RÈN KĨ NĂNG NÓI TRONG GIỜ TẬP LÀM VĂN LỚP 5. (1)
A : PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Như chúng ta đã biết mục tiêu của Giaó dục Tiểu học đó là nhằm
giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản,
góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chũ nghĩa,
bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học trung học cơ sở ( theo Điều 23 Luật Giaó dục 2009)
A : PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Như chúng ta đã biết mục tiêu của Giaó dục Tiểu học đó là nhằm
giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản,
góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chũ nghĩa,
bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học trung học cơ sở ( theo Điều 23 Luật Giaó dục 2009)
Để đạt được mục tiêu trên trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng
việt chiếm vị trí rất quan trọng. Tiếng việt tạo điều kiện và cơ sở cho học
sinh học tốt các bộ môn. Đặc biệt môn Tiếng việt lớp 5 và cụ thể là môn
tập làm văn nói. Thực tế dạy học hiện nay cho thấy kỷ năng nói của HS
đang ngày bị xem nhẹ và hình thức kiểm tra chủ yếu hiện nay là kiểm tra
viết và giáo viên chỉ tập trung vào các kỹ năng : đọc, viết, tính toán trong
nhà trường là việc có thật. Việc rèn luyên kỹ năng nói cho HS trong phân
môn Tập làm văn lớp 5 hiện nay chưa làm nổi bật các đặc thù là rèn kỹ
năng nói cho học sinh mà chủ yếu mới chỉ tập trung vào lập dàn bài để
phục vụ cho giờ văn viết. Do đó, việc rèn luyện kỹ năng nói lưu loát
trong cách diễn đạt cho học sinh là việc làm cần thiết của người giáo viên
ở trên lớp, đây là cả một quá trình đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực, cố gắng,
tìm hiểu và quan tâm đến từng đối tượng học sinh ở trong lớp để có thể
có biện pháp giúp đỡ các em có điều kiện luyện tập tùy theo cách nhìn
nhận vấn đề của từng học sinh. Do đó việc cải tiến, đổi mới về phương
pháp luyện nói cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói
riêng là vấn đề cần quan tâm, bởi vì khả năng diễn đạt vấn đề của học
sinh hiện nay hầu hết còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục.
Bởi vậy làm thế nào để dạy tốt vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi
giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Từ thực trạng việc diễn đạt vấn đề của học sinh lớp 5, trường tiểu
học Xuyên Mộc hiện nay. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, tôi
thiết nghĩ cần phải cải tiến và đổi mới về thực trạng hiện nay để nâng cao
khả năng diễn đạt, khả năng
giao tiếp và nhận biết vấn đề của học sinh.Vì vậy tôi mạnh dạn nghiên
cứu sáng kiến . “Rèn kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn .”
1.Cơ sở lý luận
Bước vào thế kỷ 21 giáo dục Việt Nam đã trải qua hơn 20 năm đổi
mới và thu được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa
dạng hóa các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà
trường. Chất lượng giáo dục có những chuyển biến rõ rệt.
Đất nước ta ngày càng phát triển, đổi mới, việc đào tạo một lớp
người mới biết sử dụng thành thạo điêu luyện ngôn ngữ diễn đạt một
cách mới mẻ sáng tạo tư duy là vô cùng cần thiết. Cũng bởi Tiếng việt là
ngôn ngữ, là phương tiện giao tiếp quan trong nhất của xã hội hiện nay.
Do vậy Tiếng việt được đưa vào dạy học trong tất cả các cấp học với
lượng kiến thức và thời gian nhiều. Môn Tiếng việt là một trong những
môn học trong trường tiểu học phải được thực hiện theo nguyên tắc dạy
và học. Nguyên tắc dạy học Tiếng việt cho học sinh tiểu học cần dựa trên
cơ sở những quy luật và nguyên tắc để đề ra những phương pháp dạy học
cũng như cách tổ chức quá trình dạy học cụ thể hơn, khoa học hơn .Khắc
phục lối truyền thụ một chiều ,rèn luyện lề nết tư duy sáng tạo của người
học ,từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy
học. Do vậy rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh của mỗi
giáo viên tiểu học cần phải được chú trọng và quan tâm.
2.Cơ sở thực tiễn
Trong tất cả các môn thì Tiếng việt là môt trong những môn học có
vị trí đặc biệt,nó chiếm thời lượng tiết học nhiều hơn cả (8/23 tiết/tuần).
