Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Skkn phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh...

Tài liệu Skkn phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học môn vật lí ở trường thcs

.DOCX
18
178
109

Mô tả:

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC MÔN VẬT LÍ Ở TRƯỜNG THCS. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay cần phải có những con người có kiến thức, có trình độ, có khả năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại. Muốn như vậy, ngay từ đầu các cấp học giáo viên cần phải trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản nhất, trang bị cho học sinh từ ý thức học tập, năng lực tự học, tự trao dồi, tìm kiếm kiến thức mới. Trên cơ sở đó học sinh có thể vận dụng linh hoạt những kiến thức đã được học vào cuộc sống và lao động. Với yêu cầu trên mỗi giáo viên ngoài việc truyền thụ kiến thức cho học sinh, giáo viên còn phải hình thành cho học sinh năng lực hoạt động, năng lực tư duy sáng tạo. Giúp học sinh biết vận dụng kiến thức, thu thập kiến thức. Từ đó xử lí được các vấn đề đặt ra trong khoa học và đời sống một cách hợp lí. Kiến thức và kỹ năng là một trong những yếu tố cấu thành năng lực của học sinh. Nhưng với trình độ phát triển khoa học và kỹ thuật với điều kiện tiếp cận thông tin như hiện nay, thì năng lực đạt được kiến thức và xử lý thông tin trở nên vô cùng quan trọng và được đặt lên hàng đầu. Việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong mỗi giờ học đã trở thành một trong những nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy học. Nhờ đặc điểm của môn Vật lí và mối liên hệ chặt chẽ những kiến thức Vật lí với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, mà việc giảng dạy Vật lí ở trường tạo ra rất nhiều khả năng để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học. Trong chương trình Vật lí THCS dạy học theo hướng tích cực không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học hiện có và thay vào đó là các phương pháp mới. Các phương pháp dạy học truyền thống, với nét đặc trưng cơ bản là cung cấp những tri thức khoa học dưới dạng có sẵn đều có mặt tích cực của nó. Nếu giáo viên biết tìm cách cải tiến để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ học thì sẽ làm cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và luôn có niềm đam mê thích được nghiên cứu học tập, luôn yêu thích học tập môn Vật lí. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ học môn Vật lí nhằm giúp học sinh có thêm nhiều phương pháp học tập tốt, lĩnh hội được toàn bộ các kiến thức trong các giờ học, từ đó vận dụng được vào trong cuộc sống một cách thiết thực và có hiệu quả tôi đã chọn đề tài: “Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học môn Vật lí ở trường THCS ” để làm đề tài nghiên cứu. 2. Tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu Trong giờ dạy môn Vật lí giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức, hay giải những bài tập có sẵn trong SGK mà phải giúp cho học sinh hiểu rằng các thành tựu khoa học ngày nay có những đóng góp không nhỏ của Vật lí. Nền văn minh mà nhân loại có được không thể thiếu những công trình, những nghiên cứu khoa học của các nhà Vật lí vĩ đại như: Aristotle, Ixac Newton, Anbe Anhxtanh… Giáo viên nên giới thiệu và kể nhiều về các câu chuyện liên quan đến môn Vật lí, bởi khi đó sẽ kích thích tính tò mò, ham muốn tìm hiểu những cái mới của học sinh, khuyến khích học sinh tìm đọc nhiều hơn tài liệu môn Vật lí. Từ đó học sinh hiểu rằng môn Vật lí không phải môn học khô khan và khó hiểu, mà nó là một môn học rất lý thú, là một môn khoa học để khám phá thế giới và tầm ảnh hưởng của nó đến đời sống hằng ngày của chúng ta là rất lớn. Ở lứa tuổi này nhiều học sinh có tâm lý rụt rè, không thích tạo sự chú ý nên thường thụ động trong giờ học, ngại phát biểu, ít trao đổi trong hoạt động nhóm vì thế đa số học sinh chọn phương án ngồi nghe giáo viên giảng một cách thụ động, không hề phát biểu hay có một phản hồi nào khác dù hiểu hay chưa hiểu, từ đó tạo nên thói quen không chịu suy nghĩ và làm cho giờ học không sôi nổi và hiệu quả thấp. Vì vậy giáo viên cần thay đổi cách học đó của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn, khuyến khích đặt câu hỏi xây dựng bài học, mạnh dạn thảo luận xây dựng các phương án thực hành trong hoạt động nhóm. Từ đó học sinh luôn có niềm đam mê với khoa học nhiều hơn, đặc biệt luôn yêu thích môn học Vật lí. 3. Những thực trạng liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu 4. a) Đối tượng nghiên cứu Học sinh trường THCS Sơn Đông – Lập Thạch – Vĩnh phúc 1. b) Thời gian nghiên cứu Từ tháng 9 đến tháng 2 năm học 2014 -2015. 