SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"PHƯƠNG PHÁP GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN LỊCH SỬ
LỚP 11 QUA KHẮC HỌA SÂU SẮC BIỂU TƯỢNG NHÂN VẬT
LỊCH SỬ"
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây chúng ta đang đổi mới nội dung và phương pháp dạy học
theo chương trình cải cách giáo dục lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người hướng
dẫn học sinh tìm hiểu, đó là hình thức học rất hay và thông minh tạo cho các em hứng thú
học tập cao hơn so với chương trình học trước đây. Vì vậy làm thế nào để nâng cao được
chất lượng dạy và học là yêu cầu cấp thiết của ngành giáo dục hiện nay, đặc biệt là các
trường nằm trong hệ Giáo dục thường xuyên, làm sao đó đáp ứng được mục tiêu của
ngành về công tác phổ cập giáo dục trong nhân dân, đáp ứng nhiệm vụ của ngành giáo
dục đề ra, đưa đất nước phát triển tiến kịp với các nước trong khu vực. Có nhiều yếu tố và
biện pháp để nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục. Gây hứng thú là một biện pháp quan
trọng trong việc dạy và học lịch sử hiện nay vì biện pháp này nó thể hiện trên các mặt tư
tưởng tình cảm, nhận thức và hành động trong các hoạt động dạy và học, song sự hứng
thú trong nhận thức không phải là sự ngẫu hứng, tuỳ thích mà là sự định hướng có lựa
chọn, nhằm mục đích nắm vững kiến thức học tập một cách sâu sắc và toàn diện đồng
thời giúp người học biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống.
Ở bài viết này tôi xin giới thiệu một vài kinh nghiệm trong việc dạy và học. Đó là “
Phương pháp gây hứng thú học tập môn lÞch sử lớp11, qua khắc hoạ sâu sắc biểu tượng
nhân vật Lịch sử ”, để nâng cao nhận thức và chất lượng giáo dục của bộ môn lịch sử hiện
nay. Đặc biệt trong hệ thống các trường Trung tâm Giáo dục thường xuyên hiện nay.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC BỘ MÔN LỊCH SỬ TRONG
CÁC NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY.
Trong hệ thống các trường Trung tâm Giáo dục thường xuyên hiện nay nói chung
và các trường học khác trong hệ thống giáo dục nói chung như (THCS, THPT) hầu như
học sinh không còn ham thích học bộ môn lịch sử, việc này có rất nhiều nguyên nhân,
song nguyên nhân cơ bản làm cho các em nhàm chán vì yêu cầu của giáo viên bắt các em
nhớ qúa nhiều sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử một cách máy móc khô khan, mà trong giờ
học lịch sử nào thầy cô giáo cũng bắt buộc. Đặc biệt với khối giáo dục thường xuyên học
sinh đầu vào đã thấp, ý thức học lại không cao, giáo viên vừa dạy kiến thức văn hoá lại
vừa dạy cho học sinh cách ứng sử trong giao tiếp. Vì vậy, làm thế nào để học sinh có thể
nắm kiến thức môn học này tốt nhất là điều làm tôi phải suy nghĩ.
Việc học sinh chưa tích cực học môn lịch sử nói trên là đúng nhưng không phải do
bản thân bộ môn lịch sử gây ra mà chính là do quan niệm và phương pháp dạy học của
chúng ta chưa đáp ứng được nhu cầu của người học hay nói cách khác là giáo viên chưa
gây được hứng thú học tập trong giờ học bộ môn lịch sử.
2
Mặc dù đa số giáo viên đều có cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy và học
bộ môn lịch sử, song khi lên lớp hầu hết giáo viên giảng bài các kiến thức bài giảng đều
trùng khớp với sách giáo khoa không có sự cải tiến cách dạy khi nêu kiến thức bài học
nên học sinh không tập trung trong học tập bởi không có gì mới, không có gì phải suy
nghĩ, phải nghiên cứu. Trong khi đó một số thầy cô giáo khi lên lớp ở các giờ học vẫn
còn lúng túng trong việc truyền thụ kiến thức cơ bản cho học sinh, nên các em phải ghi
quá nhiều sự kiện lịch sử, tiếp nhận một khối lượng thông tin quá lớn, học sinh không
nhớ hết dẫn đến chán học.
Bên cạnh đó giáo viên chỉ giới thiệu qua loa các nhân vật lịch sử, chỉ cho học sinh
thấy chân dung nhân vật lịch sử mà không thông qua chân dung đó để giới thiệu tổng quát
về đặc điểm, tính cách, hình dáng, quan điểm, sự nghiệp, vai trò... của nhân vật lịch sử để
khắc sâu kiến thức cho học sinh, gây cho các em có những xúc cảm đối với nhân vật lịch
sử đó, từ đó tạo ấn tượng sâu sắc gây hứng thú học tập. Hơn nữa, khi kiểm tra đánh giá
giáo viên cũng ít chú ý đến nội dung kiểm tra về các nhân vật lịch sử mặc dù có một số
tiết học các nhân vật lịch sử đó đóng vai trò trung tâm trong nội dung bài giảng.
Lý do khác nữa dẫn đến học sinh không ham thích học tập bộ môn Lịch sử là do
chúng ta còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong dạy học lịch sử, trong sử dụng phương pháp
dạy học đặc thù của bộ môn nên chưa gây cho học sinh hứng thú thực sự để nâng cao chất
lượng bộ môn, trong khi nhà trường hiện nay vẫn còn thiếu nhiều phương tiện dạy học
như: băng đĩa Video, bản đồ tranh ảnh lịch sử, tư liệu tranh ảnh về các nhân vật lịch sử...
Với những lý do trên và qua nhiều năm dạy học Lịch sử 11 tôi xin nêu kết quả học
tập bằng thống kê kết quả học sinh ở năm học 2010- 2011 với số lượng học sinh yếu kém
còn nhiều, số lượng học sinh khá, giỏi ít:
Giỏi
Năm học
2010-2011
(lớp 11)
Khá
TB
Yếu - kém
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
lượng %
lượng %
Số
Tỉ lệ
lượng %
3
3.0
20
11
22
55
61
14
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
3
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài:
Với thực trạng trên, là cô giáo dạy lịch sử tôi luôn tìm tòi đưa ra những giải pháp cụ
thể để giải quyết vấn đề. Trong bài viết này bản thân tôi trình bày một kinh nghiệm nhỏ
được rút ra sau nhiều năm dạy học chương trình Lịch sử 11 hệ Giáo dục thường xuyên với
đề tài: “Gây hứng thú học tập bộ môn lịch sử lớp 11 bằng cách khắc hoạ sâu sắc biểu
tượng nhân vật lịch sử trong giờ lên lớp”.
Môn lịch sử ở nhà trường phổ thông nói chung, môn Lịch sử thế giới lớp 11 hiện
nay nói riêng, cho ta thấy rằng sách giáo khoa lịch sử lớp 11 phần lịch sử thế giới tác giả
đã soạn thảo nội dung và chương trình thật sự không khô khan, không kém phần hấp dẫn,
so với sách cũ thì sách cải cách lần này nhà biên soạn đã đưa rất nhiều các kiến thức mới
để làm tư liệu cho giáo viên và học sinh, nếu thầy cô giáo biết cách sử dụng và khai thác
nó một cách có hiệu quả trong giờ lên lớp thì kết quả đạt được rất cao.
Để làm được điều đó, yêu cầu ở người giáo viên rất cao trong tất cả mọi hoạt động
mọi khâu trong quá trình lên lớp như: hướng dẫn học sinh học tập, chuẩn bị đồ dùng dạy
học, chuẩn bị tài liệu tham khảo, các câu hỏi mở rộng, có sự liên hệ thực tế với cuộc
sống…Giáo viên chuẩn bị được tất cả những điều kiện trên thì khâu lên lớp sẽ là một quá
trình hoàn hảo, làm chủ của giáo viên, nhằm gây cho các em hứng thú học tập, tiếp thu
bài giảng có hiệu quả, để nâng cao chất lượng dạy và học, trong đó phương pháp “
Phương pháp gây hứng thú học tập lịch sử lớp 11 bằng cách khắc hoạ sâu sắc biểu tượng
nhân vật lịch sử” là một trong những biện pháp gây hứng thú học tập nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học môn lịch sử hiện nay.