Sau khi học xong chương trình Tiếng Việt tiểu học các em phải thực hiện
tốt 4 kỹ năng nghe, nói , đọc , viết mà chương trình yêu cầu. Đặc biệt là
kỹ năng nói thông qua việc diễn đạt các vấn đề một cách rõ ràng, mạch
lạc, trọng tâm làm cho người nghe có hứng thú và tiếp cận lời nói môt
cách tự nhiên và hiệu quả.
Các yêu cầu của môn Tiếng Việt lớp 5 đối với học sinh vùng thành
phố thị xã thì việc thực hiện dễ dàng. Song đối với học sinh lớp 5 trường
tiểu học Xuyên Mộc cần phải thực hiện thường xuyên, nhiệt tình để nâng
cao chất lượng học tập tốt hơn.
Ở đơn vị trường Tiểu học Xuyên Mộc, tỷ lệ học sinh đạt chất lượng
cao ở môn Tiếng Việt nói chung và khả năng trình bày bằng lời nói của
học sinh nhìn chung còn chưa đồng đều ở các khối, lớp.
Trước yêu cầu thực tế của đơn vị là “ Nâng cao chất lượng và hiệu
quả đào tạo” là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở lớp 5A1 trường tiểu
học Xuyên Mộc.
Xuất phát từ những luận điểm trên và qua thực tế giảng dạy tôi đã tìm
hiểu, nghiên cứu và đổi mới phương pháp để nâng cao chất lượng, rèn
luyện kỹ năng nói cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt và phân môn
Tập làm văn theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo, đồng thời tạo
ra những phương pháp đổi mới ,những biện pháp cần thiết là động lực
thúc đẩy cho giáo dục của nhà trường góp phần hoàn thiện các kỹ năng để
học sinh có thể tiếp cận với các kiến thức mới dễ dàng và có hiệu quả.
II / MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục là coi giáo dục đào tạo cùng với
khoa học công nghệ là nền tảng, là động lực của sự nghiệp Công nghệ
hóa – hiện đại hóa Đất nước ,phát huy yếu tố con người phát triển toàn
diện là yếu tố cơ bản cho sự phát triển lâu dài và bền vững trong mọi lĩnh
vực. Trọng tâm là việc chú trọng đến con người được đào tạo là con
người có đầy đủ năng lực ,trí tuệ, có đạo đức thích nghi được với những
thay đổi, có kỹ năng hành động, biết “ Học thường xuyên ,bhọc suốt
đời” và có ý tưởng “học để biết, học để làm, học để cùng sống với nhau
và học để làm người ”. Để đáp ứng như cầu của xã hội là đào tạo ra
những con người phát triển toàn diện thì việc dạy học ở trường Tiểu học
chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi vì bậc tiểu học là bậc học nền
tảng của hệ thống giáo dục Quốc dân, do đó đòi hỏi phải dạy đúng, dạy
đủ các môn học theo quy định nhằm giúp các em có thêm kiến thức sâu
rộng để có thể tiếp cận được với nền khoa học tiên tiến hiện nay là “Nâng
cao dân tri , đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài ”.
Các môn học ở tiểu học cần có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho
nhau.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có vị trí rất đăc biệt quan trọng, nó chiếm
thời lượng nhiều hơn cả so với các môn học khác. Phương tiện chủ yếu
của môn Tiếng Việt là ngôn ngữ, là công cụ không thể thiếu để giao tiếp
trong cuộc sống hàng ngày và là phương tiện để học sinh có thể tiếp cận
và học tốt được các môn học khác. Ngôn ngữ phát triển thì tư duy cũng
phát triển.
Môn Tiếng Việt còn giúp cho các em cảm nhận, khám phá ra
những nét đẹp tâm hồn, sự hiểu biết về thế giới xung quanh. Môn Tiếng
Việt là cơ sở, là chỗ dựa cho học tốt các môn học khác.Vì muốn học môn
nào cũng cần sử dụng kỹ năng nói, đọc, viết mà môn Tiếng Việt là môn
bước đầu hình thành kỹ năng này. Trong Tiếng Việt thì phân môn: Tập
làm văn lai là môn tổng hợp các kỹ năng và kiến thức của các phân môn:
Luyện từ và câu, Chính tả, kể chuyện. Vì thế, Bậc Tiểu học cần rèn luyện
cho các em có kỹ năng học tốt phân môn Tập làm văn để giúp các em
nắm bắt được cái hay, cái đẹp, biết cảm thụ văn học và có tình yêu quê
hương, đất nước và con người .