1. c) Phạm vi nghiên cứu Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ học môn Vật lí ở trường THCS Sơn Đông – Lập Thạch – Vĩnh phúc. 4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu được giới hạn trong giờ học môn Vật lí PHẦN II: NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Trong giáo dục hoạt động cơ bản là dạy và học. Trong đó hoạt động dạy học không chỉ đơn thuần là cung cấp cho học sinh kiến thức có sẵn và những kinh nghiệm xã hội mà còn góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo mục tiêu đào tạo. Mục tiêu của bài viết này là tôi muốn giúp cho học sinh tích cực, chủ động và ham học tập, biết vận dụng phương pháp học tập có hiệu quả nhất đối với bản thân. Qua đó học sinh nắm được vững vàng kiến thức Vật lí, rèn khả năng tư duy lô gíc và lý luận thực tế. Hơn nữa rèn luyện tính năng động, sáng tạo, cách làm việc khoa học. Đó là những phẩm chất của người ham nghiên cứu khoa học, ham học tập… phải được hình thành ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. 1. CƠ SỞ THỰC TIỄN 2. Đặc điểm tình hình Trường THCS Sơn Đông có cơ sở vật chất nhà trường khang trang, phòng học và phòng thí nghiệm thực hành kiên cố, sạch sẽ, đúng qui cách, có đồ dùng dạy học, dụng cụ thí nghiệm thực hành tương đối đầy đủ . Giáo viên được đào tạo có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, kiến thức phong phú. Luôn thực hiện tốt việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong soạn, giảng làm cho tiết dạy thêm sinh động. Trong giờ học thí nghiệm thực hành giáo viên phát huy tối đa đồ dùng dạy học hiện có. Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, sách bài tập, sách tham khảo, dụng cụ học tập đầy đủ và nhu cầu nhận thức của học sinh càng phát triển tích cực. 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Mỗi môn học có một đặc trưng riêng. Môn Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm. Các vấn đề mà môn Vật lí nghiên cứu đều là những vấn đề liên quan đến các hiện tượng, quy luật, trong cuộc sống, trong lao động. Nắm được khoa học kỹ thuật vừa giúp cho học sinh có cơ sở để đạt được những mục đích, yêu cầu đã đề ra ở trên, đồng thời giúp cho học sinh có thể vận dụng được những kiến thức đã học vào trong thực tế cuộc sống. 1. a) Thuận lợi Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn và sự nhiệt tình cộng tác của các đồng nghiệp trong trường. Bản thân luôn tích cực áp dụng đề tài trong từng tiết dạy trên lớp. Học sinh ngoan ngoãn, lễ phép có nhiều cố gắng muốn được vươn lên nhiều hơn nữa trong học tập. 1. b) Khó khăn Đối với môn học Vật lí là môn khoa học thực nghiệm khó, cần phải đi từ các thí nghiệm để phát hiện sự vật hiện tượng. Từ đó phân tích, rút ra nhận xét, kết luận, hình thành kiến thức mới. Đặc biệt là nhiều kiến thức liên quan đến những hiện tượng hàng ngày học sinh thường gặp, cũng như những kinh nghiệm trong thực tiễn cuộc sống. Chính vì vậy, khi dạy những kiến thức mới giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh thực hiện tốt các hoạt động thí nghiệm thực hành, để rút ra nhận xét, kết luận theo yêu cầu của bài học. Nếu không học sinh thường có những suy nghĩ, phán đoán theo kiểu cảm tính về những hiện tượng được nghiên cứu. Và điều này sẽ tạo nên những khó khăn trong việc hình thành kiến thức mới cho học sinh. Học sinh trong lớp không đồng đều, có sự chênh lệch về nhận thức rất rõ rệt, đặc biệt nhận thức về môn học tự nhiên. Lý do là các em chưa biết phương pháp học tập, rỗng kiến thức nên sinh ra chán học, không muốn đầu tư thời gian, tâm huyết vào việc tìm tòi khám phá. Không chỉ vậy mà còn có một số học sinh chưa yêu thích môn học. III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Để phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ học môn Vật lí, tôi nghiên cứu, phân loại nội dung kiến thức và áp dụng một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ học môn Vật lí. Cụ thể là: Phương pháp dạy học thí nghiệm Vật lí; Phương pháp dạy học một hiện tượng Vật lí; Phương pháp dạy học một đại lượng Vật lí; Phương pháp dạy học một định luật Vật lí; Phương pháp dạy học tiết bài tập Vật lí. Phương pháp dạy học tiết thực hành Với các phương pháp đó cần phải áp dụng phù hợp cho từng nội dung, từng bài dạy. Không chỉ vậy còn phải thực hiện theo đúng tiến trình thì mới đem lại hiệu quả cao trong từng tiết dạy. 1. Phương pháp dạy học thí nghiệm Vật lí Quy luật của quá trình dạy học là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, song quá trình nhận thức đó đạt hiệu quả cao hay không còn phụ thuộc vào phương pháp giảng dạy của giáo viên và quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh. Vật lí là một trong những môn học có ưu thế trong việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Các dụng cụ thí nghiệm là một trong những phương tiện thể hiện phương pháp dạy học tích cực trong các giờ học thí nghiệm, trong đó thí nghiệm phải kích thích được hứng thú óc sáng tạo của học sinh. Muốn đạt được điều đó giáo viên phải tìm hiểu thật kỹ nội dung bài dạy, các dụng cụ và các bước thí nghiệm sẽ làm trước khi giảng dạy. 1. a) Tiến trình hoạt động – Phải cho học sinh thảo luận để hiểu rõ được mục tiêu của thí nghiệm, từ đó tạo ra hứng thú nhận thức thích thực hành thí nghiệm ở học sinh. – Giáo viên giới thiệu các dụng cụ thí nghiệm, cho học sinh tìm hiểu đầy đủ chức năng của từng bộ phận có trong dụng cụ thí nghiệm được sử dụng. – Cho học sinh thảo luận về các bước của việc tiến hành thí nghiệm, những yêu cầu cần quan sát hay đo đạc trong mỗi bước thí nghiệm. Phải chuẩn bị các bảng ghi số liệu thu được từ thí nghiệm. – Xử lí các kết quả thu được từ thí nghiệm, rút ra mối liên hệ giữa các quan sát, giữa các số liệu, lập biểu đồ, đồ thị… Từ đó rút ra nhận xét, kết luận, hình thành kiến thức mới. 1. b) Lưu ý: Với phương pháp này giáo viên cần phải chuẩn bị thật kĩ thí nghiệm trước khi đưa vào dạy học, cần dự phòng trước các tình huống có thể dẫn tới các thí nghiệm không thành công, từ đó tìm ra nguyên nhân khắc phục. 2. c) Ví dụ: Thí nghiệm để rút ra kết luận về từ tính của nam châm. – Học sinh thảo luận, nêu được mục tiêu của thí nghiệm là khẳng định được nam châm có tính chất từ. – Giáo viên giới thiệu các dụng cụ thí nghiệm cho học sinh: Kim nam châm, giá đặt kim, thanh nam châm, một số mảnh kim loại bằng sắt, nhôm, đồng. – Học sinh thảo luận các bước tiến hành thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm theo hướng dẫn của giáo viên. – Từ kết quả thí nghiệm thu được: Nam châm là những vật hút sắt; khi cân bằng kim nam châm luôn đứng tự do theo hướng Nam – Bắc. Từ những kết quả thu được từ thí nghiệm học sinh rút ra kết luận là nam châm có tính chất từ. 2. Phương pháp dạy học một hiện tượng Vật lí Có nhiều hiện tượng xảy ra trong đời sống hằng ngày không thể áp dụng hết các công thức để tính toán chính xác được. Vì vậy có nhiều hiện tượng cần phải giải thích về mặt định tính cho phù hợp với nhận thức của học sinh. Có thể nêu lên một vấn đề, vận dụng những kiến thức đã được học để giải thích những hiện tượng đó một cách khoa học, sẽ tạo được niềm đam mê thích được nghiên cứu học tập của học sinh. 1. a) Tiến trình hoạt động – Giáo viên nêu ra một số hiện tượng trong đời sống hằng ngày mà chúng ta hay gặp, nêu vấn đề đó ra cho học sinh suy nghĩ. Ví dụ như tại sao khi bỏ chiếc đũa vào tô nước ta nhìn thấy chiếc đũa bị gãy khúc…? Giáo viên có thể tiến hành thí nghiệm cho học sinh quan sát hiện tượng đó. – Trên cơ sở những hiện tượng mà học sinh quan sát, nhìn thấy được trong thực tế đời sống hay trong những thực nghiệm. Bằng những câu hỏi định hướng hợp lí, giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện được những dấu hiệu chung, bản chất của hiện tượng Vật lí. – Giáo viên cho học sinh kiểm tra kết luận thông qua các quan sát và thí nghiệm khác. – Diễn đạt kết luận thu được bằng những thuật ngữ Vật lí thành các khái niệm, hiện tượng được nghiên cứu. 1. b) Lưu ý: Trong phương pháp dạy học một hiện tượng Vật lí thì khái niệm về hiện tượng Vật lí mới chỉ đề cập tới mặt định tính của hiện tượng Vật lí. 2. c) Ví dụ: Dạy học hiện tượng khúc xạ ánh sáng – Giáo viên nêu giả thuyết và tiến hành thí nghiệm cho học sinh quan sát một hiện tượng Vật lí. Tại sao khi bỏ chiếc đũa vào tô nước ta nhìn thấy chiếc đũa bị gãy khúc? – Những câu hỏi liên quan giáo viên yêu cầu học sinh trả lời: + Phát biểu định luật truyền thẳng ánh sáng? + Có thể nhận biết được đường truyền của tia sáng bằng những cách nào?… – Sau khi học sinh quan sát hiện tượng giáo viên yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi sau: + Ánh sáng truyền trong không khí và trong nước đã tuân theo định luật nào? + Hiện tượng ánh sáng truyền từ không khí sang nước có tuân theo định luật truyền thẳng của ánh sáng hay không? + Khi tia sáng truyền từ không khí sang nước có đặc điểm gì? – Giáo viên yêu cầu học sinh phát biểu kết luận về hiện tượng khúc xạ ánh sáng. 3. Phương pháp dạy học một đại lượng Vật lí Đại lượng Vật lí là các thể hiện về mặt định lượng bản chất Vật lí có thể đo lường được của một vật thể hay hiện tượng tự nhiên, như khối lượng, trọng lượng, thể tích, vận tốc, lực… Khi đo đạc một đại lượng, giá trị đo được là một con số theo sau bởi một đơn vị đo. 1. a) Tiến trình