Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Sinh học Skkn-rèn luyện cho học sinh kĩ năng trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ...

Tài liệu Skkn-rèn luyện cho học sinh kĩ năng trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh ở môn sinh học

.DOC
17
1947
89

Mô tả:

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Cùng với các nước khác trên thế giới, Việt Nam đã và đang phát triển theo hướng Công Nghiệp Hoá-Hiện Đại Hoá. Muốn Công Nghiệp Hoá-Hiện Đại Hoá đất nước thì điều không thể thếu là phải nhanh chóng tiếp thu những thành tựu khoa học và kĩ thuật hiện đại của thế giới. Một đất nước phát triển đòi hỏi người lao động phải có phẩm chất nhân cách phù hợp với yêu cầu xã hội: có tinh thần trách nhiệm, phải năng động sáng tạo, có kĩ năng giao tiếp,... đây cũng là vấn đề Đảng và nhà nước ta rất quan tâm. Như Bộ trưởng Bộ giáo dục đã nói “quá trình đổi mới giáo dục gắn liền với sự phát triển của đất nước”. Vậy đổi mới giáo dục là gì? . Vâng, đổi mới giáo dục tức là đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới theo phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học. Với phương pháp dạy học mới sẽ góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào thế kỉ XXI, sống và làm việc trong một xã hội công nghiệp hiện đại. Chính vì vậy, đòi hỏi người giáo viên viên phải nghiên cứu, tìm tòi học hỏi đề ra những biện pháp tích cực trong quá trình giảng dạy nhằm đổi mới phương pháp dạy và học. Giáo viên trở thành người tổ chức, thiết kế hoạt động, hướng dẫn Học Sinh tự nghiên cứu nhằm phát huy tính tích cực, tư duy sáng tạo ở người học. Bên cạnh nhiệm vụ trang bị những kiến thức và hiểu biết cần thiết, mỗi bộ môn ở trường phổ thông còn phải rèn luyện cho HS những kĩ năng trình bày một vần đề nào đó trước nhiều người. Sinh học là một bộ môn khoa học được có ở trường THCS, được thiết kế chủ yếu theo lôgic môn học (theo trình tự :Thực vật –Động vật –Giải phẩu sinh lý người –Di truyền). Đây là môn học có nhiều ứng dụng trong thực tế đời sống, gần gũi với kinh nghiệm, hiểu biết của học sinh. Từ đó tạo ra sự kích thích trí tò mò khoa học và hứng thú học tập của học sinh. Đặc biệt, ơ môn học này giúp các em mô tả được hình thái, cấu tạo cơ thể sinh vật thông qua các đại diện của các nhóm sinh vật trong mối quan hệ với môi trường sống. Làm sao để giúp học sinh có thể tự mô tả hoặc nh bày được hình thái cấu tạo cơ thể của một sinh vật thông qua mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh trước mọi người. Là giáo viên dạy môn sinh học, tôi rất quan tâm đến vấn đề này. Chính vì thế tôi đi vào tìm hiểu chuyên đề: “Rèn luyện cho Học Sinh kĩ năng trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh ở môn sinh học”. II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 1. Thuận lợi: Như chúng ta đã biết, sinh học là môn học có nhiều ứng dụng trong thực tế đời sống, gần gũi với kinh nghiệm, hiểu biết của học sinh. Từ đó tạo ra sự kích thích trí tò mò khoa học và hứng thú học tập của học sinh. Đặc