Như ta đã biết dạy Tập làm văn là nhằm phát triển và hoàn thiện
năng lực văn học cho học sinh trên bốn kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết để
học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, trong đó
kỹ năng nói có vai trò quan trọng trong đời sống học sinh, nó giúp các em
hình thành các kỹ năng học tập khác. Vì thế mục đích cao nhất của bài
Tập làm văn là rèn kỹ năng nói cho học sinh giúp các em sử dụng Tiếng
Việt một cách có hiệu quả trong hoc tập và giao tiếp trong gia đình, nhà
trường và xã hội, tôi cũng mong muốn sẽ có môt bài học kinh nghiệm để
có thể áp dụng vào thực tiễn dạy môn tập làm văn nói cho học sinh trong
trường. Đối với học sinh lớp 5, các em đã có một số vốn kỹ năng nhất
định ,đã biết môi quan hệ giữa người với người trong những mối quan hê
khác nhau, để có thể sáng tạo bằng ngôn từ một cái gì đó của mình và thể
hiện những khía cạnh của đời sống. Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ gợi đươc
cảm xúc trực tiếp, người nói, người nghe có thể nắm bắt được những nội
dung cần trao đổi và để đạt được mục đích của giao tiếp.
Qua ngôn ngữ nói ta dễ nhận thấy trí tuệ, tâm hồn của người nói bởi lời
nói luôn mang phong cách riêng của mỗi người. Trong lời nói cần thể
hiện tư duy, nếu tư duy tốt lời nói sẽ dễ dàng, gọn gàng, hấp dẫn được
người nghe, ngược lại nếu nói ấp úng, không rõ ràng sẽ không thuyết
phục được người nghe và đôi khi còn hiểu sai ý mình muốn nói. Vì thế
mục đích của giao tiếp sẽ khó được thực hiện hoàn chỉnh. Để có những
lời nói đẹp mỗi người cần phải rèn luyện trong một quá trình lâu dài.
Những giờ Tập làm văn chính là giờ học hình thành cho học sinh những
kỹ năng nói đầu tiên, ở lứa tuổi này các em đã có một sự thay đổi đáng kể
đặc điểm tâm sinh lý. Các em đã tự thay đổi trong quá trình nhận thức,
việc sử dụng các công cụ trực quan đã giảm bớt so với ở các lớp học
trước và thay vào đó là học sinh có thể dùng lời để chứng minh một vấn
đề. Vì vậy, lời nói cho phép diễn đạt dể dàng hơn rất nhiều về những vấn
đề phức tạp hơn những tính chất bên trong những sự vận động lo-gic. Ở
lớp 5 hoạt động yêu thích của trẻ em là sáng tạo văn học, nếu được học
văn theo một chương trình đúng và có một phương pháp truyền thụ tốt
thì trẻ em ở tuổi này rất thích học văn, dễ nói hết ra những điều mình suy
nghĩ , đó là diều kiện thuận lợi nhất cho giáo viên trong việc rèn luyện kỹ
năng nói cho từng học sinh, nhận ra những chỗ khiếm khuyết của từng
học sinh để uốn nắn kịp thời . Theo quan điểm dạy học hiện nay, cần phải
rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt mỗi vấn đề cụ thể một cách rõ ràng,
mạch lạc. Vì vậy giờ Tập làm văn còn rèn cho học sinh kỹ năng nói, dạy
các em biết tổng hợp kiến thức từ các phân môn như : Luyện từ và câu,
Tập đọc và các kinh nghiệm cuộc sống mà học sinh có được . Cùng một
vấn đề nhưng không phải học sinh nào cũng nói như nhau, do đó giáo
viên phải luôn quan tâm tới đặc điểm riêng của từng học sinh để rèn luyện
kỹ năng nói cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
III /GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI :
Nhằm đi sâu vào một vấn đề nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm
vi nghiên cứu việc dạy học kiểu bài luyện nói cho học sinh lớp 5 với
phạm vi nghiên cứu hẹp
như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả, góp phần thực hiện
nhiệm vụ giáo dục của một nhà giáo trong giai đoạn mới .