hoạt động – Phát hiện đặc điểm định tính của đại lượng Vật lí; Bằng cách nêu lại một tình huống thực tế trong đời sống có liên quan đến bài học hôm nay, hay tiến hành một thí nghiệm đơn giản, giải thích một bài tập Vật lí… Giáo viên tạo tình huống trong đó xuất hiện tính chất mới của sự vật, hiện tượng không thể giải thích bằng các đại lượng Vật lí đã biết ở các bài học trước, bắt buộc phải đưa ra một đại lượng Vật lí mới để giải thích hiện tượng mới. Lúc đó, học sinh hiểu rõ việc đưa ra đại lượng Vật lí mới để làm gì? Để đặc trưng cho tính chất mới nào của sự vật, hiện tượng? Trả lời được câu hỏi đó chính là đã phát hiện được đặc điểm định tính của đại lượng Vật lí. – Làm sáng tỏ đặc điểm định lượng của đại lượng Vật lí; Đặc điểm định lượng của đại lượng Vật lí thường được biểu diễn bằng một biểu thức toán học liên hệ giữa đại lượng mới với đại lượng đã biết. – Định nghĩa đại lượng Vật lí; Định nghĩa đại lượng Vật lí có nghĩa là nêu cả đặc điểm định tính và đặc điểm định lượng của đại lượng Vật lí. Đối với các đại lượng Vật lí mà đặc điểm định tính của nó về sau mới được làm sáng tỏ thì trong định nghĩa đại lượng Vật lí, ta chỉ nêu đặc điểm định lượng của nó. – Xác định đơn vị đo đại lượng Vật lí; Ngoài các đơn vị cơ bản, mọi đơn vị đo đều được xác định dựa trên biểu thức của đại lượng. Sau khi xác định được đơn vị đo phải chú thích được đơn vị đo dưới dạng các kí hiệu. – Vận dụng đại lượng Vật lí; Trong giai đoạn này, học sinh vận dụng các kiến thức vừa học để giải thích những sự vật hiện tượng cụ thể trong đời sống hằng ngày, dự đoán những dấu hiệu, hiện tượng có thể cảm nhận được trong thực tiễn bằng giác quan, có thể đo lường cụ thể và giải các bài tập tính toán. 1. b) Lưu ý: Mỗi đại lượng Vật lí có thể có một hoặc nhiều đơn vị đo khác nhau, nhiều kí hiệu giữa các đại lượng có thể trùng nhau. Đơn vị đo của đại lượng Vật lí này có mối liên hệ chặt chẽ với biểu thức đã lập cho đại lượng Vật lí mới. Vì vậy giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh cách chuyển đổi về một đơn vị chuẩn và một kí hiệu đặc trưng được bản chất của đại lượng Vật lí mới. 2. c) Ví dụ: Hình thành kiến thức về một đại lượng Vật lí mới “Điện trở suất”. – Giáo viên cho học sinh tiến hành thí nghiệm mắc sơ đồ mạch điện với ba dây dẫn có cùng chiều dài, cùng tiết diện nhưng được làm bằng ba vật liệu khác nhau (đồng, sắt và constantan). Xác định điện trở của ba dây dẫn có cùng chiều dài, cùng tiết diện nhưng được làm từ các vật liệu khác nhau. – Qua thí nghiệm trên học sinh rút ra được kết luận: Điện trở của dây dẫn phụ thuộc vào vật liệu làm dây dẫn. – Sự phụ thuộc của điện trở vào vật liệu làm dây dẫn được đặc trưng bằng đại lượng nào? Đại lượng đó được phát biểu như thế nào? (Học sinh trả lời cá nhân); – Điện trở suất được kí hiệu như thế nào? Đơn vị đo của nó là gì? Cho biết điện trở suất của đồng là 1,7.10-8 .m con số đó có ý nghĩa là gì? – Sau khi xây dựng công thức điện trở của dây dẫn có điện trở suất , giáo viên cho học sinh làm một bài tập vận dụng để khắc sâu hơn kiến mới mà học sinh vừa mới lĩnh hội được. 4. Phương pháp dạy học một định luật Vật lí Định luật Vật lí là mối quan hệ khách quan, phổ biến giữa các thuộc tính của các đối tượng, các quá trình và trạng thái được mô tả thông qua các đại lượng Vật lí, tồn tại trong những điều kiện xác định và thể hiện khi những điều kiện này xuất hiện, tương đối bền vững và có thể lặp lại. 1. a) Tiến trình hoạt động – Trước tiên ôn tập để nắm vững các đại lượng Vật lí được đề cập trong định luật sẽ được khảo sát trong bài học; – Thiết lập và tiến hành các thí nghiệm trong đó có thể lần lượt tác động làm thay đổi trị số của hai trong số các đại lượng Vật lí, còn các đại lượng khác được giữ nguyên không đổi. Trong mỗi lần thí nghiệm, khi làm thay đổi trị số của một đại lượng sẽ dẫn tới sự thay đổi trị số của đại lượng khác. Lập bảng ghi lại trị số phụ thuộc và tương ứng của hai đại lượng này; – Từ bảng, lập đồ thị biểu diễn mối quan hệ phụ thuộc giữa hai đại lượng. Từ đó suy luận lô gíc để tìm ra mối quan hệ định lượng giữa hai đại lượng. Nếu định luật phản ánh mối quan hệ giữa nhiều đại lượng thì lại lặp lại thí nghiệm tương tự đối với một cặp đại lượng khác và suy luận về mối quan hệ định lượng giữa cặp đại lượng này; – Tiến hành tổng hợp, khái quát hoá và suy luận toán học, trên cơ sở mối quan hệ định lượng giữa các cặp đại lượng đã tìm được, để đi tới tổng quát giữa các đại lượng được đề cập trong định luật được khảo sát; – Phát biểu định luật, viết công thức biểu thị mối quan hệ giữa các đại lượng, chú thích các đơn vị, kí hiệu các đại lượng trong công thức; – Áp