biệt, ở môn học này giúp các em mô tả được hình thái, cấu tạo cơ thể sinh vật thông qua các đại diện của các nhóm sinh vật trong mối quan hệ với môi trường sống. Ví thế, đây là thuận lợi rất tích cực trong việc thực hiện chuyên đề này. Ngày nay, với phương pháp dạy học mới Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã trang bị cho các trường nhiều đồ dùng dạy học. Nếu chúng ta không khai thác hết thì sẽ lảng phí tiền của và hy vọng của nhân dân. Một trong những thuận lợi khi thực hiện đề tài này là hầu như các tiết dạy môn sinh học đều có đồ dùng dạy học; Học sinh rất hăng hái, say mê môn học này. Bên cạnh đó, là vùng nông thôn nên Giáo viên cũng như Học Sinh dễ dàng tìm kiếm mẫu vật để phục vụ cho tiết dạy và học. 2. Khó khăn Với phương pháp dạy học mới đòi hỏi học sinh phải làm việc nhiều, đặc biệt vơí những bài có đồ dùng dạy học: Mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh đòi hỏi học sinh tự nghiên cứu thảo luận nhóm để trình bày. Nếu giáo viên thường xuyên tạo cho các em một thói quen làm việc thì sẽ dễ dàng hơn, nhưng ở đây hầu như các giáo viên không phải tiết nào cũng thực hiện được. Không làm được điều đó có nhiều lí do, một trong những lí do đó là: nhiều bài dạy đòi hỏi phải có kinh phí … Ví dụ: Muốn dạy những bài có mẫu vật: Cá, ếch, thỏ, hoặc chim,…. Phải mua. Hoặc 1 số bài dạy không có mẫu vật , không có mô hình hoặc cũng không có tranh ảnh thì GV phải tự vẽ hoặc in phim trong. Vì vậy, vẫn còn hạn chế ở 1 số bài không có ĐDDH thì GV phải đầu tư rất nhiều. 3. Số liệu thống kê Thực trạng tại các lớp về kĩ năng trình bày trên mô hình, mẫu vật hoặc tranh ảnh còn rất hạn chế. Qua khảo sát, giảng dạy đầu năm học 2006-2007 tôi thấy: - khoảng 10% HS tương đối có kĩ năng trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh. - 90% HS khó khăn trong việc trả lời câu hỏi bằng cách trình bày trước lớp trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh. Ngoài ra, trong tiết học các em rất thụ động, không có hứng thú học tập. Dẫn đến kết quả các bài kiểm tra chưa cao. III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 1. Cơ sở thực tiễn Trong chương trình sinh học THCS được thiết kế theo lôgic môn học : “Thực vật - Động vật –Giải phẩu sinh lý người-Di truyền” . Trước đây nội dung được chú trọng đến hệ thống kiến thức lý thuyết, sự phát triển tuần tự và chặt chẽ các khái niệm, định luật, thuyết khoa học, thì hiện nay chương trình Sinh học THCS được thiết kế chủ yếu dựa trên tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực, chủ động của người học. Trong đó, rất coi trọng cả việc trao đổi kiến thức lẫn bồi dưỡng các kĩ năng và năng lực nhận thức cho HS. Để giúp HS có thể tự trình bày hoặc mô tả được hình thái, cấu tạo của một sinh vật thông qua mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh thì HS phải tự tìm hiểu trước bài học mới ở nhà kết hợp hướng dẫn của GV ở trên lớp. Chính vì nhận thấy HS rất thụ động, không mạnh dạn khi trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh trước