V/ CÁC GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU
- Để thực hiện giải pháp trong việc nâng cao kỹ năng trình bày bằng
lời nói trong giờ Tập làm văn ở lớp 5, bản thân tôi có dự kiến ban đầu về
công viêc cần làm như sau :
- Thực hiện kết hợp gia đình với nhà trường, tuyên truyền vận động để
tất cả các phụ huynh đều thấu hiểu về tầm quan trọng của môn Tiếng Việt
lớp 5.
- Giáo viên nghiên cứu tài liệu, đổi mới nội dung phương pháp dạy
học để rèn luyện kỹ năng lời nói trong phân môn Tập làm văn lớp 5 .
- Thường xuyên kiểm tra chất lượng học sinh, dự kiến giúp đỡ đến
từng học sinh để các em trong lớp đều có thể có kỹ năng giao tiếp thông
qua việc rèn luyện kỹ năng nói .
- Thực hiện tốt việc luyện đọc đối với học sinh thông qua các giờ Tập
làm văn, thông qua các văn bản đã học giúp học sinh có khả năng trình
bày văn bản bằng lời nói .
- Tìm hiểu cụ thể thực trạng ban đầu về chất lượng môn Tiếng Việt của
học sinh trong trường đặc biệt là chất lượng môn Tiếng Việt của học sinh
lớp 5.
V/ KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
Tôi thực hiện kế hoạch từ năm học 2010-2011
B/PHẦN NỘI DUNG
I/ THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN
Nhìn chung chất lượng các môn học đối với lớp do tôi chủ nhiệm khá
đồng đều, nhưng riêng môn Tập làm văn của các em kết quả còn hạn chế,
đó là khả năng trình bày bằng lời nói còn nhiều hạn chế, ngữ điệu trong
khi trình bày chưa thể hiện được theo nội dung của văn bản. Bên cạnh
những điều kiện thuận lợi, nhà trường còn gặp không ít khó khăn ảnh
hưởng đến chất lượng chung. Do đây là vùng kinh tế mới ,một số học
sinh ở xa khu địa bàn trung tâm, cuộc sống còn gặp
nhiều khó khăn ,gia đình chưa thực sư quan tâm đến các em nên phần nào
ảnh hưởng đến kết quả học tập. Thực tế trong quá trình giảng dạy, bản
thân tôi đã khảo
sát trực tiếp lớp 5A1 trong năm học 2010 – 2011 và năm học khi trình
bày bằng lời nói thông qua bài văn tả cảnh, kết quả thu được như sau :
HS tham
TSHS
gia khảo
sát
28
28
KẾT QUẢ
Trình bày lưu Trình bày chưa Trình bày còn
loát
TS
3
%
10,7
lưu loát
TS
%
11
39,3
lúng túng
TS
%
14
50,0
Việc học sinh còn lúng túng trong khi diễn đạt văn bản bằng lời nói
làm cho việc tiếp cận các kiến thức khoa học kỹ thuật càng trở nên khó
khăn hơn , làm cho các em mất lòng tin khi bước vào cuộc sống sau này.
Nhìn bảng thống kê kết quả khảo sát việc diễn đạt bằng lời nói của học
sinh ở trên, chúng ta có thể thấy việc đọc hiểu và trình bày lưu loát văn
bản bằng lời nói làm cho người nghe có hứng thú khi nghe của học sinh
còn rất nhiều hạn chế. Tỷ lệ học sinh còn lúng túng khi trình bày bài tập
còn khá cao. Mà những học sinh này do vốn Tiếng Việt còn hạn chế, cho
nên ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của các môn học khác.
Nhận thức được rõ điều đó và trước thực trạng học môn luyện nói
của học sinh thông qua phân môn Tập làm văn chương trình tiểu học mới
của học sinh lớp 5 tôi đã tìm ra các biên pháp để nâng cao chất lượng
trình bày bằng lời nói môn Tiếng Việt lớp 5.
II/ CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Qua những năm tháng học tập, nghiên cứu phương pháp dạy học môn
Tiếng Việt, bản thân tôi đã áp dụng những phương pháp để nâng cao chất
lượng kỹ năng nói môn Tiếng Việt lớp 5 như sau :
II.1. Nghiên cứu tài liệu :
Để nắm vững nội dung và phương pháp dạy học môn Tiếng Việt tiểu
học ,tôi đã tiến hành nghiên cứu các tài liệu, chuẩn kiến thức và kỹ năng
các môn học ở Tiểu học ; tài liệu dạy văn cho học sinh tiểu học – nhà xuất
bản Giáo dục năm 1999 của tác giả Hoàng Hòa Bình. Dạy tập làm văn ở
tiểu học. NXB: Giáo dục năm 2003 của tác giả Nguyễn Trí. Tập làm văn
lớp 5 Biên soạn theo chương trình mới của NXB Tổng hợp TPHCM. Tài
liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 5 NXB-GD năm 2006.
Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở Tiểu học. NXB: giáo dục
năm 2010- Tác giả Hoàng Hòa Bình, Lê Minh Châu,…. Vì vậy chương
trình phân môn Tập làm văn lớp 5 cũng nằm trong sự đổi mới đó là :
Chương trình kế thừa ưu điểm của nội dung chương trình môn Tiếng Việt
theo chương trình sách giáo khoa cũ, đồng thời phát triển những thành
tựu có được của chương trình, khắc phục được tồn tại và bất cập của
chương trình Tiếng Việt cải cách giáo dục. Bổ sung một số nội dung cần
thiết phù hợp với thực tế cuộc sống và hội nhập cùng các nước trong khu
vực và trên thế giới .
Từ mục tiêu, nội dung chương trình trên đòi hỏi giáo viên phải cải
cách đổi mới phương pháp dạy học .
II.2. Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với Gia đình :
Hằng năm nhà trường có tổ chức họp phụ huynh đầu năm nhân
dịp này giáo viên trao đổi về tình hình hoc tập cũng như một số vấn đề có
liên quan trong việc giáo dục học sinh. Ngoài ra, giáo viên cũng thống
nhất với hội CMHS phối hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục để nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh. Đặc biệt là đặt vấn đề
về việc nâng cao kỹ năng nói, kỹ năng trình bày của học sinh thông qua
cuộc sống giao tiếp hàng ngày ở gia đình, nhắc nhở học sinh chuẩn bị bài
ở nhà như lập dàn ý, dựa vào dàn ý học sinh tập nói để gia đình nghe
nhận xét bổ sung đồng thời tạo tính tự tin, mạnh dạn để ngày mai nói
trước lớp và để kịp thời uốn nắn khi học sinh chưa hoàn thành được mục
tiêu của bài học.
II.3.Thiết kế Giaó án :
Để nâng cao kỹ năng nói cho học sinh thông qua phân môn Tập làm
văn lớp 5, và giờ học đạt hiêu quả cao đòi hỏi người giáo viên phải biết
thiết kế giáo án trước khi lên lớp - đây là khâu quyết định 50% thành
công của tiết dạy vì vậy trước khi lên lớp giáo viên cần đầu tư để soạn
giáo án thực sự có chất lượng, thể hiện rỏ nội dung và phương pháp. Việc
chuẩn bị bài học càng chu đáo bao nhiêu thì chất lượng dạy học sẽ càng
đạt hiệu quả bấy nhiêu. Do vậy việc thiết kế kế hoạch bài học chi tiết, cụ
thể sẽ giúp cho học sinh có điều kiện để tiếp thu kiến thức một cách chủ
động hơn .
Soạn bài thực chất là lập kế hoạch để tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt
động học tập cụ thể phân môn Tập làm văn
.
* Ví dụ : Mẫu thiết kế giáo án của một tiết TLV nói đươc thể hiện
qua các nội dung chính sau :
A – Mục tiêu :
- Kiến thức( tùy bài)
- Kỹ năng:
- Rèn kĩ năng nói cho học sinh thông qua yêu cầu đề ra ở môn Tập làm
văn nói với từng thề loại, từng đề bài cụ thể ( từ mức độ thấp đến mức độ
cao hơn)
- Rèn tư duy ngôn ngữ và phát triển vốn từ ngữ phong phú, sáng tạo cho
học sinh trong quá trình tập nói.
- Thái độ:( tùy bài)
B – Đồ dùng dạy học :
- Thầy: tranh, ảnh( tùy bài)
- Trò: dàn ý; ảnh( tùy bài)
C- Các hoạt động dạy học :
I- Kiểm tra bài cũ
II – Dạy học bài mới
1/ Giới thiệu bài
2/ Dạy bài mới
+ Hướng dẫn học sinh lập dàn bài
+ Hướng dẫn học sinh tập nói
+ Nhận xét, rút kinh nghiệm
3/ Củng cố dặn dò
Một giờ Tập làm văn thường được tiến hành theo các bước sau :
1. GV chọn đề và chép bài, hướng dẫn HS xác định yêu cầu của bài
và kết hợp củng cố lý thuyết bài văn theo thể loại .
2. Hướng dẫn học sinh lập dàn bài hoặc hoàn thiện dàn bài đã chuẩn
bị trước của học sinh có thể hướng dẫn cụ thể về cách tìm ý, triển khai
phần trọng tâm, học sinh xem lại dàn bài đã lập của mình để bổ sung
chuẩn bị bài nói .
3.Hướng dẫn học sinh tập nói
4. Nhận xét ,rút kinh nghiệm.
Trong 4 bước trên, cần xác định rõ nhiệm vụ chính của tiết học tập trung
ở bước 3 : hướng dẫn học sinh tập nói .
II.4/ Chuẩn bị đồ dùng (thiết bị dạy học )
Trong các giờ dạy học ở trên lớp giáo viên đều phải sử dụng thiết bị
đồ dùng dạy học. Sử dụng thiết bị dạy học chính là tạo điều kiện thuận lợi
để giáo viên đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học và hoạt động theo
hướng tích cực hóa, cá thể hóa người học trong hoạt động học tập, rèn
luyện. Vì vậy trước các tiết học, giáo viên phải dặn học sinh chuẩn bị
trước ở nhà như:
Ví dụ:Với bài : “Luyện tập tả cảnh”, “tà người”… dặn HS quan sát ở
nhà ngoài quan sát GV và HS chuẩn bị những tranh, ảnh: cảnh công
viên, cảnh đường phố, cảnh cánh đồng, nương rẫy. Tranh, ảnh người thân,
em bé, chú công an… Vì quan sát chính xác về đối tượng là tìm được
nhũng chi tiết tiêu biểu để không lẫn nó với đối tượng khác.
Ví vụ: Tả một em bé ở tuổi tập nói tập đi thì phải quan sát như thế nào để
không nhầm lẫn ở độ tuổi này với độ tuổi khác( vì những chi tiết kiểu:
“lúc bé cười nở ra hai cái răng sún” ( khi mà bé mới nảy ra răng sữa), “bé
chạy sà vào lòng mẹ ”( khi mà bé còn đang chập chững từng bước tập
đi ), đồng thời để em bé được tả đúng là một em bé cụ thể chứ không phải
một em bé chung chung, ước lệ.
Vì vậy trước các tiết học, giáo viên dặn các em quan sát trước ở nhà
sưu các hình ảnh và giáo viên chuẩn đồ dùng và sử dụng triệt để các đồ
dùng dạy học.
II.5/ Xây dựng nội dung nói.
Phải hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung nói, vì vậy khi ra đề,
giáo viên phải móc nối mục đích của đề bài và đề bài phải hấp dẫn đối
với các em, phải rộng rải mở ra nhiều khả năng cho học sinh lựa chọn, có
như vậy mới hấp dẫn được các em, giúp các em hứng thú trong học tập.
Phân tích để xác định trọng tâm vấn đề cần quan sát và tiếp thu,
hướng dẫn học sinh quan sát bằng nhiều giác quan đễ tái hiện chân thực
sự vật. Quan sát tỉ mỉ
nhiều lượt đễ tìm được những nét riêng, nét tiêu biểu của sự vật và xác
định rõ vị trí khởi điểm và trình tự quan sát, xác định rõ trọng tâm mà đề
bài yêu cầu để vạch
ra hướng quan sát cho học sinh. Khi đã có đầy đủ những chi tiết, những
điều cần nói về đề tài giúp cho các em lập dàn ý, sắp xếp các ý quan sát
được cho hợp lo-gíc. Trong tiết tập làm văn này giáo viên cần rèn luyện
cho học sinh tập nói theo các ý đã sắp xếp và học sinh không thể nói nếu
không chuẩn bị kĩ nội dung nói, do đó việc giúp học sinh xây dựng nội
dung nói là điều kiện đầu tiên đễ giờ tập làm văn thành công.
II.6/ Những điều cần chú ý trong lúc học sinh trình bày( nói)
Như chúng ta đã biết trong 4 bước của một tiết tập làm văn thì nhiệm
vụ chính của tiết học tập trung ở bước 3 : hướng dẫn học sinh tập nói. Để
thực hiên tốt bước này, GV cần nắm vững những yêu cầu cơ bản và biết
vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong từng tiết học với từng kiểu bài, từng
đối tượng cụ thể. Nhìn chung, có thể tiến hành theo phương pháp sau cần:
* Giaó viên cần chuẩn bị cho mình lời mở đầu sao cho có thể thu hút
người nghe hoặc gây tác động kích thích không khí lớp học sôi nổi. Tôi
thường gọi những em bạo dạn, có khả năng nói tốt để mở đầu, tránh gọi
những em nhút nhát, khả năng nói còn yếu nói trước.
* Tạo nhu cầu, không khí tốt cho học sinh nói: Biết tạo nhu cầu nói
cho học
sinh để học sinh có nhu cầu nói thì đề tài phải có vốn sống, vốn hiểu biết
của các em đánh thức ở các em những gì các em đang có. Trước mỗi giờ
học giáo viên phải tạo bầu không khí hào hứng, cách nêu vấn đề phải hấp
dẫn để lôi cuốn học sinh vào học tập.
Biết tạo hoàn cảnh nói tốt, ngoài việc tránh sự tác động ở bên ngoài,
giáo viên còn phải biét thiết lập một quy tắc tế nhị trong hội thoại. Khi
học nói ngoài việc nghe, giáo viên cũng cần chú ý đến hoạt động chung
của cả lớp, chú ý đến tất cảnhững lời động viên, những ánh mắt nhìn bạn
bè với người nói. Đặc biệt giáo viên phải vui vẻ, tuyệt đối không có
những lời nói, những cử chỉ gay gắt với học sinh kể cả khi không vừa ý.
* Tạo tính tự tin: Để HS tự tin khi nói giáo viên phải tạo được bầu
không khí học tập thân mật cởi mở, giáo viên cần khéo léo khuyến
khích ,động viên cho các em bộc lộ và phát huy khả năng, biết gợi ý
đúng lúc khi các em lúng túng, không ngắt lời của học sinh để nhận
xét làm cho các em hoang mang thiếu tự tin và hứng thú để nói tiếp.
* Trong khi học sinh nói giáo viên tổ chức cho các học sinh khác lắng
nghe và hạn chế các yếu tố gây nhiễu trong quá trình học sinh nói. Đồng
thời giáo viên cần phải chú ý lắng nghe học sinh nói, biết tiếp sức cho học
sinh đúng lúc, các em gặp khó khăn trong việc chọn từ để diễn đạt, phải
giúp đở kịp thời nếu học sinh nói lan man, ý rời rạc không thể hiện rõ nội
dung, giáo viên có thể khéo léo ngắt lời học sinh đễ các em điều chỉnh
bằng cách tự đặt câu hỏi.Sử dụng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt HS tìm ý
hoặc gợi tìm từ ngữ diễn đạt mỗi khi lúng túng. Giáo viên cần kiên trì
hướng dẫn HS tập nói theo dàn bài một cách tự nhiên, không gò ép.
Khuyến khích HS nói nhiều cách khác nhau, khai thác sắp xếp ý theo
cách riêng của mình miễn là bám sát theo yêu cầu chung :
+ Hướng dẫn HS tập nói từng ý, nói 2 đến 3 ý liên tục, nói một
đoạn ,một phần bài và tiến tới nói toàn bài (nhất là học sinh khá giỏi), mỗi
ý giáo viên thường cho 2-3 em học sinh tập nói. Đây là nhiệm vụ chính
của tiết học. Tùy theo trình độ của học sinh mà giáo viên có thể yêu cầu
các em nói từng ý, từng đoạn hay cả bài, yêu cầu học sinh khác lắng nghe
và nhận xét kết quả trình bày của bạn về ý xem bạn đã đúng, đủ và cụ thể
hay chưa về lời, về cách dùng từ đặt câu, diễn đạt có chính xác hay
không, sau đó giáo viên tóm tắt những ý học sinh đã nói, chỉ rõ ưu,
khuyết điểm và đặt biệt nếu học sinh trình bày tốt hoặc có nhiều cố gắng,
giáo viên biểu dương và cho điểm, dẫn dắt hoặc gợi ý tìm từ ngữ diễn tả
mỗi khi học sinh lúng túng. Hướng dẫn học sinh tập nói theo dàn bài giúp
học sinh trình bày bài nói một cách tự nhiên, thoải mái. Yêu cầu học sinh
còn lại nghe bạn trình bày đễ nhận xét, rút kinh ngiệm cho bản thân.GV
giúp HS thấy rõ ưu, khuyết điểm để rút kinh nghiệm, Đồng thời khen
ngợi ,động viên HS kịp thời.
* Nâng dần mức độ nói từ thấp đến cao.( theo đối tượng HS )
Ví dụ: Với HS yếu, trung bình yếu GV gợi ý các em nói miệng mở bài
trực tiếp (hoặc thân bài nói một phần nhỏ như tả ngoại hình …..), ví dụ :
Với bài văn “Tả hình dáng và tính tình của bà em ” các em chỉ cần nói
được như “ Trong gia đình người em yêu quý nhất đó là bà ”.
Với HS khá giỏi các em nói kiểu mở bài gián tiếp (hoặc nói cả phần thân
bài ,cả bài …) . Như “Chuông đồng hồ buông chín tiếng .Màn đêm yên
ắng ,tĩnh mịch lạ thường . Chỉ còn âm thanh của gió khua xào xạc trong
khu vườn trước ngõ.Em rời bàn học ra trước sân, vươn vai hít thở không
khí trong lành để cố xua đi cơn buồn ngủ. Còn lại bài tập toán nữa ,phải
cố làm cho hết. Từ giường lên có tiếng trở mình khe khẽ. Bà nội còn thức
để chờ em .”
Phần thân bài HS yếu, trung bình yếu Với bài văn “Tả hình dáng
và tính tình của bà em ” HS chỉ cần nói được phần tả hình dáng.
HS khá giỏi cả phần thân bài: Hình dáng và tính tình, tiến tới cả bài.
* Sửa các em cách dùng từ, nếu các em dùng từ để tả chưa chính xác
thì GV gọi bạn nhận xét với gợi ý các câu hỏi của GV.
Ví dụ: Với bài văn ”Tả một em bé đang tuổi tập nói, tập đi” trong giờ tập
làm văn miệng có em nói “mái tóc của em bé mỏng manh như mảnh giấy
được tạo bởi những sợi tơ ngắn”
- Để sửa các em dùng từ, GV gọi bạn nhận xét với gợi ý câu hỏi như:
cách dùng từ để so sánh mái tóc em bé như vậy đã phù hợp chưa? HS
nhận xét, GV hướng dẫn HS sửa như: “ mái tóc của em bé mềm mượt
như tơ”
* Mở rộng thêm ý văn bổ sung về cảm xúc cho các em. Nếu học
sinh chưa sử dụng các biện pháp nghệ thuật thì giáo viên phải gợi mở đễ
bổ sung ý văn và rèn tư duy ngôn ngữ cho các em.
Ví dụ: Với bài văn “ Tả hình dáng và tính tình của cô giáo ” một học sinh
nêu: “Mái tóc đen nhánh ôm lấy khuôn mặt hồng hào của cô, thật dễ
mến”
Một học sinh khác sửa lại: “Tả hình dáng và tính tình của cô giáo ” một
học sinh nêu: “Mái tóc đen nhánh mượt mà như dòng suối ôm lấy khuôn
mặt trái xoan hồng hào của cô, thật dễ mến ”
+ Với bài văn “ Tả hình dáng và tính tình của bà em” một học sinh nói:
”Bà em có đôi mắt ánh lên vẻ hiền từ và những nếp nhăn đã hằn sâu
khuôn mặt phúc hậu của bà, tóc bà bạc trắng”
Đễ mở rộng thêm ý văn, cô giáo hỏi: Đứng nhìn ngắm bà gợi cho em cảm
xúc gì? (Lòng xót thương vì bà đã vất vả nắng sương nên tóc bà bạt trắng,
mắt mờ, lưng còng, em kính trọng bà và yêu thương bà đễ bà lúc nào
cũng vui).
+ Trong bài văn tả cảnh sinh hoạt, có em nêu: “Từ các cửa lớp, học sinh
ùa ra sân trường. Sân trường bỗng nên ồn ào. Những chiếc áo hoa, áo
trắng, áo màu thật nhộn nhịp”
Nội dung như thế là được. Câu văn gọn, rõ ý. Nhưng để sinh động hơn,
HS có thể sửa lại: “Từ các cửa lớp, học sinh ùa ra như một đàn ong vỡ tổ.
Sân trường bỗng nên ồn ào. Những chiếc áo hoa, áo trắng như những đàn
- Xem thêm -