Như chúng ta đã biết, sử học Mác-xít đã làm sáng tỏ quan điểm con người là chủ
thể là nhân vật trung tâm của lịch sử, còn các vị Thần linh, Đức phật, Chúa trời…qua các
câu chuyện kể chỉ là do con người nghĩ ra mà thôi. Vì vậy, sử học Mác-xít cũng khẳng
định chân lý rằng, quần chúng là người làm nên lịch sử, là động lực quyết định sự phát
triển của lịch sử là sức mạnh của lịch sử, đó là qui luật. Nhưng sử học Mác-xít không phủ
nhận vai trò của cá nhân trong lịch sử. Các-Mác khẳng định: “Mỗi thời đại xã hội đều cần
có những con người vĩ đại của nó và nếu không có những con người như thế thì…thời đại
sáng tạo ra con người ”.
Trong chương trình và nội dung bài học lịch sử thế giới lớp 11 có nhiều nhân vật
lịch sử tiêu biểu cho cả thế giới và Việt Nam. Vậy nên, khi lên lớp giáo viên cần phải chú
ý khắc sâu các biểu tượng nhân vật lịch sử đó trong giờ dạy nhằm gây sự hứng thú học tập
cho các em, đồng thời việc khắc sâu các biểu tượng nhân vật lịch sử trong giờ dạy không
những giúp các em khắc sâu được kiến thức mà cụ thể là các sự kiện lịch sử quan trọng
trong bài học mà còn giáo dục các em học tập, noi gương những đức tính tốt đẹp của các
4
nhân vật lịch sử bấy giờ để rút ra được bài học cho bản thân của các em trong cuộc sống
cũng như khi vào đời.
Trong chương trình và nội dung sách giáo khoa lịch sử lớp 11 (phần lịch sử thế
giới) hiện hành có trên 20 nhân vật lịch sử, những biểu tượng nhân vật lịch sử mà giáo
viên cần phải khắc sâu đó là những “vĩ nhân” lịch sử như: Ô-li-vơ Crôm-Oen (nhà lãnh
đạo Cách mạng tư sản Anh); Rô-bex-spi-e (nhà lãnh đạo Cách mạng tư sản Pháp); Oasinh-tơn (nhà lãnh đạo cuộc chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ); Mông-tex-ki-ơ; Rút-xô;
Vôn-te… (các nhà tư tưởng, triết học ánh sáng lớn ở Châu Âu thế kỷ XVIII); C.Mác;
Ăng-ghen (các nhà lãnh đạo cách mạng vĩ đại trong phong trào công nhân quốc tế ); Lênin (Vị lãnh tụ vĩ đại Cách mạng tháng Mười Nga); V.A.Mô-Za; Bét-thô-ven; Sô-panh
(các nhạc sĩ nỗi tiếng thế giới ở thế kỷ XVIII) ; Giêm-oát; Niu-tơn; Đác-uyn…(các nhà
phát minh khoa học). Các nhà lãnh đạo cách mạng trong phong trào giải phóng dân tộc ở
Châu Á như: Ti-Lắc (Ấn Độ); Áp-đun-ra-man (Mã Lai); A.Xu-các-nô (In-đô-nê-xi-a)…
và một số nhân vật lịch sử khác.
Phần lịch sử Việt Nam có nhiều nhân vât lịch sử nổi tiếng gắn với quá trình đấu
tranh xâm lược, đặc biệt phong trào chống Pháp của nhân dân ta trong những năm cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX như Nguyễn Tri Phương, Trương Định, Nguyễn Trung Trực,
Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết, Hàm Nghi, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, vua Duy
Tân...và đặc biệt là Nguyễn Tất Thành người đã ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc
trong bối cảnh đất nước gặp nhiều đau thương khi Pháp xâm lược, nhất là chứng kiến sự
thất bại của nhiều bậc tiền bối đi trước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, đây là nhân
vật lịch sử có vai trò quan trọng đối với lịch sử dân tộc nên SGK có phần bài riêng nói về
nhân vật này. Vì vậy, giáo viên cần lưu ý chú trọng vì nó còn liên quan tới lịch sử 12 sau
này.
Như vậy, toàn bộ chương trình lịch sử thế giới lớp 11 hiện hành học sinh phải nhớ
trên 25 nhân vật lịch sử, cùng với hơn 15 nhân vật chính trong phần lịch sử Việt Nam, do
đó một trong những điều gây khó khăn đã làm giảm hứng thú học tập của học sinh đối với
bộ môn này .
Vì vậy muốn các em nhớ lâu và hiểu sâu sắc các nhân vật lịch sử đó thì giáo viên
phải biết khắc sâu những biểu tượng nhân vật lịch sử đó vào trong tâm trí của các em
bằng cách nêu những đặc điểm, hình dáng của từng nhân vật thì các em thấy được tư liệu
thầy cô cung cấp kiến thức ngoài hấp dẫn, tạo cho các em sự hào hứng học tập. Từ các
nhân vật lịch sử đó các em biết rút ra những bài học quý báu cho bản thân vừa để học tập,
vừa phấn đấu. Nhưng nếu ngược lại thầy (cô) giáo chỉ giới thiệu qua loa như: cho xem
tranh ảnh minh hoạ trong SGK thôi, đọc những phần giới thiệu mà sách cung cấp, rồi thầy
5
cô giáo bắt các em phải nhớ tên, nhớ năm sinh, quê hương… của từng nhân vật lịch sử
dẫn đến các em nhàm chán trong quá trình học tập.
Muốn dạy tốt và học tốt môn lịch sử, ngoài những nguyên tắc và phương pháp bắt
buộc khi lên lớp, giáo viên cần phải biết khắc sâu nhân vật lịch sử ngay trong giờ học.
Việc khắc sâu biểu tượng nhân vật lịch sử ngay trong giờ học có nhiều cách làm, song bản
thân tôi xin nêu vài kinh nghiệm đã thu được trong cả năm học 2011-2012 ở 3 lớp 11A1,
11A2 và 11A3 và đặc biệt là qua nhiều năm dạy lịch sử 11 mà tôi đã trực tiếp giảng dạy.
2. Các giải pháp thực hiện
Trong chương trình lịch sử 11hệ GDTX, trước khi lên lớp giáo viên cần xác định cho
được những đặc điểm, hình dáng…của nhân vật lịch sử, rồi khắc hoạ cho học sinh nắm
được, nhằm gây hứng thú học tập cho các em. Theo tôi được phân ra nhiều biện pháp sau:
2.1 Trước hết giáo viên cần phải khắc sâu hình dáng nhân vật lịch sử
Mỗi nhân vật lịch sử đều có một hình dáng, tác phong riêng của mình. Nếu thầy cô
giáo chỉ giới thiệu sơ lược cho học sinh về hình dáng nhân vật qua hình ảnh trong SGK
cung cấp thì các em không có cảm nhận về nhân vật đó và không có tác dụng giáo dục
cao, mà kinh nghiệm cho thấy là, khi dạy đến nhân vật lịch sử, giáo viên phải giới thiệu
một vài đặc điểm về hình dáng nhân vật, khắc sâu hình dáng riêng, đặc điểm riêng để các
em dễ làm quen, dễ hiểu biết và nhớ lâu về nhân vật đó, để dễ so sánh với các nhân vật
lịch sử khác trong quá trình học. Để từ đó chúng ta đánh giá được ngay con người ấy qua
từng hình ảnh sinh động riêng mà giáo viên cần phải là người hướng dẫn tìm lối đi cho
học sinh.
Qua quá trình dạy và áp dụng biện pháp này, bản thân có 3 sáng kiến xử lý như:
a) Có nhân vật lịch sử chúng ta cần phải mô tả một số nét chân dung nhằm mục
đích giúp học sinh biết kỹ và hiểu sâu sắc về nhân vật đó.
Ví dụ: Khi dạy bài 1 “Nhật Bản” (SGK), Ở mục 2: “Cuộc Duy Tân Minh Trị” giáo
viên sử dụng hình 1 SGK và cho học sinh quan sát về Thiên Hoàng Minh Trị (1852 1912). Vì trong SGK chỉ có tranh mà không có một tư liệu nào nói về nhân vật này, trong
khi đó vua Minh Trị có vai trò rất lớn đối với nước Nhật đó là tiến hành cải cách trên mọi
lĩnh vực những năm 60 của thế kỷ XIX, đưa đất nước Nhật Bản từ một nước phong kiến
trở thành một nước tư bản rồi tiến lên trở thành một đế quốc hùng mạnh ở Châu Á và đi
xâm lược các nước khác trên thế giới (đặc biệt là tham gia cuộc chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914 - 1918). SGK không miêu tả hình dáng Minh Trị, nếu giáo viên chỉ đưa ảnh
trong SGK cho học sinh xem thì không có ý nghĩa gì, mà giáo viên cần phải vừa cho các
6
em xem ảnh (nếu photo càng tốt) vừa giới thiệu cho học sinh thấy rõ Vua Minh Trị
(Mutsôhitô) là một người trẻ tuổi lên ngôi năm 1867 lúc đó ông mới 15 tuổi, dáng người
nhỏ, có đôi mắt sáng, cái nhìn tinh anh, sắc và đôi lông mày rậm, tư thế nghiêm trang
dáng con nhà dòng tộc...Chứng tỏ rằng Minh Trị là một con người cương nghị cứng rắn
nhưng táo bạo có năng lực, có học thức, có đầu óc cách tân trong chính phủ. Với cách tả
hình dáng như vậy nhằm mục đích khắc hoạ sâu sắc hình ảnh của Vua trong đầu học sinh
và làm cho các em mau chóng hiểu biết về nhân vật này, qua đó giáo dục cho các em lòng
kính trọng yêu quí những người đã có công với đất nước, chúng ta cần phải trân trọng và
luôn ghi nhớ, từ đó giúp các em tìm hiểu thêm về cuộc đời của Minh Trị trong bài học
cũng như tài liệu khác ngoài SGK.
Trên cơ sở đó, nhân vật Tôn Trung Sơn trong bài 3: “Trung Quốc”- Mục 3: “Tôn
Trung Sơn và Cách Mạng Tân Hợi (1911)” hình 7(SGK) giáo viên gợi mở câu hỏi cho
học sinh như:
- Nhìn vào bức chân dung em thấy Tôn Trung Sơn như thế nào?
- Em có suy nghĩ gì về nhân vật này?
- Ông có tác động như thế nào đối với Trung Quốc nói chung và thế giới nói riêng?
Với những câu hỏi gợi mở như vậy bắt buộc học sinh phải suy nghĩ về nhân vật
này, điều đó tạo cho học sinh sự khám phá tìm tòi... Sau đó giáo viên gợi mở cho các em
những gì cần phải lưu tâm và bằng sự chuẩn bị của mình người giáo viên hướng dẫn chi
tiết cụ thể về lịch sử Trung Quốc ở giai đoạn này, sau đó cho học sinh xem bức chân dung
của Tôn Trung Sơn:
Tôn Trung Sơn (1866 - 1925)
Giáo viên hướng dẫn học sinh xem bức chân dung của ông trong SGK và thấy
khuôn mặt của ông luôn đăm chiêu suy nghĩ, lông mày rậm mắt sáng, vầng chán cao, là
người thông minh, luôn lo lắng cho cuộc sống của nhân dân trước tình cảnh đất nước một
lúc có 8 nước đế quốc xâm lược. Ngoài những kiến thức trong SGK cung cấp, giáo viên
7
có thể thêm tư liệu về Tôn Trung Sơn, nhất là về mối tình của ông với Tống Khánh Linh
một trong ba chị em gái sinh đẹp tài giỏi được sinh ra trong một gia đình tư sản lớn ở
Thượng Hải. Cha của Tống Khánh Linh là Tống Giá Thụ một mục sư đạo cơ đốc đã từng
học ở Mĩ, lại cũng là một gia đình cách mạng dân chủ. Tôn Trung Sơn phát động cuộc
chiến tranh chống Viên Thế Khải bị thất bại, đầu tháng 8/1913 phải chạy sang Nhật. Lúc
này Tống Khánh Linh vừa tốt nghiệp Đại học, trên đường về nước có ghé qua Nhật Bản,
bà nghe nói Tôn Trung Sơn đang tìm một người thư ký liền đến xin làm không một chút
do dự. Tống Khánh Linh hết sức giúp đỡ Tôn Trung Sơn làm việc. Bà đảm nhiệm mọi
công việc chỉnh lý văn kiện, xử lý điện mật... hai người đều có sức cuốn hút lẫn nhau vì
đều có chung mục tiêu cách mạng, cùng có lòng yêu nước nồng nàn... đã giúp nhau trong
khó khăn gian khổ và bắt đầu lặng lẽ yêu nhau. Và một năm sau hai người đính hôn với
nhau, gia đình Tống Khánh Linh không chấp nhận, cho rằng cuộc kết hôn này không
thích hợp và đủ lý do khác nhưng Tống Khánh Linh không hề giao động, bà nói rằng bà
chỉ sung sướng khi được làm việc với Tôn Trung Sơn... và bà quyết tâm đi Nhật. Ngày
25/10/1915 Tống Khánh Linh kết hôn với Tôn Trung Sơn.
Hoặc với Tổng thống Rurơven bài 13: “Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới”
(1918 – 1939); Gan-đi, Mao Trạch Đông trong bài 15: “Phong trào cách mạng Trung
Quốc và Ấn Độ”; Xucácnô bài 16: “Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh”
(1918 - 1939)... giáo viên cũng lần lượt mô tả hình dáng của các ông thật sâu sắc gây cảm
xúc cho học sinh qua chân dung trong sách giáo khoa, gây cho học sinh có những ấn
tượng khó quên về các bậc lãnh tụ đó.
b) Có những nhân vật lịch sử cần mô tả về phong thái và đặc điểm chung
Giáo viên không thể đặc tả tỉ mỉ chi tiết từng nhân vật lịch sử, nhưng cũng không vì
vậy mà bỏ đi hoặc lướt qua. Do đó giáo viên có thể lược tả chung chung nhưng vẫn nêu
được đặc điểm đáng ghi nhớ và vẫn phải đạt được yêu cầu là qua đặc tả phong thái và một
vài nét chung đó có thể làm cho học sinh thấy được phẩm chất của nhân vật lịch sử đó.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 7: “Những thành tựu văn hoá thời cận đại” đã giới thiệu vài nét
về Betthôven (năm sinh 1770 - 1827, nơi ở Đức) hình 16-SGK
8
Betthôven(1770-1827)
là nhạc sĩ, nhà soạn nhạc người Đức. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống lâu
đời về âm nhạc. Tám tuổi Betthôven tham gia trình diễn trong dàn nhạc cung đình,12 tuổi
bắt đầu sáng tác âm nhạc,16 tuổi đã nổi tiếng. Vì vậy khuôn mặt của ông trong bức chân
dung hình 16 SGK thể hiện sự đăm chiêu suy nghĩ của nhà soạn nhạc cổ điển người Đức.
Phần lớn thời gian ông sống ở Viên, Áo. Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng trong
giai đoạn giao thời từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông có thể
được coi là người dọn đường (Wegbereiter) cho thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Beethôven
được khắp nơi công nhận là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất và có ảnh hưởng tới rất nhiều
những nhà soạn nhạc, nhạc sỹ, và khán giả về sau.
Trong số những kiệt tác của ông phải kể đến các bản giao hưởng như Giao hưởng
số 2 Rê trưởng, Giao hưởng số 3 Mi giáng trưởng (Anh hùng ca), Giao hưởng số 5 Đô thứ
(Định mệnh), Giao hưởng số 6 Fa trưởng (Đồng quê), Giao hưởng số 7 La trưởng, Giao
hưởng số 9 Rê thứ (Niềm vui), các tác phẩm cho dương cầm như Für Elise và các sonata
Bi tráng (Pathétique), Ánh trăng (Moonlight), Bình minh (Waldstein), Khúc đam mê
(Appasionata)... các sonata cho vĩ cầm như Mùa xuân (Spring), Kreutzer... các Piano
Concerto số 2, số 3, số 5 Emperor (Hoàng đế), Violin Concerto D major... các khúc mở
màn Overture Coriolan, Leonore, Egmont...
Năm 1781, Beethoven 11 tuổi, ông đã biểu diễn như một nghệ sĩ piano điêu luyện
tại Hà Lan. Cũng trong thời gian này, ông cũng được cử làm phụ tá chơi đàn organ trong
nhà thờ tại Bon. Năm 1782 chính Neefe đã cho xuất bản tác phẩm đầu tiên của
Beethoven, bản "Các variation cho clavecin của bản march của Ernst Christoph Dressler".
Cũng chính trong năm này, Beethoven trở thành người đại diện cho Neefe ở dàn nhạc
hoàng gia với vai trò nghệ sĩ đại phong cầm. Năm 14 tuổi, Beethoven giành được vị trí
chính thức là nghệ sĩ chơi đại phong cầm trong dàn nhạc này. Tuy nhiên trong thời gian
này ông vẫn tiếp tục luyện tập dương cầm.
9
Năm 1795, Beethoven bắt đầu nổi danh là một nghệ sĩ piano với bản Concerto cung
trưởng. Nhưng chẳng may từ năm 1780 ông bắt đầu bị lãng tai. Lúc đầu ông mất hết hy
vọng nhưng rồi cố gắng thích nghi với điều kiện sống và bắt đầu tập trung tư tưởng tình
cảm cao độ hơn bất cứ lúc nào hết trong sáng tác.
Những tác phẩm của Beethoven hoàn thành trong khoảng 1803-1805 vượt trội hẳn
những gì mà ông sáng tác trước đó. Đó là bản Sonate Kreutzar (1803) viết cho violon và
piano. Bản Giao hưởng Số 3 Anh hùng ca (1804) có sức cuốn hút mạnh mẽ và gây xúc
động sâu xa, lúc đầu ông đề tặng Napoléon nhưng khi Napoléon lên ngôi Hoàng đế thì
ông đã xé đi lời đề tặng. Các Sonate cho piano, Bình minh (1804) và Appasionta (1805),
Bản Giao hưởng Số 4 (1806), Bản Giao hưởng Số 5 Định mệnh (1808) đều có giá trị nghệ
thuật lớn lao. Ông muốn lột tả trong âm thanh về một cuộc sống trong sự đấu tranh với cái
chết bằng một sức mạnh khủng khiếp cuối cùng đã ca khúc khải hoàn, như nhân vật nữ
trong vở Opera Fidelio (1805) ra sức bảo vệ người chồng của mình chống lại sự xấu xa
bạo tàn, và trong khúc Missa Solemnis là lời cầu nguyện để giải thoát khỏi đau thương.
Từ đó giáo viên có thể so sánh Betthoven với MôZa là hai nhà âm nhạc thiên tài của
thế giới đã để lại cho đời những tác phẩm âm nhạc bất hủ đến bây giờ vẫn còn được nhiều
người yêu thích dòng nhạc cổ điển này.
Nhà toán học Tago (1861 - 1941), Hô-xê Mác-tin (1823 - 1893)... sang mục “ Trào
lưu tư tưởng tiến bộ...” ( trang 41 SGK ) hình 20 có chân dung của Hê-ghen (1770- 1830),
đối với nhân vật lịch sử này giáo viên đặc tả cho học sinh thấy được phong thái suy tư sâu
rộng qua vẻ mặt của Hê-nghen một con người luôn suy tư nghiên cứu về triết học một
ngành khoa học đầy lý luận trong lịch sử xã hội loài người bấy giờ.
Ví dụ 2: Cũng trong bài 13: “Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 1939)” để khắc sâu hình ảnh tổng thống Rurơven (Hình 36- SGK) giáo viên giới thiệu
hình ảnh đáng ghi nhớ, vị tổng thống xuất sắc của nước Mĩ bấy giờ khi có những quyết
định táo bạo nhằm đưa nước Mĩ thoát khỏi khủng hoảng...
Ví dụ 3: Bài 15 “Phong trào cách mạng ở Trung Quốc” (trang 79 SGK) chân dung
Mao Trạch Đông (hình 39- SGK) sau đó giáo viên đặc tả những nét chung và những
phẩm chất tốt đẹp Mao Trạch Đông được thể hiện qua chân dung với phong cách nghiêm
nghị, ánh mắt nhìn thẳng, thể hiện tính cứng rắn và cương quyết trừng trị bọn phản cách
mạng, luôn luôn bảo vệ quyền lợi cho nhân dân.
Vậy chỉ cần ít phút để khắc sâu nhân vật lịch sử trong bài học sẽ làm cho các em
luôn có cảm tình với các nhân vật đó, qua đó các em sẽ khắc sâu được vai trò của các
nhân vật lịch sử nhất là các lãnh tụ của các cuộc đại cách mạng, cũng từ đó giáo viên
giáo dục các em biết tôn trọng các nhân vật lịch sử, biết noi gương những phẩm chất tốt
10
đẹp mà các nhân vật lịch sử có được mà giáo viên đã đặc tả được ngay trong giờ lên lớp,
đồng thời gây được hứng thú cho các em ham thích học tập bộ môn lịch sử thế giới .
Bên cạnh việc đặc tả về phong thái của từng nhân vật, giáo viên có thể giới thiệu
thêm những đặc điểm đặc biệt như năng khiếu, năng lực, tính cách đạo đức, hoàn cảnh
bản thân…của nhân vật lịch sử có được để làm nổi bật nhân vật lịch sử đó, giúp cho học
sinh có ấn tượng sâu sắc, hoặc cảm thông với từng nhân vật, làm cho các em hiểu và nhớ
lâu các sự kiện lịch sử đã xảy ra có liên quan đến nhân vật lịch sử trong giai đoạn đó.
Ví dụ 3 : Khi dạy bài 7:“ Những thành tựu văn hoá thời cận đại” mục 1 “Sự phát
triển của văn hoá trong buổi đầu thời cận đại”. Trong nội dung bài dạy có nói sự phát
triển âm nhạc nhiều thiên tài xuất hiện như Mô-Za, Bách và Bét-thô-ven, Sô-panh. Để học
sinh nhận biết về các nhân vật này một cách sâu sắc giáo viên có thể giới thiệu vài nét về
đặc điểm đặc biệt về các nhân vật này. Ví dụ như Mô-Za “là một thiên tài âm nhạc, lúc
lên 3 tuổi đã biết chơi đàn, lúc 5 tuổi đã biễu diễn đàn trước hoàng tộc lúc 6 tuổi đã đã
biết sáng tác nhạc…”
Mô-za(1756-1791)
Với cách giới thiệu đó có thể gây hứng thú cho các em làm cho các em nhớ mãi về
những nhân vật xuất sắc này bằng cách đưa bức chân dung của ông cho học sinh xem và
có thể so sánh các nhân vật thiên tài âm nhạc với nhau. Mặc dù SGK không có tranh ảnh
của các nhà âm nhạc này.
c) Chọn một vài nét về hình dáng của con người
Để minh hoạ nhắm khắc sâu hình ảnh của nhân vật lịch sử vào trong trí nhớ của học
sinh, giáo viên cần phải biết cách kết hợp các tư liệu khác để hoàn thiện mục đích bài học
của mình.
Vì vậy, làm sống lại nhân vật lịch sử đó trước mắt của các em. Chúng ta có thể sử
dụng kho tư liệu trên các trang Wed liên quan đến giảng dạy như violet...là thư viện giáo
án điện tử bổ ích trong việc sử dụng các phương tiện hiện đại trong dạy học lịch sử, như
11
dạy trên Powerpoint, Violet. Giáo viên có thể sưu tầm tranh, ảnh các nhân vật lịch sử liên
quan đến bài dạy với việc in, phô tô ảnh cỡ lớn hoặc sử dụng trong trình chiếu sẽ có tác
dụng rất tích cực.
2.2) Chọn lọc những hoạt động tiêu biểu hay sự nghiệp của nhân vật để khắc
sâu kiến thức cho học sinh.
a) Một nhân vật lịch sử bao giờ cũng có một sự nội dung bài học lịch sử ngoài
những nhân vật chính diện, còn có một số nhân vật phản diện như : Hít-le (bài “Nước Đức
giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới”). Đối với những nhân vật này giáo viên không cần
hình ảnh hay chân dung để minh hoạ, mà cần khắc hoạ bằng lời nói với những lời lẽ hết
sức lôi cuốn. Vì đây là nhân vật phản diện.
Ví dụ: Giáo viên có thể mô tả vài nét về Hít-le có gương mặt hiểm hóc, hiếu chiến
thể hiện là một tên trùm phát-xít. Ông sinh năm 1889 tại nước Áo gần biên giới nước
Đức. Bố y là thợ đánh giầy, thuở nhỏ Hitle học kém hay bỏ học, khi bố mẹ mất, Hitle lưu
lạc đến thủ đô Viên làm nghề như quét tuyết, đập thảm, vận chuyển hành lý để kiếm sống.
Năm 1913 Hitle đi lính ở Đức, 1917 y được phong hàm hạ sĩ. Sau chiến tranh y làm mật
thám cho Bộ Chính Trị Lục Quân Đức. Năm 1919 y ra nhập Đảng công nhân Đức. Năm
1920 y công bố 25 điểm của Đảng gọi là chủ nghĩa xã hội, sau đó y đổi tên thành Đảng
Quốc Xã để tuyên truyền lừa bịp. Đảng phát triển rất nhanh và y cho ra lá cờ hình chữ
thập ngoặc về sau là lá cờ chung của chủ nghĩa phát xít. Năm 1932 Hítle ra tranh cử Tổng
thống tuy không đắc cử nhưng cũng giành được 38,6% số phiếu. Năm 1030 Đảng Quốc
Xã lên nắm quyền. Năm 1934 Hítle trở thành Quốc trưởng nước Đức và xúc tiến cuộc
chiến tranh thế giới, kẻ gây Chiến tranh thế giới lần thứ II gây ra bao cảnh đau thương cho
nhân loại, từ đó giáo dục các em biết căm thù chiến tranh, căm ghét những kẻ gây ra chiến
tranh.
Tóm lại để gây hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên không nên bỏ qua bất cứ
hình ảnh nhân vật lịch sử nào, mà người thầy cô giáo cần phải khắc sâu các nhân vật lịch
sử đó ngay trong giờ lên lớp, song cũng không nên rập khuôn một cách máy móc, người
thầy giáo phải biết chọn lọc những chi tiết hết sức cần thiết và những nét sinh động nhất
để khắc sâu vào tâm trí các em, đặc biệt là thầy cô giáo phải biết dùng lời nói sao cho phù
hợp với nhân vật nhất định.
Trong một thời gian ngắn ngủi (45phút) trên lớp, người thầy cô giáo dạy sử chúng
ta không thể nào kể lại toàn bộ sự nghiệp của nhân vật, mà chỉ có thể chọn lọc một trong
hai hoạt động tiêu biểu nhất trong cuộc sống hoặc những hoạt động điển hình nhất, cần
phải chọn lọc tinh giảm cao độ nhưng phải đầy đủ chính xác, làm sao khi giảng không
nông cạn, không mơ hồ, đây là việc làm rất khó, qua thực tế thực hiện ở lớp học tôi xin
đúc kết một vài kinh nghiệm về mặt lí luận và kết hợp với thực tiễn như sau:
12
Trước hết giáo viên phải nắm vững yêu cầu lịch sử cụ thể (thời gian xảy ra sự kiện
đó, xảy ra ở nước đó), trên cơ sở nắm vững vấn đề trên giáo viên chọn hoạt động cần nêu
ra của một nhân vật, đặc biệt giáo viên phải cho học sinh nắm được tình huống xuất hiện
của nhân vật lịch sử, để học sinh thấy rõ vấn đề trước yêu cầu của lịch sử xuất hiện nhân
vật lịch sử, trong mọi tình huống đó giáo viên phải nêu rõ mâu thuẫn xã hội, tránh không
được nêu chung chung mà phải đi sâu vào tình hình và phân tích chung.
Ví dụ 1: khi dạy bài 15: Cách mạng Trung Quốc và Ấn Độ (1918 - 1939)
( Mục 2: “Chiến tranh Bắc phạt (1926-1927) và cuộc chiến Quốc cộng 1927 – 1937”
SGK Lớp 11), chúng ta muốn khắc sâu nhân vật lịch sử Mao Trạch Đông cho học sinh
nắm vài đặc điểm của nhân vật này, trong sách giáo khoa không có giới thiệu gì về Mao
Trạch Đông mà chỉ nêu rằng “ Để bảo toàn lực lượng, 10/1934 Hồng quân công nông
phải tiến hành cuộc phá vây, rút khỏi căn cứ địa cách mạng, tiến lên phía bắc, trong lịch
sử gọi là cuộc “Vạn lý trưòng chinh”. Trên đường trường chinh tại hội nghị Tân Nghĩa
(tỉnh Quý Châu) tháng 1/1935, Mao Trạch Đông trở thành người lãnh đạo Đảng Cộng Sản
Trung Quốc. Và hình 39- SGK chụp ảnh Mao Trạch Đông trên đường Vạn Lý trường
chinh. Nếu trình bày như vậy thì học sinh không biết Mao Trạch Đông là ai và sao lại
được quyền lãnh đạo Đảng Cộng Sản? dẫn đến kiến thức nông cạn, không gây hấp dẫn
cho các em bằng cách giáo viên giới thiệu mâu thuẫn cụ thể giữa chính quyền Tưởng
Giới Thạch (cụ thể là Quốc Dân Đảng) và Đảng Cộng Sản để học sinh thấy được với mâu
thuẫn đó không thể không xảy ra cuộc chiến tranh giữa hai Đảng, một bên đại diện quyền
lợi cho nhân dân, một bên đại diện cho giai cấp tư sản đứng sau hỗ trợ là Mĩ. Giáo viên
trình bày cho học sinh thấy lịch sử Trung Quốc lúc này không phải yêu cầu một nhân vật
đứng đầu chỉ huy một sự chuyển biến chung chung, mà là yêu câù một nhân vật lịch sử cụ
thể để lãnh đạo Đảng Cộng Sản tiến hành một cuộc chiến tranh và cuộc nội chiến để bảo
vệ nhân dân. Với cách trình bày như vậy thì chúng ta đã khắc sâu được nhân vật lịch sử
Mao Trạch Đông và giúp các em khắc sâu được kiến thức của bài học lịch sử ngay tại lớp.
Thậm trí giáo viên còn phải cung cấp thêm tư liệu về vị lãnh tụ này như: Mao Trạch Đông
sinh ra trong một gia đình nông dân ở Hồ Nam. Sau 1911 ông tham gia vào Cách mạng ở
Hồ nam. Năm 1917 Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã ảnh hưởng tới việc tiếp
thu chủ nghĩa Mác Lê-nin của ông. Năm 1920 ông thành lập tổ cộng sản ở Hồ Nam. Năm
1921 ông thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc ở Thượng Hải. Năm 1923 ông được bầu
làm uỷ viên Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản trung Quốc. Năm 1934 ông tham
gia “Vạn lý trường chinh”, chuyển quân đội cách mạng lên miền Bắc... để thấy được sự đi
lên của ông trong quá trình cách mạng.
Ví dụ 2: Cũng tương tự như vậy, đối với bài này mục 1 (II) “ Phong trào độc lập
dân tộc trong những năm 1918-1929” ở Ấn Độ. Giáo viên cần phải khắc sâu nhân vật
13
M.Gan-đi (hình 40-SGK) về quá trình hoạt động cách mạng của ông. Trong SGK chỉ nêu
Gan-đi một lãnh tụ có uy tín lớn và có ảnh hưởng sâu rộng với nhân dân Ấn Độ.
Ngược lại, nhân vật G.Oa-sinh-Tơn thì khác, qua hoạt động quân sự của G.Oa-sinhtơn, trong SGK chỉ nêu rằng: “G.Oa-sinh-Tơn là một chủ nô giàu , có tài quân sự và tổ
chức, được cử làm tổng chỉ huy nghĩa quân”, SGK không nêu lên hoạt động quân sự của
G.Oa-sinh-tơn. Do đó giáo viên phải mô tả một vài hoạt động tiêu biểu, để cho học sinh
thấy rằng G.Oa-sinh-tơn là một thủ lĩnh quân sự đáp ứng được nhu cầu giải quyết mâu
thuẫn lúc bấy giờ giữa nhân dân “13 Bang thuộc địa Bắc Mĩ” với bọn thực dân Anh. Ví
dụ như sau:
(George Washington; 1732 - 99), tổng thống đầu tiên của Hoa Kì (1789 - 97).
Người lãnh đạo cuộc chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa của Anh ở Bắc Mĩ. Vốn là
một chủ đồn điền - chủ nô giàu có ở Vơginia (Virginia), miền Nam nước Mĩ. Lúc đầu,
theo xu hướng ôn hoà nhưng sau đó là người kiên quyết theo đuổi chủ trương lật đổ chế
độ thuộc địa của Anh ở Mĩ, thành lập quốc gia độc lập. Là người đại diện của bang
Vơginia trong 2 Hội nghị lục địa lần I và lần II (1774, 1775) - các cuộc hội nghị mang
tính độc lập và thống nhất của 12 bang trong cuộc đấu tranh vì một mục đích chung ở
Philađenphia (Philadelphia). Sau 2 Hội nghị, ông giành được uy tín tuyệt đối. Ngày
10.5.1775, Hội nghị lần II kết thúc và quyết định thành lập Quân đội Lục địa. Oasinhtơn
được cử làm tổng chỉ huy. Trong các năm 1776 - 81, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh
lớn, đặc biệt các trận ở Xarơtâugơ (Saratoga, 1777), Yooctao (Yorktown, 1781)... gây cho
Anh nhiều thất bại nặng nề. Năm 1783, Anh buộc phải kí với Hoa Kì Hiệp ước Vecxay
1787 thừa nhận nền độc lập của các thuộc địa ở Bắc Mĩ. Chiến tranh còn kéo dài thêm
một thời gian nữa nhưng cuối cùng vào năm 1787, dưới sự chủ trì của Oasinhtơn một Hội
nghị Liên bang đã được triệu tập. Hội nghị đã thông qua bản Hiến pháp 1787, nhằm biến
Hoa Kì từ một liên bang nhiều quốc gia thành một quốc gia liên bang. Sau khi Hiến pháp
được phê chuẩn năm 1788, Oasinhtơn được bầu làm tổng thống. Năm 1793, ông là người
chủ trương không tham gia vào liên minh các nước Châu Âu chống Cách mạng.
b) Một số tình huống xuất hiện những nhân vật lịch sử: trong các bài học thuộc
chương III trong SGK “ Châu Á ở thế kỷ XVIII - Đầu thế kỷ XX” ví dụ học về Cách
mạng Trung Quốc có lãnh tụ Tôn Trung Sơn, Cách mạng Pháp, cách mạng Ấn Độ có lãnh
tụ Ti-Lắc, hoặc bài “ Châu Á (1918 – 1945)” có lãnh tụ M.Gan-đi (1869 – 1948), Cách
mạng ở Mã Lai có lãnh tụ Áp-đun Ra-man, Cách mạng In-đô-nê-xi-a có nhà cách mạng
A.Xu-các-nô … như vậy cuối thế kỷ XIX và những năm đầu của thế kỷ XX yêu cầu lịch
sử đặt ra cho mỗi quốc gia nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giành độc lập
dân tộc, lúc này mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa với đế quốc thực dân ngày càng sâu
14
sắc, nên các nhân vật lịch sử đó xuất hiện và đã giải quyết được mâu thuẫn đó theo yêu
cầu của lịch sử .
Phần lịch sử Việt Nam chúng ta cần khắc sâu những nhân vật lịch sử có vai trò quan
trọng với tiến trình lịch sử dân tộc như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng và đặc biệt là Nguyễn Tất Thành. Những nhân vật lịch sử trên tạo dấu ấn trong
phong trào cứu nước đầu thế kỉ XX.
Ví dụ: Ở bài 30 mục II có mục 3 về hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi ra đi
tìm đường cứu nước. Đây là mục quan trọng của tiết học và cũng là bước đánh dấu hướng
đi mới của người so với các bậc tiền bối. Giáo viên cho học sinh xem ảnh :
rồi khắc sâu thân thế của người, hoàn cảnh gia đình bối cảnh đất nước và việc lựa chọn
hướng đi mới của người là phương Tây, muốn đánh Pháp phải hiểu biết về nước
Pháp....Giáo viên có thể kể câu chuyện về Nguyễn Tất Thành và người bạn lúc ra đi để
thấy được quyết tâm và nghị lực của người, của một bậc vĩ nhân sau này. Giáo viên có thể
đọc một đoạn thơ:
“... Đất nước đẹp vô cùng
Nhưng Bác phải ra đi...”
Giáo viên kể về công việc của người trên tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin, rồi đến các
Châu Lục, các nước với công việc của một người lao động bình thường. Qua đó học sinh
thấy được những hoạt động bước đầu của Người nhưng rất quan trọng để xác định con
đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Giáo viên có thể tích hợp việc học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh ở mục này.
2.3) Khắc sâu vài chi tiết phụ của nhân vật lịch sử
15
Sau khi đã khắc sâu đặc điểm, hình dáng hay các hoạt động điển hình của nhân vật,
giáo viên còn có thể khắc hoạ sâu sắc nhân vật lịch sử vài nét về thân thế, sự nghiệp, trình
độ học vấn …để giúp học sinh hiểu sâu hơn, rộng hơn và nhớ lâu về nhân vật lịch sử đó.
Ví dụ : Trong bài 7 “ Những thành tựu văn hoá thời cận đại” Giáo viên phải chuẩn
bị tốt về những hoạt động tiêu biểu nhất của Mác và Ănghen, Lê-nin. Ví dụ khi giới thiệu
về Mác, Ăng-ghen và Lê-nin, SGK chỉ nêu đơn giản mang tính chất thông báo về ba ông,
không giới thiệu về hoạt động của Mác, Ăng-ghen và Lê-nin, khi dạy phần này giáo viên
có thể giới thiệu nhanh khoảng 4 phút về ba ông : như Mác không những học giỏi, đỗ tiến
sĩ mà vừa là một nhà nghiên cứu khoa học, tham gia cách mạng, vừa là lãnh đạo phong
trào công nhân quốc tế; đối với Ăng-ghen cho học sinh nắm rõ, Ăng-ghen sinh ra trong
một gia đình chủ xưởng giàu có ở Đức, nhưng Ông từ bỏ sự nghiệp làm giàu của gia đình,
quyết định đi tìm hiểu nỗi thống khổ của giai cấp công nhân và đấu tranh cho sự nghiệp
giải phóng giai cấp công nhân. Từ sự giới thiệu đó giáo viên có thể cho học sinh thấy
được những điểm giống nhau trong tư tưởng của Mác và Ăng-ghen và cũng bắt đầu từ
quan điểm chung đó, hai Ông đã gặp nhau và trở thành đôi bạn tri kỉ, lâu bền và cảm động
mà SGK đã nêu ra ý này.
Hoặc giáo viên có thể khắc sâu nhân vật lịch sử bằng cách cho học sinh nắm những
nét tương đồng xuất thân gia đình hay từ nghề nghiệp của nhân vật đó…ví dụ như CrômOen xuất thân từ gia đình quý tộc mới, Oa-Sinh-Tơn là kỹ sư… hoặc có thể kích thích
tâm lý học tập cho các em giáo viên có thể cho học sinh biết thêm về nhà lãnh đạo cách
mạng Ấn Độ, Ti-Lắc vừa là lãnh đạo phái cấp tiến chống thực dân Anh cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, vừa là một nhà sử học thông thái, nhà ngôn ngữ học danh tiếng .
Các nhân vật lịch sử trong phần lịch sử Việt Nam có vai trò rất quan trọng với
phong trào chống Pháp trong thời kì này.
Vua Hàm Nghi trong bài 21 “ Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt
Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX” có thể khái quát như sau:
Vua Hàm Nghi là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, là em ruột của vua Kiến Phúc (tức vua
Đồng Khánh). Sau khi vua Tự Đức qua đời 1883, trước thời Hàm Nghi cả ba vua Dục
Đức, Hiêp Hòa, Kiến Phúc lên nối ngôi, nhưng khi vua Kiến Phúc đột ngột qua đời trong
lúc tình hình đang có lợi cho phái chủ chiến trong triều đình. Cuối cùng Tôn Thất Thuyết
đã chọn Ưng Lịch là người nối ngôi vì vua ủng hộ lập trường chống Pháp. Năm 1884 Ưng
Lịch lên ngôi lấy niên hiệu là Hàm Nghi và cùng phái chủ chiến tiến hành phát động
phong trào Cần Vương….
Lúc bấy giờ trong phong trào Cần Vương còn có nhân vật điển hình và được nhiều
người biết đến đó là Nguyễn Tri Phương, quê ông ở xã Chánh Lộc -Huyện Phong Điền-
16
Tỉnh Thừa Thiên, xuất thân trong một gia đình làm ruộng nghề thợ mộc, nhà nghèo không
xuất thân từ khoa bảng nhưng nhờ ý chí tự lập ông đã làm nên nghiệp lớn. Năm 1832 ông
được sung làm phái bộ sang Trung Quốc về việc thương mại. Năm 1835 ông nhận lệnh
vua Minh Mạng vào Gia Định cùng Trương Thanh Giảng bình định các vùng mới khai
hoang. Việc thành công ông được phong làm thị lang. Đến năm 1845 Khâm sai quân thứ
đại thần Trấn Tây hàm Tòng Hiệp Biện Đại Học Sĩ rồi được thưởng danh hiệu “ An Tây
chí dũng tướng” năm 1847. Sau đó ông được sung chức khâm sai ở Gia Định, Biên
hòa ,Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên…
Chúng ta có thể khái quát vài nét về Phạm Bành (1830-1887) người làng Trương
Xá nay thuộc xã Hoa Lộc - Hậu Lộc - Thanh Hoá, đậu cử nhân năm 1864, từng làm án sát
Nghệ An. Đinh Công Tráng (1835-1887) quê Thanh Liêm - Hà Nam, từng chiến đấu
trong đội quân Hoàng Tá Viêm. Năm 1886 ông bắt liên lạc với Trần Xuân Soạn và trở
thành lãnh tụ của khởi nghĩa Ba Đình.
Các nhân vật trong lịch sử địa phương như Tống Duy Tân, Cao Điển, Cầm Bá
Thước, Hà Văn Mao, Hà Văn Nho cũng cần được khái quát để học sinh khắc ghi về
những lãnh tụ của phong trào Cần Vương, là người con ưu tú của xứ Thanh.
Ví dụ: Trong bài 26 “Phong trào kháng chiến chống Pháp trong những năm cuối
thế kỉ XIX” chúng ta cần cho học sinh nắm được những nét chính về thân thế và sự
nghiệp của nhà lãnh đạo Phan Đình Phùng (1847-1895), quê Hà Tĩnh, đỗ tiến sĩ năm
1877, làm tri huyện Yên Khánh (Ninh Bình) rồi về kinh đô vào Viện Đô sát làm Ngự Sử.
Năm 1883 ông phản đối việc Tôn Thất Thuyết phế Dục Đức lập Hiệp Hoà và bị đuổi về
quê. Tuy vậy khi triều đình kháng chiến ông tham gia tích cực và được giao chỉ huy
phong trào ở Hà Tĩnh và lãnh đạo phong trào trong 10 năm (1885-1895)...
Bên cạnh đó là những nhân vật lịch sử khác như Hoàng Hoa Thám một lãnh tụ xuất
sắc của phong trào nông dân. Qua hình ảnh trong SGK, giáo viên cho các em biết thêm về
ông, là một người gắn bó mật thiết với nông dân, lãnh tụ can đảm, tài năng của nông dân,
nghĩa quân Yên Thế tất cả đều phục tùng ông. Tổ chức đánh phục kích, đánh trong rừng,
vận dụng sáng tạo địa hình trong chiến đấu. Bác Hồ cũng đã nhận xét về ông “Người anh
hùng dân tộc ấy cùng một số ít nghiã quân của ông đã chiếm cả một tỉnh nhỏ và chiến đấu
với thực dân Pháp trong nhiều năm”.
Nguyễn Trường Tộ là nhân vật tiêu biểu cho tư tưởng cải cách cuối thế kỉ XIX. Là
trí thức Thiên Chúa Giáo yêu nước, đã từng sang Pháp, học hỏi được nhiều kinh nghiệm
về kinh tế, văn hoá Phương Tây, ông đã gửi 30 bản tấu thỉnh lên vua Tự Đức trong vòng 8
năm. Nhưng những đề nghị cải cách của ông đã không được thực hiện.
17
Tất nhiên trong quá trình sử dụng những tư liệu nói trên để khắc sâu hình ảnh của
các nhân vật lịch sử nhằm gây hứng thú học tập cho các em, để nâng cao chất lượng dạy
và học là điều rất cần thiết, nhưng người thầy, người cô không vì thế mà tham lam chồng
chất nhiều kiến thức để phủ lên bộ nhớ các em, cuối cùng làm cho các em không nhớ gì
lại đâm ra chán học. Do đó muốn đạt được mục đích trên thầy cô giáo phải biết chọn lọc
tức là giản và tinh chứ không phải nhiều số lượng là quyết định được sự tiếp thu kiến thức
của học sinh và gây hứng thú cho các em học tập tốt bộ môn lịch sử .
Muốn có được như vậy người giáo viên phải tích luỹ nhiều tư liệu lịch sử có nhiều
kiến thức lịch sử chi tiết và phong phú nhưng sống động, biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa
các phương pháp tâm lý học để vận dụng tốt kiến thức vào bài giảng đúng lúc đúng nơi,
đúng nội dung yêu cầu của bài, ngoài ra giáo viên còn phải biết kết hợp khai thác giữa
kiến thức trong sách giáo khoa với kiến thức ngoài sách giáo khoa, kết hợp lời nói truyền
cảm với chân dung hay hình ảnh của nhân vật lịch sử, biết so sánh đối chiếu giữa các
nhân vật lịch sử nhằm nâng cao giá trị nhận thức cho các em.
Để đạt được mục đích trên, người giáo viên phải mất nhiều công sức như sưu tầm
tài liệu, tranh ảnh của từng nhân vật lịch sử mà trong tiết dạy yêu cầu, biết chọn lọc, kết
hợp đưa những kiến thức ngoài sách giáo khoa vào bài giảng đúng phương pháp dạy học
mà bộ môn yêu cầu. Tất cả việc làm trên mặc dù tốn nhiều thời gian và sức lực nhưng khi
đạt được mục đích yêu cầu của bài học đề ra trong một tiết học trên lớp 45 phút ngắn ngủi
thì người giáo viên như tôi cảm thấy nhẹ nhỏm, quên đi mệt mỏi lo âu, làm cho học sinh
hứng thú, phấn khởi học tập sau một giờ lên lớp công phu của giáo viên và học sinh. Đó
là sự nổ lực của cả tập thể giáo viên và học sinh trong một tiết học.
3. Các biện pháp tổ chức thực hiện
Trong dạy và học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, người giáo viên phải biết
khéo léo tổ chức việc khắc hoạ sâu sắc hình ảnh nhân vật lịch sử, nhằm nâng cao hoạt
động nhận thức của học sinh, có tác dụng rất lớn trong việc gây hứng thú học tập cho học
sinh, đây là việc cần phải làm của giáo viên, vì có hứng thú học tập, rung cảm của người
học nhất là học sinh Trung tâm GDTX, là đối tượng học sinh đặc biệt nên rất nhạy cảm .
Gây hứng thú học tập là chiếc cầu nối, là phương tiện để góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học tập bộ môn lịch sử hiện nay, đây là yêu cầu phải làm thường xuyên đối
với giáo viên. Những cách thức, những con đường hay và biện pháp nêu trên của bản thân
tôi để gây hứng thú cho các em học tập trong một tiết dạy lịch sử lớp 11- đặc biệt là với
đối tượng học sinh ở trường Trung tâm GDTX Đông Sơn nói riêng và các Trung tâm khác
nói chung hiện nay. Đó cũng là một trong nhiều phương pháp để gây hứng thú học tập
cho học sinh chúng tôi.
18
Để kiểm nghiệm lại quá trình thực hiện sáng kiến này, ngoài việc tiến hành
các phương pháp trên bản thân tôi còn tiến hành kiểm tra thực tế qua các hình thức: kiểm
tra miệng, 15 phút đầu giờ, kiểm tra 1 tiết đều có kèm theo các câu hỏi về nhân vật lịch
sử, các câu hỏi kiểm tra bản thân tự ra đề hoặc được sưu tầm, tìm tòi qua các sách tham
khảo như sách giáo viên của tác giả Phan Ngọc Liên (tổng chủ biên), sách bài tập lịch sử
của tác giả: Trịnh Đình Tùng (chủ biên )…để đưa vào bài tập thường xuyên và định kỳ.
Nó như là một động lực giúp học sinh tìm hiểu qua sách báo, qua truyền hình, qua
Intơnét...để mang lại một cái gì đó cho các em sau này khi nói đến Lịch sử trên thế giới,
đặc biệt là lịch sử nước nhà (Lịch sử Việt Nam) như Bác Hồ đã nói :
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam...”
Thực tế hiện nay học sinh biết đến Lịch sử Trung Quốc nhiều hơn là lịch sử Việt
Nam, nhất là qua các kỳ thi vào Đại học và Cao đẳng hiện nay mà báo đài hay nói đến.
Bản thân tôi là giáo viên dạy Lịch sử, tôi tự thấy mình cũng có một phần trách nhiệm,
nhất là dạy trong trường Trung tâm GDTX cần nổ lực nhiều hơn nữa trong dạy và học.
Sau đây là một số bài tập về nhân vật lịch sử mà bản thân tôi đã ra đề, để vừa khắc
sâu kiến thức nhân vật lịch sử cho học sinh - vừa kiểm tra việc tiếp thu kiến thức đó như
thế nào qua các lần kiểm tra ( miệng, 15 phút đầu giờ, 45 phút định kỳ …).
Ví dụ 1: Ở bài 7 “ Những thành tựu văn hoá thời cận đại”, giáo viên có thể ra câu
hỏi (dạng tự luận) : Em hiểu biết gì về các nhân vật Xanh Xi-Mông, Phu-ri-ê, Ô-oen ?
( Sách bài tập lịch sử tác giả Trịnh Đình Tùng … Nhà xuất bản giáo dục năm 2007), để
khắc sâu hình ảnh nhân vật lịch sử này tôi còn kèm theo câu hỏi sau : Nhân vật Xanh-XiMông, Phu-ri-ê, Ô-oen có liên quan đến sự kiện lịch sử quan trọng nào trong “Cách mạng
tư sản Pháp 1789” ?
Ví dụ 2: Ở bài 15 “Phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ (1918-1939)”.
Để nắm lại những kiến thức đã học về nhân vật lịch sử Mao Trạch Đông ông đã có
vai trò gì trong cuộc nội chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng Sản? Giáo viên có thể
ra đề dưới dạng điền thế vào ô trống để học sinh dễ nhớ về nhân vật này.
Ví dụ 3 : Ở bài 3 “ Trung Quốc”
Để đánh giá kiểm tra việc tiếp thu kiến thức về nhân vật lịch sử Tôn Trung Sơn nhà
lãnh đạo cách mạng Trung Quốc với phong trào Cách mạng Tân Hợi năm 1911. Giáo
viên có thể ra đoạn văn ngắn để học sinh nhận biết và nhận xét nhân vật lịch sử như sau:
Em hãy cho biết đoạn tiểu sử sau đây nói về nhân vật nào? em hãy nhận xét về nhân vật
lịch sử đó? “ Ông là nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc, lãnh đạo cuộc cách mạng Tân
19
Hợi lật đổ triều đình phong kiến nhà Mãn Thanh và thiết lập nhà nước Trung Hoa dân
quốc … Ngày 24 tháng 12 năm 1911, Ông về nước và được cử làm Tổng Thống của
chính phủ Trung ương lâm thời. Ngày 1-1-1912 Ông nhận chức tại Nam Kinh và tuyên bố
thành nước Trung hoa dân quốc.
Ngày 13 tháng 2 năm 1912, để lôi kéo phái quân phiệt, ông từ chức để Viên Thế
Khải lên thay. Sau đó Viên Thế Khải phản bội, ông lại tập hợp lực lượng các tỉnh phía
Nam để chống lại. Tháng 8 năm 1912 ông hợp tác với Đảng Cộng Sản Trung Quốc để bổ
sung cho chủ nghĩa Tam dân thêm ba nội dung nữa: liên minh với Liên Xô, liên minh với
Đảng Cộng Sản và dựa vào công nông.
Ngày 13-3-1925, Ông đã từ trần. Đó là một tổn thất cho phong trào cách mạng
Trung Quốc”( Bài tập Lịch sử lớp 11 của tác giả Trịnh Đình Tùng ).
Từ bài 3 này để hệ thống câu hỏi học sinh nắm được toàn bộ kiến thức của bài và
nhớ nhân vât lịch sử trong bằng cách giải ô chữ bài tập 8- trang 13 (vở bài tập Lịch sử 11)
như sau:
Ví dụ 4: Giáo viên có thể đặt trước vài câu hỏi về mỗi nhân vật lịch sử để các em
làm theo :
Câu hỏi: Một số vấn đề về nhân vật và sự kiện lịch sử Trung Quốc giữa thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX.
I. Ô chữ hàng ngang
1. Chính đảng của giai cấp tư sản Trung Quốc ra đời năm 1905?
2. Cuộc cách mạng gắn liền với tên tuổi của Tôn Trung Sơn?
3. Cuộc khởi nghĩa do Đồng Minh Hội phát động 10/10/1911?
4. Tên ông vua trị vì ở Trung Quốc đã lãnh đạo Duy Tân?
5. Một trong hai nhà nho yêu nước đã lãnh đạo Duy Tân?
6. Một cuộc khởi nghĩa tiêu biểu cuối thế kỉ XIX?
7. Người được Quốc dân đại hội bầu làm đại tổng thống?
8. Tên một đại thần của triều Mãn Thanh được giữ chức Đại tổng thống khi vua
Thanh thoái vị ?
II. Ô chữ hàng dọc
? Tên triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc
20
- Xem thêm -