lớp, tôi đã tìm hiểu nguyên nhân và đề ra biện pháp thích hợp để khắc phục và nâng cao hiệu quả giảng dạy trong tiết học. * Nguyên nhân dẫn đến HS thụ động, không mạnh dạn trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh trước lớp là: - Phương tiện, đồ dùng dạy học không đầy đủ cho mỗi tiết học. Chỉ một số bài mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh. - Do giáo viên không thường xuyên gọi các em lên bảng trình bày trước lớp. Như xác định bộ phận hoặc nêu đặc điểm cấu tạo, . . . của 1 sinh vật nào đó. - Học sinh thường lười nhát không tìm hiểu soạn bài trước ở nhà. * Một số biện pháp nhằm khắc phục và nâng cao kĩ năng trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh cho HS: 2. Nội dung,biện pháp thực hiện: Bộ môn sinh học ở trường THCS có từ lớp 6 đến lớp 9. Một trong những kiến thức quan trọng của bộ môn này là GV phải phát huy kĩ năng mô tả hoặc trình bày hình thái cấu tạo của một cơ thể sinh vật thông qua mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh. Đây là nội dung chính mà đề tài đề cập tới. * Để đổi mới phương pháp dạy học, để rèn luyện kĩ năng trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh cho HS ở môn sinh học người giáo viên phải biết lựa chọn những thiết bị dạy học phù hợp cho mỗi tiết dạy: - Lựa chọn thiết bị dạy học: căn cứ vào mục tiêu dạy học, nội dung kiến thức trong sách giáo khoa, căn cứ vào điều kiện thời gian cho pháp, căn cứ vào điều kiện địa phương ( cơ sở vật chất của nhà trường) và đặc biệt phải căn cứ vào chính laọi thiết bị dạy học định chọn. + Tranh vẽ: ưu điểm là dễ sử dụng thuận tiện; nhược điểm là không mô tả được quá trình sinh học. +Mô hình: ưu điểm là giúp HS dễ hình dung cụ thể các đối tượng nghiên cứu; nhược điểm là đòi hỏi phải chuẩn bị công phu, đôi khi mất nhiều thời gian mới có kết quả. + Mẫu vật thật: ưu điểm là cung cấp thông tin chính xác về đối tượng nghiên cứu; nhược điểm là đòi hỏi phải chuẩn bị công phu mà Gv không được trả thù lao vật chất. - Lựa chọn phương pháp sử dụng thiết bị dạy học: + TBDH đóng vai trò là nguồn cung cấp tri thức mới. + TBDH đóng vai trò minh hoạ nội dung kiến thức mới. + TBDH đóng vai trò kiểm tra kiến thức đã học. * Để rèn luyện được kĩ năng này cần đảm bảo các yêu cầu sau: + GV phải biết tổ chức hướng dẫn, dẫn dắt HS quan sát mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh một cách khoa học, hợp lí nhằm giúp cho HS suy nghĩ, phải tư duy sáng tạo của mình. + Đối với tranh ảnh phải để hình câm để HS tự mô tả mà không cần chú thích. + HS cần phải đọc bài, quan sát hình trước ở nhà kết hớp với hướng dẫn của GV ở trên lớp để trình bày tốt hơn. * Một số phương pháp và hình thức tổ chức dạy – học nhằm phát huy tính tích cực của người học. Từ đó, phát huy được kĩ năng trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh cho HS ở môn sinh học. 2.1. Quan sát. Phương pháp quan sát là phương pháp dạy HS cách sử dụng các giác quan để tri thức trực tiếp, có mục đích các sự vật, hiện tượng diễn ra trong tự nhiên và trong cuộc sống mà không cần có sự can thiệp vào cácquá trình diễn biến của các sự vật và hiện tượng đó. Phương pháp quan sát bao gồm hai bước: + Quan sát để thu thập thông tin. + Xử lí thông tin đã thu thập được để rút ra kết luận. Vậy nếu phương pháp quan sát được sử dụng đúng sẽ có tác dụng kích thích tư duy tích cực, độc lập và chủ động của hS giúp hS có thể tìm kiếm tri thức. Cùng với sự tìm kiếm tri thức, HS còn được rèn luyện một số kĩ năng như: Cân, đo, ghi chép, báo cáo. Đặc biệt, sau khi quan sát mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh Hs có thể tự trình bày lại đặc điểm, cấu tạo hình thái của sinh vật. 2.2. Dạy và học hợp tác nhóm nhỏ Lớp được chia thành những nhóm nhỏ từ 3-5 người. Mỗi nhóm cử người điều khiển, thư ký và người đại diện trình bày. - Dạy học hợp tác nhỏ bao gồm các bước: + GV nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức. + Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ từng nhóm. + Hướng dẫn thực hiện. - Làm việc theo nhóm ( thực hiện theo yêu cầu của GV). - Phương pháp này có ý nghĩa tích cực đối với người học là: + tạo điều kiện cho mọi HS đều được tham gia. + Học được kiến thức từ các thành viên trong nhóm. + Phát triển kĩ năng cá nhân và kĩ năng trình bày trước đông ngươi, kĩ năng giao tiếp. Từ đó hiểu thêm bản thân mình và các bạn thông qua việc trao đổi tương tác, chia sẽ kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau.  Lưu ý: Nên chia nhóm nhỏ vì nhiều quà HS sẽ ỷ lại vào người khác và làm ồn lớp.  Câu hỏi đặt ra phải vừa sức và xen kẽ chút câu khó. Ngoài ra, để tạo điều kiện rèn luyện kĩ năng trình bày cho HS thì GV nên sử dụng kết hợp cả 2 phương pháp trên. Thông qua một số bài học ở môn sinh học có mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh GV có thể rèn luyện cho HS kĩ năng trình bày một cách mạnh dạn, nhanh nhẹn và lưu loát hơn trước nhiều người. * Đối với những bài dạy có mẫu vật. - Để dạy bài này GV phải chuẩn bị mẫu vật cho tốt, phải nghiên cứu tìm hiểu đặc điểm, cấu tạo, hình thái của sinh vật thật kết hợp hình SGK cần dạy trước ở nhà. - Đối với bài dạy có mẫu vật nếu HS không tự chuẩn bị trước GV có thể hướng dẫn hoặc chuẩn bị luôn cho các em ( theo nhóm). - Dạy những bài này GV nên sử dụng phương pháp quan sát và thảo luận nhóm. - GV lên kế hoạch tổ chức, thiết kế các hoạt động cụ thể cho HS:  Để giúp các em xác định rõ hoặc trình bày được đặc điểm mẫu vật GV nên kết hợp treo tranh hình SGK (hoặc chiếu phim) cho HS quan sát.  Sau khi yêu HS quan sát mẫu vật kết hợp hình vẽ  GV nêu câu hỏi : Yêu cầu HS thảo luận nhóm.  GV: Gọi 1 HS đại diện nhóm lên bảng vừa trả lời câu hỏi vừa trình bày trên mẫu vật.  