dụng định luật cho một số bài toán cụ thể, từ đơn giản đến phức tạp. 1. b) Lưu ý: Giáo viên nên tìm cách giúp đỡ học sinh trong quá trình tổng hợp, khái quát hoá, suy luận quy nạp cũng như suy luận toán học trong thí nghiệm. Giáo viên cần đầu tư suy nghĩ các giải pháp sư phạm phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh. 2. c) Ví dụ: Xây dựng hệ thức định Ôm trong bài “Điện trở của dây dẫn – Định luật Ôm”. – Trước hết cho học sinh ôn lại kiến thức về sự phụ thuộc của cường độ dòng điện vào hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn. – Xác định thương số đối với hai dây dẫn khác nhau. – Cho học sinh tìm hiểu đại lượng Vật lí mới, đó là điện trở của dây dẫn. Điện trở dây dẫn biểu thị mức độ cản trở dòng điện nhiều hay ít của dây dẫn; – Cho học sinh tìm hiểu mối quan hệ giữa cường độ dòng điện I, hiệu điện thế U và điện trở R của dây dẫn. Từ đó xây dựng được hệ thức của định luật Ôm I = . – Từ hệ thức của định luật, yêu cầu học sinh phát biểu thành định luật và chú thích các đại lượng, đơn vị đo có trong hệ thức của định Ôm. – Cho học sinh làm bài tập vận dụng ở câu C 3; C4 trang 8 sách giáo khoa để học sinh khắc sâu hơn kiến thức của định Ôm. 5. Phương pháp dạy học tiết bài tập Vật lí Bài tập Vật lí sẽ giúp học sinh hiểu sâu hơn những qui luật Vật lí, những hiện tượng Vật lí. Thông qua các bài tập ở các dạng khác nhau, các cách giải khác nhau, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng linh hoạt những kiến thức để tự lực giải quyết thành công những tình huống, thì những kiến thức đó mới trở nên sâu sắc và trở thành vốn riêng của học sinh. Để làm được điều này đòi hỏi giáo viên phải đưa ra nhiều phương pháp cũng như các cách giải khác nhau trong cùng một bài tập. Từ đó thấy được những ưu điểm và hạn chế trong mỗi cách giải để áp dụng phù hợp cho từng nhóm đối tượng học sinh. 1. a) Tiến trình hoạt động – Ôn lại kiến thức cần vận dụng để giải bài tập đã được học ở các bài trước. – Giáo viên lựa chọn các bài tập để giải trong tiết học: + Bài tập từ đơn giản đến phức tạp. + Các bài tập định tính, các bài tập định lượng, các bài tập trắc nghiệm và bài tập tự luận. + Các bài tập thường có nhiều cách giải khác nhau. + Các bài tập để ra thêm cho học sinh khá giỏi. – Giáo viên để cho từng học sinh tự lực giải mỗi bài tập trong 10 phút. Sau đó đề nghị một học sinh trình bày cách giải, học sinh khác nhận xét và có thể nêu cách giải khác. Nếu cách giải khác khó thì cho học sinh thảo luận nhóm đề xuất cách giải khác. Sau đó một vài nhóm trình bày, các nhóm khác nhận xét. – Đối với các học sinh khá giỏi khi làm xong bài trước, giáo viên có thể hướng dẫn cách giải khác hoặc giải một bài tập khác có phần phức tạp hơn. – Cuối bài, giáo viên tổng kết và nêu cách giải hợp lí và ngắn gọn nhất, cũng như đáp số của bài tập đó. 1. b) Lưu ý: Không nên dạy tiết bài tập trong đó không có sự trao đổi thảo luận của các học sinh trong quá trình giải mỗi bài tập, từng học sinh loay hoay giải bài tập, sau đó giáo viên trình bày lời giải của mình trên bảng cho học sinh ghi lại. Cách dạy như thế rất tẻ nhạt, nhàm chán đối với các đối tượng học sinh vì không có tác dụng giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn các kiến thức và kỹ năng cần vận dụng, không giúp học sinh phát triển khả năng tự lực, tích cực và sáng tạo trong việc giải quyết các tình huống mà bài tập đề ra. 2. Phương pháp dạy học tiết thực hành: Tiết dạy thực hành và kiểm tra thực hành ở bộ môn vật lý THCS có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi nó giúp GV đánh giá được năng lực, tầm hiểu biết, mức độ nắm vững kiến thức của học sinh mà còn là tiết học để học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong công việc đồng thời cũng là tiết học để củng cố vững chắc lý thuyết đã học cho học sinh. Để có được tiết dạy thực hành và kiểm tra thực hành tốt theo tôi chúng ta cần lưu ý giải quyết tốt các vấn đề sau: a, Phần chuẩn bị: * Chuẩn bị của giáo viên Để có tiết dạy thực hành và kiểm tra thực hành tốt nhất GV cần thực hiện tốt các yêu cầu sau: + Chuẩn bị tốt các phương tiện dạy học. + Cần chuẩn bị kỹ lưỡng , đầy đủ thiết bị dạy học cho các nhóm, đảm bảo tính đồng bộ giữa các nhóm. + GV cần yêu cầu học sinh từ tiết trước : Chuẩn bị nội dung thực hành và trả lời các câu hỏi trong phần báo cáo thực hành ra giấy. + GV phải làm trước các TN để có được kết quả và lấy đó làm căn cứ, tiêu chuẩn để đánh giá kết quả thực hành của các nhóm học sinh. + Cần xây dựng một biểu điểm phù hợp để có thể đánh giá chính xác HS * Chuẩn bị của học sinh : – Nắm vững lí thuyết, mục đích yêu cầu thí nghiệm, nhận biết được các thiết bị dùng trong bài thực hành. – Xem kĩ bài thực hành trước , chuẩn bị báo cáo thực hành và đồ dùng Gv yêu cầu 1. Tiến trình bài dạy trên lớp: – GV kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của học sinh. – GV nêu rõ mục đích, yêu cầu của tiết thực hành. – Hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi để kiểm tra bài cũ kết hợp củng cố lý thuyết. – GV giới thiệu dụng cụ thực hành, và nêu rõ các bước tiến hành thực hành ( GV có thể làm mẫu cho HS quan sát ) – GV chia nhóm hs ( từ 4- 6 nhóm), phát dụng cụ cho các nhóm. – HS thực hành theo nhóm, GV hướng dẫn và uốn nắn các thao tác sai của các nhóm. – Cá nhân HS hoàn thành báo cáo thực hành. – GV kết luận : Củng cố , khẳng định lại lý thuyết. Nhận xét, đánh giá kết quả thực hành Có thế chia phần dạy thực hành được chia thành các hoạt động cụ thể sau: Hoạt động 1: Kiểm tra phần chuẩn bị của HS cho bài thực hành- Ôn tập củng cố lý thuyết- Tìm hiểu mục tiêu bài thực hành: – GV cho học sinh tìm hiểu mục tiêu bài thực hành để nắm được tiết dạy thực hành làm những công việc gì? Nhằm mục đích gì? Hoạt động 2: Tiến hành thực hành : – GV chia nhóm và phân công nhiệm vụ cụ thể cho mỗi thành viên trong nhóm.   GV giới thiệu cách tính điểm phần thực. GV giới thiệu dụng cụ TN và phát cho các nhóm – GV hướng dẫn học sinh cụ thể từng bước làm thí nghiệm (GV có thể thao tác mẫu để các nhóm HS quan sát trước khi tiến hành thực hành ).  HS tiến hành thực hành và ghi kết quả thực hành – GV theo dõi, uốn nắn và sửa sai ( nếu có ) Hoạt động 3: Hoàn thành báo cáo thực hành: Cá nhân học sinh làm báo cáo theo mẫu đã chẩn bị. Hoạt động 4: Nhận xét, đánh giá kết quả thực hành: GV thu báo cáo thực hành của học sinh, đồng thời nêu nhận xét về ý thức, tác phong thực hành của các nhóm   GV dựa vào kết quả thực hành của các nhóm đối chiếu số liệu mà GV đã thực hành trước để nhận xét kết quả thực hành của các nhóm HS GV cho HS thu dọn, vệ sinh đồ dùng (nếu cần) và cất đồ dùng. Bên cạnh các phương pháp dạy học áp dụng cho từng nội dung kiến thức như trên thì để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và các năng lực của học sinh trong giờ học môn Vật lí ta có thể áp dụng một số kiểu tổ chức dạy học sau: ( Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra đánh giá kêt quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh – Vụ GD trung học – Bộ GD& ĐT) 1. Dạy học theo trạm: *Các bước tổ chức dạy học theo trạm: B1: Lựa chọn nội dung hệ thống trạm học tập   Mỗi hệ thống trạm gồm các trạm học tập, nhiệm vụ ở các trạm học tập độc lập với nhau. Nội dung hệ thống trạm có thể là kiến thức của một bài học hoặc một phần kiến thức xác định. Các kiến thức độc lập với nhau trong một bài học có thể xây dựng thành một hệ thống trạm. B2: Xây dựng nội dung các trạm  Ở mỗi trạm học tập có thể xây dựng các loại nhiệm vụ phong phú. Các nhiệm vụ ở các trạm có thể xây dựng được thể hiện trong bảng sau Nhiệm vụ Phiếu học tập Vật liệu đi kèm Cần có ảnh chụp các thiết bị, ô dành Tiến hành thí nghiệm cho việc vẽ bố trí thí nghiệm, các câu và xử lí kết quả thí Các thiết bị thí nghiệm hỏi, câu định hướng việc tiến hành thí nghiệm nghiệm Giải thích hiện tượng Có ảnh chụp hiện tượng, yêu cầu giải Có thể chuẩn bị dụng cụ để tạo thích hiện tượng, có thể sử dụng các ra hiện tượng cần giải thích Giải bài tập kĩ thuật ra bài tập dưới dạng điền khuyết Cần có nội dung bài tập, yêu cầu Ảnh chụp thiết bị kĩ thuật, Quan sát một thiết bị kĩ thuật và mô tả lại Ô để vẽ nguyên tắc cấu tạo, khung để Thiết bị kĩ thuật nguyên tắc cấu tạo của viết nguyên tắc hoạt động nó Đọc các nguồn thông Mô tả rõ ràng nội dung nhiệm vụ: tin và tóm tắt thông tin đọc, tóm tắt dưới dạng bảng biểu hay Văn bản cần đọc quan trọng sơ đồ tư duy B3. Tổ chức dạy học theo trạm     Chuẩn bị nguyên vật liệu cho từng trạm. Thống nhất nội quy làm việc theo trạm với HS. HS tiến hành các nhiệm vụ học tập trong từng trạm. Tổng kết, hệ thống hóa kiến thức. 2. Dạy học nghiên cứu tình huống Các bước dạy học nghiên cứu tình huống: Các giai đoạn Hoạt động của GV Hoạt động của HS 3. Dạy học dự án Các bước tổ chức dạy học dự án: Bước Chuẩn bị Hoạt động của GV Hoạt động của HS – Xây dựng bộ câu hỏi định hướng: – Làm việc nhóm để lựa chọn chủ đề xuất phát từ nội dung học và mục tiêu dự án. cần đạt được. (Xây dựng ý tưởng, lựa chọn – Xây dựng kế hoạch dự án: xác định chủ đề, xây – Thiết kế dự án: xác định lĩnh vực những công việc cần làm, thời gian dựng kế hoạch thực tiễn ứng dụng nội dung học, ai dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương cần, ý tưởng và tên dự án. pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm. – Thiết kế các nhiệm vụ cho HS: làm thế nào để HS thực hiện xong thì bộ – Chuẩn bị các nguồn thông tin đáng câu hỏi được giải quyết và các mục tin cậy để chuẩn bị thực hiện dự án. thực hiện dự án) tiêu đồng thời cũng đạt được. – Cùng GV thống nhất các tiêu chí – Chuẩn bị các tài liệu hỗ trợ GV và đánh giá dự án. HS cũng như các điều kiện thực hiện dự án trong thực tế. – Phân công nhiệm vụ các thành viên – Theo dõi, hướng dẫn, đánh giá HS trong nhóm thực hiện dự án theo đúng kế hoạch. trong quá trình thực hiện dự án Thực hiện dự án – Liên hệ các cơ sở, khách mời cần thiết cho HS. – Tiến hành thu thập, xử lý thông tin thu được. – Chuẩn bị cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi cho các em thực hiện dự án. – Xây dựng sản phẩm hoặc bản báo cáo. – Liên hệ, tìm nguồn giúp đỡ khi cần. – Bước đầu thông qua sản phẩm cuối của các nhóm HS. – Thường xuyên phản hồi, thông báo thông tin cho GV và các nhóm khác. – Chuẩn bị tiến hành giới thiệu sản phẩm. – Chuẩn bị cơ sở vật chất cho buổi báo cáo dự án. Kết thúc dự án – Tiến hành giới thiệu sản phẩm. – Tự đánh giá sản phẩm dự án của – Theo dõi, đánh giá sản phẩm dự án nhóm. của các nhóm. – Đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm khác theo tiêu chí đã đưa ra. 4. Học dựa trên tìm tòi, khám phá khoa học Các giai đoạn đặc trưng của dạy học khám phá: Trong lĩnh vực vật lí và trong dạy học vật lí, hoạt động dạy học khám phá được phân chia thành mô ̣t số giai đoạn đă ̣c trưng sau đây: Giai đoạn 1: Đặt ra cac câu hoi khoa hoc Trong nghiên cứu khoa học, đứng trước quá trình, hiện tượng cần nghiên cứu, các nhà khoa học thường đă ̣t ra hai loại câu hỏi chủ yếu. Loại câu hỏi thứ nhất thường được mở đầu bằng từ “tại sao”, ví dụ: Tại sao vào mùa lạnh, khi hà hơi vào tấm kính để ngoài trời lại làm kính “mờ” đi? Tại sao giọt nước mưa lại rơi từ trên trời xuống dưới? Loại câu hỏi thứ hai thường hỏi về cách thức hình thành những sự kiện nào đó, thường sử dụng từ “như thế nào”, ví dụ: Làm như thế nào để tạo ra dòng điện mà không cần nguồn điện như pin, ác qui? Làm thế nào để vận tải điện năng đi xa mà giảm tổn thất điện năng? Nghiên cứu khoa học nói chung, dạy học khám phá nói riêng bao giờ cũng bắt đầu bằng câu hỏi khoa học. Giai đoạn 2: Đưa ra giả thuyết/ dự đoan khoa hoc làm cơ sở cho việc trả lời câu hoi khoa hoc Trong quá trình học tập, HS phân tích các dữ liê ̣u này để đưa ra giả thuyết làm cơ sở cho việc trả lời câu hỏi khoa học, giải thích các quá trình, hiê ̣n tượng khoa học đã quan sát được. Giai đoạn 3: Tiến hành cac thí nghiệm đề kiểm chứng giả thuyết đó Mọi giả thuyết đều phải được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Giả thuyết được kiểm chứng bằng thực nghiệm, nghĩa là giả thuyết hay hệ quả được suy ra từ giả thuyết cần phải phù hợp với các quan sát, bằng chứng chỉ ra ở các thí nghiệm mới do HS đề xuất và tiến hành. Nếu giả thuyết hệ quả được suy ra từ giả thuyết không phù hợp với các quan sát, bằng chứng chỉ ra ở các thí nghiệm mới, thì nghĩa là giả thuyết sai, phải quay trở lại, phân tích quá trình, hiện tượng đang nghiên cứu để đưa ra giả thuyết khác. Giai đoạn 4: Rút ra kết luận Sau khi tiến hành thí nghiệm kiểm chứng giả thuyết cho thấy giả thuyết đúng thì ta cần rút ra kết luận khoa học về vấn đề nghiên cứu. Đó chính là kết quả nghiên cứu. Giai đoạn 5: Bao cao và bảo vệ kết quả nghiên cứu HS công bố kết quả nghiên cứu trước lớp, trả lời những câu hỏi liên quan đến nội dung nghiên cứu để bảo vệ sự đúng đắn của kết luận khoa học đã rút ra. 5. Dạy học ngoại khóa Các hoạt động ngoại khóa vật lí có các hình thức tổ chức như: Hội vui vật lí; Triển lãm vật lí; Báo tường về vật lí… Hội vui vật lí là một hình thức ngoại khóa dễ phổ biến, lôi cuốn được đông đảo HS tham gia, tạo ra được khí thế trong học tập và nghiên cứu. Hội vui có thể tổ chức theo từng chuyên đề hoặc theo khối lớp. Chẳng hạn: hội vui cơ học; hội vui về nhiệt học; hội vui về điện học; hội vui về quang học… Hội vui có nội dung chính là các trò chơi hoặc các câu hỏi rèn luyện trí tuệ, như: trò chơi hái hoa dân chủ; thi khéo tay; thi giải đáp các câu hỏi trí tuệ, thi chế tạo thiết bị thí nghiệm… Thời gian tổ chức hội vui không nên kéo dài để đảm bảo cho hội vui vừa truyền tải hết nội dung cần thiết vừa không gây ảnh hưởng đến sức khỏe và sự đi lại của HS. Triển lãm về vật lí ở trường phổ thông có thể tổ chức nhân ngày lễ của trường hoặc dịp tổng kết một kì học hoặc cuối năm học. Mục đích của triển lãm về vật lí là để nói lên thành tựu hoạt động học tập và nghiên cứu về vật lí của một khối lớp hoặc của toàn trường. Nội dung triển lãm có thể gồm: dụng cụ, mô hình vật lí mà HS chế tạo được; mẫu vật sưu tầm được; đồ dùng phục vụ cho việc dạy học; biểu diễn thí nghiệm vật lí có liên quan đến kiến thức vật lí phổ thông mà HS đã được học. Triển lãm có thể tổ chức kết hợp với hội vui vật lí hoặc tiến hành cùng với các bộ môn khác như toán, hóa, sinh, công nghệ… Báo tường về vật lí là một hình thức hoạt động ngoại khóa khá hấp dẫn, dễ tổ chức, lôi cuốn được đông đảo HS tham gia, không phân biệt trình độ HS nhiều. Hình thức hoạt động ngoại khóa này có tác dụng tốt trong việc thúc đẩy HS sưu tầm, đọc các sách báo hoặc giải các bài toán hay về vật lí. Báo tường về vật lí cũng là một hoạt động để GV hoặc các thành viên tích cực trong lớp công bố các bài toán hay mà không có điều kiện hoặc không cần thiết phải trình bày trên lớp. * Quy trình tổ chức hoạt động ngoại khóa về vật lí Bước 1: Lựa chọn chủ đề ngoại khoá và đặt tên cho hoạt động ngoại khóa Bước 2: Lập kế hoạch tổ chức hoạt động ngoại khoá Bước 3: Tiến hành hoạt động ngoại khoá theo kế hoạch Bước 4: Tổ chức cho HS báo cáo kết quả, rút kinh nghiệm, khen thưởng. 6. Dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” Các bước tổ chức dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề      Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của HS Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức PHẦN III. KẾT LUẬN Để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong năm học 2014 – 2015 tôi đã vận dụng sáng kiến này vào việc dạy học môn Vật lí ở trường THCS Sơn Đông. Tôi nhận thấy khi áp dụng đề tài này học sinh luôn có niềm đam mê ham thích được nghiên cứu khoa học, thích khám phá những cái mới mà thường ngày các em chỉ mới thấy được vấn đề chứ chưa thể giải thích được hiện tượng đó. Trong giờ học lý thuyết, học sinh luôn tích cực thảo luận phát biểu xây dựng bài sôi nổi. Trong các giờ học thực hành thì trình tự các bước tiến hành lắp ráp dụng cụ; thí nghiệm thực hành; ghi chép số liệu; phân tích kết quả; nhận xét và rút ra kết luận đều được đa số học sinh tiến hành rất thành thạo. Các giờ giải bài tập vận dụng, học sinh vận dụng tốt các kiến thức đã được học, giải hầu hết các bài tập trong sách bài tập. Nhìn chung đa số học sinh luôn đam mê, hứng thú với môn học Vật lí. Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng sáng kiến này tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy như sau: – Về phương pháp giảng dạy lý thuyết: + Giáo viên phải nắm vững chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lí ở THCS. + Giáo viên phải có kĩ năng xác định mục tiêu dạy học đã lượng hoá của từng bài, từng đơn vị kiến thức. + Có kĩ năng tổ chức cho học sinh hoạt động chiếm lĩnh kiến thức. Để làm tốt công việc này mỗi giáo viên cần tổ chức tốt tình huống học tập, từ đó thu thập thông tin, xử lí thông tin, thông báo kết quả làm việc, vận dụng, ghi nhớ kiến thức. Các câu hỏi cần phân loại để phù hợp với từng đối tượng học sinh: Câu hỏi biết, câu hỏi hiểu, câu hỏi vận dụng, câu hỏi tổng hợp, câu hỏi đánh giá. – Phương pháp giảng dạy thực hành: + Khi làm thí nghiệm cả giáo viên và học sinh cần phải nắm được mục đích của thí nghiệm. + Nắm chắc các bước tiến hành thí nghiệm. Thao tác thí nghiệm cẩn thận, chính xác. Tránh làm đi làm lại thí nghiệm nhiều lần, mất tính thuyết phục. + Với các thí nghiệm cần cho học sinh dự đoán trước hiện tượng, kết quả. Từ đó tiến hành thí nghiệm kiểm tra dự đoán và kết luận dự đoán. + Đối với những thí nghiệm giáo viên làm biểu diễn cần phải làm trước khi lên lớp. Giải quyết trước các tình huống có thể xảy ra. Thí nghiệm phải thành công và có tính thuyết phục cao. + Với những thí nghiệm học sinh làm theo nhóm: Giáo viên cần phải hướng dẫn, gợi ý cách làm. Trong khi học sinh làm thí nghiệm giáo viên luôn luôn phải quan sát, hướng dẫn; kịp thời uốn nén những thiếu sót. + Khi có kết quả thí nghiệm cần phải tổ chức và điều khiển lớp hình thành kiến thức bằng những câu hỏi kích thích tư duy học sinh. + Có sự kết hợp tốt giữa các nhóm (các nhóm nhận nhận xét đánh giá lẫn nhau), giáo viên thường xuyên động viên khi học sinh có những thao tác, có kết quả tốt, phê bình những học sinh chưa có ý thức học tập, chưa tích cực trong giờ học. Trên đây là một số kinh nghiệm đã được tôi vận dụng vào thực tiễn giảng dạy trong chương trình Vật lí. Tôi rất mong các đồng chí đồng nghiệp cho những ý kiến đóng góp, bổ sung để tôi có điều kiện hoàn thiện bản thân, nâng cao thêm kinh nghiệm, kiến thức về chuyên môn để ngày càng giảng dạy được tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Sơn Đông, ngày 15 tháng 2 năm 2015 Người viết: Trịnh Thị Thu Hiền
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan