHDA đã thực
hiện được mục tiêu dạy học theo chuẩn chương trình và những yêu cầu cao
hơn đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu của Bộ Giáo Dục đào tạo đã đưa ra.
Thực nghiệm cho thấy vận dụng DHDA vào dạy học Vật lý mang tính khả thi
và hiệu quả không chỉ phát triển các KNS cơ bản nhất là tư duy sáng tạo của
HS mà còn khắc phục được hạn chế của chương trình SGK hiện nay ( thiếu
sự vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn). Thời gian, phương tiện, kinh phí,
trình độ HS không còn là khó khăn, nan giải trong DHDA mà điều quan trọng
nhất là mỗi GV cần nỗ lực, sáng tạo trong khi vận dụng.
Do yêu cầu đổi mới nhằm nâng cao chất lượng dạy và học nên phương
pháp giảng dạy cũng được thay đổi. Do đó việc nghiên cứu phương pháp giảng
dạy nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy Vật lý cần được đề cập đến một cách có
hiệu quả hơn. Để đạt được điều đó các đề tài nghiên cứu cần được thử nghiệm ở
các trường phổ thông có diện rộng. Việc thu nhận xử lý kết quả cần tới sự cộng
tác đắc lực của nhiều nhóm nghiên cứu. Vì vậy cần có sự liên kết giữa đề tài đặt
ra với các đề tài nghiên cứu khác trong lĩnh vực phương pháp giảng dạy Vật lý.
Đề tài này cũng đã được thử nghiệm ở trường phổ thông xong mới chỉ ở phạm
vi hẹp nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được
ý kiến đóng góp của các đồng chí trong tổ Vật lý trường THPT Yên Định 2 nói
riêng và bạn bè đồng nghiệp nói chung để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Mọi góp ý và chia sẻ xin được gửi về địa chỉ Hồ Thị Minh
GV trường THPT Yên Định 2 – Thanh Hóa (
[email protected])
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị
Thanh Hóa, ngày 12 tháng 5 năm 2014
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do tôi
viết, không sao chép của ngừơi khác.
Người viết SKKN
Hồ Thị Minh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Cao Đàm (1995), Phương pháp nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
2. Nguyễn Thế Khôi, Vũ Thanh Khiết, Nguyễn Đức Hiệp, Nguyễn Ngọc
Hưng, Nguyễn Đức Thâm,Vũ Đình Túy, Phạm Quý Tư (2008) Vật lý
12, Sách Giáo Khoa, Sách GV Nâng cao, NXB Giáo Dục.
19
3. Nguyễn Quang Lạc (1990), Lý luận dạy học Vật lý ở trường phổ
thông, ĐH Vinh.
4. Trần Hữu Cát (2004), Phương pháp nghiên cứu khoa học Vật lý, Vinh.
5. Phạm Thị Phú, Dạy học dự án và việc khai thác sử dụng các phương
tiện dạy học, Bài báo, Đại học Vinh.
6. Nguyễn Đức Thâm, Nguyễn Ngọc Hưng (2000), Giáo trình tổ chức
hoạt động nhận thức của học sịnh trong dạy học vật lý ở trường phổ
thông, ĐHSP Hà Nội.
7. Một số luận văn Thạc Sỹ nghiên cứu về DHDA của trường Đại Học
Vinh.
8. Nguyễn Thanh Bình, Giáo trình chuyên đề giáo dục kỹ năng sống.
NXB Đại học sư phạm, 2009.
9. Một số trang Web: thuvienvatly, bachkim, vatlyvietnam, …
PHỤ LỤC 1
GIÁO ÁN DỰ ÁN
Môn Vật Lý Lớp 12 Ban KHTN
Tên dự án: Một ngày không có điện
20