GV: Mời HS khác nhận xét  Sau đó GV nhận xét, chốt lại. Lưu ý: Nếu HS trả lời tốt ( đúng ý) thì GV không cần nhắc lại, GV chỉ bổ sung chỗ còn thiếu và nhấn mạnh đặc điểm trọng tâm, chốt lại đáp án câu hỏi. Ví dụ: Bài 13: CẤU TẠO NGOÀI CỦA THÂN ( Sinh học 6) Mục I: Tìm hiểu cấu tạo ngoài của thân. Ơ bài này GV yêu cầu mỗi nhóm ( mỗi bàn) chuẩn bị mẫu vật. Có thể là 1 thân cây vú sữa. Để rèn luyện cho HS lớp 6 kĩ năng trình bày trên mẫu vật GV nhất thiết phải tổ chức, thiết kế hoạt động cụ thể cho HS làm việc. Hoạt động này có thể tiến hành như sau: Hoạt động của GV - GV: yêu cầu HS đem mẫu thân cây lên Hoạt động của HS bàn để quan sát. - GV: treo tranh H13.1  Yêu cầu HS - HS: Đặt cây, cành lên bàn quan sát đối chiếu với hình quan sát mẫu vật kết hợp hình vẽ . 13.1 SGK Hình vẽ - GV: Yêu cầu HS thảo luận nhóm nhỏ  - HS: Thảo luận câu hỏi  Thống nhất ý kiến. Trả lời các câu hỏi sau: ? Thân mang những bộ phận nào? ? Những điểm giống nhau giữa thân và cành? ? Vị trí của chồi ngọn trên thân và cành? ? Vị trí của chồi nách? ? Chồi ngọn sẽ phát triển thành bộ phận nào của cây? - GV: gọi đại diện 1 HS lên trình bày trước lớp. - HS: mang cành của mình đã quan sát lên trước lớp trình bày  Chỉ các bộ phận của thân. - GV: Nhận xét, chốt lại. Giới thiệu một số bài học có mẫu vật: HS khác theo dõi, nhận xét. Sinh học 6: Bài 4: có phải tất cả thực vật đều có hoa? Bài 9: các loại rễ, các miền của rễ Bài 12: Biến dạng của rễ Bài 18 : Biến dạng của thân Bài 19: Đặc điểm bên ngoài của lá Bài 26: Sinh sản sinh dưỡng tự nhiên Bài 27 : Sinh sản sinh dưỡng do người Bài 28: Cấu tạo và chức năng của hoa. Bài 29: Các loại hoa Bài 30: Thụ phấn ............ Sinh học 7: Tiết 15- BÀI 15: GIUN ĐẤT Tiết 27 – BÀI 26: CHÂU CHẤU Tiết 23 - Bài 22: Tôm sông Tiết 37 - Bài 35: Ech đồng Như chúng ta đã biết, chương trình sinh học 6, 7 thường có mẫu vật nhiều hơn sinh 8, 9. Chính vì vậy, nếu bài nào có mẫu vật thật thì GV nên ưu tiên dùng mẫu vật hơn mô hình hoặc tranh ảnh, bởi khi tiếp cận với mẫu vật sẽ tăng không khí học tập và hứng thú tìm tòi ở HS. * Đối với những bài dạy có mô hình: + Nguyên tắc: Đảm bảo các nguyên tắc dạy học, phù hợp với nội dung kiến thức, mô hình được đưa ra đúng lúc đúng cách; được đặt ở vị trí thuận lợi cho cả lớp quan sát. + Với bài sử dụng mô hình Gv thiết kế, tổ chức tiết dạy theo các bước sau:  Bước 1: GV giới thiệu tên mô hình, nêu rõ mục tiêu của việc quan sát hay thao tác với mô hình.  Bước 2: Khai thác nội dung mô hình. Đầu tiên nên yêu cầu HS quan sát kĩ mô hình, ( ra câu hỏi cho HS làm việc; làm sao để HS biết rõ họ phải làm gì? Họ phải làm như thế nào? Nên có câu hỏi định hướng cho HS mô tả hoặc thao tác với mô hình). Sau đó nhấn mạnh vào nội dung nào trên mô hình cần quan tâm để có câu hỏi tập trung chú ý hay giải thích cấu trúc mô hình; có thể yêu cầu HS tháo lắp từng bộ phận của mô hình để quan sát.  Bước 3: HS rút ra kết luận từ việc quan sát hay thao tác với mô hình. Gv yêu cầu HS lên bảng trình bày trên mô hình . Chú ý: các loại mô hình dùng trong dạy học sinh học chỉ là mô phỏng lại có cấu trúc sinh học nên không hoàn toàn tuyệt đối đúng với kích thước thật, khi dạy học, Gv cần chỉ rõ để HS không hiểu sai kiến thức sinh học. Ví dụ: Tiết 15 – BÀI 15: AND ( sinh học 9) Mục I – Cấu trúc không gian của phân tử ADN Mục tiêu: - HS mô tả được cấu trúc không gian của phân tử ADN.  GV: chuẩn bị mô hình phân tử ADN và tranh phóng to H15( hoặc phim).  Qua bài học này GV cũng góp phần rèn luyện cho HS kĩ năng trình bày trên mô hình bằng ngôn ngữ sinh học.  GV tổ chức cho HS hoạt động nhóm. Hoạt động của GV GV: giao cho mỗi nhóm 1 mô hình phân tử AND, Gi7ới thiệu mô hình cấu trúc không gian của phân tử AND. Hình vẽ Hoạt động của HS HS: nhận mô hình GV giao. GV: Treo hình vẽ 15 ( hoặc phim)  Yêu - HS: quan sát mô hình đối cầu HS quan sát mô hình + kết hợp hình chiếu hình vẽ  Thảo luận vẽ SGK. nhóm, mô tả được cấu trúc ? Mô tả cấu trúc không gian của phân tử không gian phân tử ADN ADN? GV: Gọi 1 HS lên bảng trình bày trước - HS: lên bảng trình bày trên lớp cấu trúc không gian của phân tử AND mô hình. trên mô hình. - HS khác theo dõi Nhận GV: nhận xét, chốt lại. xét, bổ sung. GV: yêu cầu HS tiếp tục quan sát mô hình thực hiện lệnh  - HS: Tiếp tục quan sát mâ hình+ ? Các loại nuclêôtíc nào giữa 2 mạch liên hình vẽ  Trả lời câu hỏi: kết với nhau thành cặp? ? Giả sử trình tự các đơn phân trên một mạch AND như sau: -A-T-G-X-T-A-G-T-XTrình tự các đơn phân trên đoạn mạch tương ứng sẽ như thế nào? - HS: trả lời  HS khác nhận GV: Gọi HS trả lời. xét, bổ sung. GV: Nhận xét, chốt lại. Giới thiệu một số bài dạy có mô hình: Sinh 6: Bài 9 ( mục 2- Các miền của rễ ) Bài 15: Cấu tạo trong của thân non. Bài 20: Cấu tạo trong của phiến lá. Sinh 7: Bài 22: Tôm sông; bài 26: Châu chấu; bài 31: cá chép; bài 33: cấu tạo trong của cá; bài 35: ếch đồng; bài 36: cấu tạo trong của ếch ; bài 38: thằn lằn bóng đuôi dài; bài 41: Chim bồ câu; bài 42: Cấu tạo trong của chim. Sinh 8: Bài 7: bộ xương ……… Sinh 9: Bài 15: AND ….. * Đối với những bài dạy có tranh ảnh ( không có mẫu vật và mô hình): - Một số bài dạy không có mẫu vật không có mô hình nhưng có tranh ảnh thì GV sử dụng tranh ảnh. Nếu trong sách có hình vẽ mà thiết bị không có thì GV có thể tự vẽ tranh hoặc photo phim trong . - GV yêu cầu HS về nhà tìm hiểu, quan sát trước hình vẽ. - Ở những bài này GV cũng sử dụng kết hợp hai phương pháp : quan sát và hợp tác nhỏ. HS tự quan sát, thu thập thông tin để trình bày trên tranh ảnh. - Bài dạy có sử dụng tranh ảnh GV tiến hành như sau: + Nguyên tắc: Đảm bảo các nguyên tắc dạy học, phù hợp với nội dung kiến thức, tranh được đưa ra đúng lúc đúng cách; được treo vị trí thuận lợi cho cả lớp quan sát. + Cách tiến hành:  Bước 1: GV giới thiệu tên tranh, nêu rõ mục tiêu của việc quan sát tranh, nêu yêu cầu đối với HS ( ra câu hỏi cho HS làm việc; làm sao để HS biết rõ họ phải làm gì? Họ phải làm như thế nào? . . . ).  Bước 2: Khai thác nội dung bức tranh. Đầu tiên yêu cầu HS mô tả bức tranh ( nên có câu hỏi định hướng cho HS mô tả hoặc cho trước một số từ hay tập hợp từ để hS mô tả theo đúng ý đồ của GV). Sau đó nhấn mạnh vào nội dung nào trên bức tranh thì có câu hỏi tập trung chú ý của HS vào đó.  Bước 3: HS rút ra kết luận từ việc quan sát tranh. GV yêu cầu HS lên bảng trình bày trên tranh. Ví dụ: Bài 26: CHÂU CHẤU (Sinh học 7) Mục II- Tìm hiểu cấu tạo trong của châu chấu. Để HS tự trình bày hoặc mô tả chính xác đặc điểm cấu tạo trong của châu chấu thì GV sẽ hướng dẫn HS quan sát trên hình vẽ SGK . Quá trình tự quan sát và trình bày được cấu tạo trong của châu ch ấu . HS so sánh được đặc điểm cấu tạo trong của châu chấu với tôm sông. Từ đó, thấy đ ược s ự ti ến hoá của lớp sâu bọ so với lớp giáp xác Hoạt động cảu GV GV: Treo tranh (phim trong) cấu tạo trong Hoạt động của HS HS: Quan sát tranh của châu chấu. Giới thiệu hình. GV: Yêu cầu HS quan sát tranh Trả lời: ? Châu chấu có những hệ cơ quan nào? HS: Xác định được đặc điểm ? Trình bày cấu tạo trong của châu chấu? cấu tạo trong của châu chấu. GV: gọi HS lên bảng trình bày trên hình vẽ cấu tạo trong của châu chấu GV: Nhận xét, chốt lại: HS: Đại diện lên bảng trình bày. - Châu chấu có đủ 7 hệ cơ quan, ở đây ta chỉ  Chĩ rõ đặc điểm từng hệ . tìm hiểu 4 hệ cơ quan chính : hệ tiêu hoá, hệ HS khác theo dõi nhận xét, bổ hô hấp, hệ tuần hoàn, hệ thần kinh. sung. GV: Tiếp tục yêu cầu HS  Thảo luận, trả lời các câu hỏi sau: 1. Hệ tiêu hoá và hệ bài tiết có quan hệ với HS: Tiếp tục quan sát hình  nhau như thế nào ? Thảo luận, thống nhất ý kiến, 2. Vì sao hệ tuần hoàn ở sâu bọ lại đơn giản đi khi hệ thống ống khí phát triển ? GV: nhận xét, chốt lại đáp án. ? Cấu tạo trong của châu chấu có đặc HS: Đại diện nhóm trình bày điểm khác tôm như thế nào? HS khác nhận xét. HS: Nhớ lại đặc diểm cấu tạo trong của tôm sông  So sánh được, Đa số sinh học 6,7,8,9 đều có tranh ảnh. Tuy nhiên một số không có trong phòng thiết bị nhưng Gv vẫn có thể vẽ hoặc in phim trong phục vụ tiết dạy. Qua ví dụ trên ta thấy đặc thù của bộ môn sinh học là HS phải quan sát, phân tích, thảo luận để tìm ra các đặc điểm đặc trưng về cấu tạo hình thái của mỗi sinh vật thích nghi với môi trường sống. Trong những bài dạy có sử dụng mô hình ( ĐDDH) sẽ giúp tiết học thêm sôi nỗi, tạo hứng thú học tập cho HS. Từ các phân tích các ví dụ trên ta thấy vai trò của người giáo viên và học sinh trong quá trình hoạt động. GV là người lập kế hoạch, thiết kế câu hỏi hướng dẫn HS quan sát mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh. Để dạy được phần này đòi hỏi người giáo viên phải có kĩ năng hướng dẫn HS quan sát mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh. Trong quá trình hướng dẫn phải tạo được sự hứng thú và kích thích tính tò mò khoa học ở HS. IV. KẾT QUẢ Sau một thời gian nghiên cứu và thử dạy các lớp khối 7. Tôi thấy ban đầu các em rất nhút nhác, thụ động không mạnh dạn lên bảng trình bày trên mẫu vật, mô hình hặoc tranh ảnh. Nhưng qua một thời gian quen với phương pháp mới các em có sự tiến bộ hơn rất nhiều, kết quả đạt được rất khả quan thông qua kết quả học tập ở HS. Kết quả đạt được như sau:  89% là HS thích phương pháp dạy và học mới. Đa số các em rất hứng thú, say mê yêu thích môn học thông qua phương pháp dạy và học mới. Với phương pháp học mới đã giúp các em có kĩ năng năng trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh trước lớp. Từ đó, các em đã mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi trình bày 1 vấn đề nào đó trước nhiều người.  Đặc biệt kết quả của các bài kiểm tra chất lượng hơn rất nhiều.  11 % là HS thích phương pháp dạy và học cũ. Trong 11% này đa số là HS yếu kém, bởi các em chỉ thích nghe giáo viên truyền đạt hơn là tự tìm tòi, suy nghĩ. V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Để thực hiện chuyên đề này, giáo viên chỉ cần yêu cầu Học Sinh chuẩn bị thật kĩ bài trước khi lên lớp. Nếu dạy bài có mẫu vật, yêu cầu học sinh chuẩn bị theo nhóm ( nhưng giáo viên cũng phải phòng ngừa, phải chuẩn bị ). Để tiết dạy sôi nỗi giáo viên phải tạo hứng thú với học sinh, đưa ra nhiều tình huống có vấn đề yêu cầu học sinh giải quyết . Kinh nghiệm cho thấy nếu GV thường xuyên gọi các em lên trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh trước lớp thì sẽ ngày càng rèn luyện cho HS kĩ năng trình bày hơn. Lưu ý : Giáo viên nên ưu tiên cho mẫu vật thật, rồi mới mô hình – tranh ảnh. VI. KẾT LUẬN Với cách dạy học bằng phương pháp mới GV trở thành người thiết kế, tổ chức các hoạt động độc lập, hoạt động nhóm đã huy tính tích cực học tập của HS, hình thành ở HS những kĩ năng mới. Qua cách hướng dẫn HS quan sát mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh, HS mô tả hoặc trình bày được hình thái cấu tạo một cơ thể sinh vật bằng ngôn ngữ sinh học một cách chính xác, khoa học. Từ đó đã hình thành và phát triển cho HS kĩ năng trình bày một vấn đề nào đó trước nhiều người một cách tự tin, lôi cuốn người nghe. Đây là vấn đề không chỉ tôi mà hầu hết các giáo viên khác cũng rất quan tâm. Là một giáo viên dạy môn sinh học tôi sẽ không ngừng phấn đấu, học hỏi kinh nghiệm để rèn cho HS kĩ năng trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh . Để mỗi tiết dạy đều có thiết bị dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tư duy sáng tạo của HS. Đồng thời rèn luyện cho HS kĩ năng trình bày trên mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh. Tôi xin đề xuất với cấp quản lí, ban lãnh đạo ngành bổ sung thêm mô hình và tranh ảnh cho những bài chưa có, ủng hộ kinh phí cho những bài dạy có mẫu vật GV phải mua. Trên đây là chuyên đề với ý kiến chủ quan của tôi, rất mong quí thầy cô tham khảo, đóng góp ý kiến để giúp tôi rút ra kinh nghiệm và hoàn chỉnh hơn cho đề tài của mình. VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO Khi trình bày chuyên đề này tôi đã tham khảo 1 số tài liệu sau: 1. Sách giáo khoa sinh học 6 – Nguyễn Quang Vinh – NXB GD- 2002. 2. Sách giáo viên sinh 7 – Nguyễn Quang vInh – NXB GD – 2003 3. Sách giáo khoa sinh 7 – Nguyễn Quang Vinh – NXB GD- 2003. 4. Sách giáo viên sinh 9 – Nguyễn Quang vInh – NXB GD – 2004 5. Sách giáo khoa sinh 9 – Nguyễn Quang Vinh – NXB GD- 2004. 6. Bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III, quyển 2-Nguyễn Hải Châu - GD- 2007 7. Tài liệu tập huần giáo viên sinh học - Ngô Văn Hưng – Vụ GDTH - 2004 Hưng Lộc, ngày 18 tháng 10 năm 2012 NGƯỜI THỰC HIỆN Lê Thị Tây Phụng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan