Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Lớp 9 Skkn phát triển năng lực vận dụng kiến thức sinh học 9 vào thực tiễn cuộc sống...

Tài liệu Skkn phát triển năng lực vận dụng kiến thức sinh học 9 vào thực tiễn cuộc sống

.DOCX
23
3982
106

Mô tả:

Tên sáng kiến: PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VẬN DỤNG KIẾN THỨC SINH HỌC 9 VÀO THỰC TIỄN CUỘC SỐNG Tác giả: Phạm Thị Thùy Vân – Tổ phó tổ KHTN Đơn vị công tác: Trường THCS Nam Toàn I/ ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, đặc biệt đánh giá năng lực vận dụng kiến thức các môn học vào cuộc sống; coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Giáo dục từ lâu đã được coi là quốc sách hàng đầu. Đặc biệt là trong những năm gần đây giáo dục càng trở nên quan trọng. Xã hội càng phát triển, nhu cầu về nguồn lực con người càng tăng càng đòi hỏi chất lượng dạy và học cần phải được nâng cao để có được sản phẩm con người phát triển một cách toàn diện cả về trí tuệ lẫn nhân cách – đó là nguồn nhân lực lao động sáng tạo, là chủ thể để xây dựng đất nước. Bởi vậy việc chuẩn bị cho học sinh những phẩm chất, kiến thức và kỹ năng gắn liền với thực tiễn cuộc sống là hết sức cần thiết trong nhà trường phổ thông hiện nay. Thời đại ngày nay, nhiều thành tựu khoa học và công nghệ xuất hiện một cách hết sức bất ngờ và cũng được đổi mới một cách cực kì nhanh chóng. Hệ thống giáo dục theo đó cũng đặt ra những yêu cầu mới. Từ việc thi thố tài năng bằng sự thuộc lòng những hiểu biết “uyên thâm”, chuẩn mực người giỏi là “thông kim bác cổ”, hiểu biết “thiên kinh vạn quyển” đã dần thay thế bởi năng lực ra những quyết định sáng tạo trong các tình huống không ngừng biến động của cuộc sống. Trước đòi hỏi thực tiễn của Việt nam trên con đường hội nhập và phát triển thì đổi mới phương pháp dạy học trong đó có dạy học phổ thông là hết sức cần thiết. Luật giáo dục năm 2005, điều 28.2 nêu rõ “Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho họcsinh”. Nền giáo dục mới đòi hỏi không chỉ trang bị cho học sinh kiến thức mà nhân loại đã tìm ra mà còn phải bồi dưỡng cho học tính năng động, óc tư duy sáng tạo và thực hành giỏi, tức là đào tạo những con người không chỉ biết mà phải có năng lực hành động. Sinh học nói chung và môn Sinh học 9 nói riêng, là một môn khoa học vừa mang tính lý thuyết vừa mang tính thực tiễn. Trên cơ sở phân tích các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng; thiết lập sự phụ thuộc xác định để tìm ra những mối liên hệ giữa các mặt định tính và định lượng; quan hệ nhân quả của các hiện tượng để xây dựng nên các nguyên lý, quy luật, định luật rồi trở lại vận dụng để nghiên cứu những vấn đề của thực tiễn. Bởi vậy, việc cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng nhằm phát triển năng lực vận dụng kiến thức Sinh học vào thực tiễn là thực sự cần thiết, tạo tiền đề vững chắc cho học sinh, giúp học tự tin hơn khi bước vào cuộc sống. Đề tài: “Phát triển năng lực vận dụng kiến thức Sinh học 9 vào thực tiễn cuộc sống” cho học sinh được triển khai xây dựng với mong muốn góp một phần nhỏ bé để nâng cao chất lượng dạy học môn Sinh học 9, nhằm phát triển một số phẩm chất và năng lực cho học sinh Trường THCS Nam Toàn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định và đáp ứng yêu cầu thi tuyển sinh vào THPT. MÔ TẢ GIẢI PHÁP I/ Giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến I.1. Về đặc điểm môn Sinh học 9 Trong chương trình THCS, học sinh đã được tiếp cận với môn Sinh học từ lớp 6, Sinh học 9 là một môn học hoàn toàn mới lạ và có tính tư duy trừu tượng gây khó hiểu đối với học sinh khác với môn Sinh học lớp 6, 7, 8. Khối lượng kiến thức học sinh cần lĩnh hội tương đối nhiều; phần lớn các bài gồm những khái niệm mới, trừu tượng và khó hiểu. Do đó, giáo viên cần tìm ra phương pháp dạy học gây được hứng thú học tập bộ môn giúp các em chủ động lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không gượng ép là điều cần quan tâm. Khi học sinh có hứng thú, niềm say mê với môn Sinh học 9 sẽ giúp các em phát huy được năng lực tư duy, khả năng tự học và óc sáng tạo; để từ đó nâng cao chất lượng bộ môn nói riêng và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình dạy học của giáo viên và đáp ứng được yêu cầu về đổi mới giáo dục hiện nay. Chính vì vậy, tôi nghĩ đổi mới phương pháp dạy học phải thể hiện được ba tính chất cơ bản sau: Một là: Phát huy tính tích cực, năng lực tư duy, óc sáng tạo và khả năng tự học của học sinh trong quá trình học tập. Hai là: Giảng dạy và học tập phải gắn liền với cuộc sống sản xuất, học đi đôi với hành. Ba là: Rèn luyện được kĩ năng sống và phát triển năng lực học sinh. Kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy Sinh học 9 tôi nhận thấy rằng: Học sinh thấy hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và học giáo viên luôn có định hướng liên hệ thực tế giữa các kiến thức sách giáo khoa với thực tiễn đời sống hàng ngày, rất nhiều kiến thức sinh học có thể liên hệ được với các hiện tượng tự nhiên xung quanh chúng ta. I.2. Vài nét về tình hình nhà trường Trong những năm qua, tôi được Ban giám hiệu phân công trực tiếp giảng dạy môn Sinh học 9 nên có nhiều thuận lợi cho việc thực hiện đề tài “Phát triển năng lực vận dụng kiến thức Sinh học 9 vào thực tiễn cuộc sống” cho học sinh tại nhà trường. Bên cạnh đó, trong quá trình giảng dạy vẫn gặp phải một số hạn chế như cơ sở hạ tầng của nhà trường chưa đầy đủ, phòng thực hành Sinh học riêng biệt không có, hiện tại các bài thực hành được thực hiện trên lớp với phòng học, không gian chật trội. Các mô hình, tranh ảnh đã cũ, hỏng. Kinh phí hỗ trợ cho học sinh được tham gia trải nghiệm thực tế không có, vì vậy chưa gây được hứng thú cho học sinh trong học tập bộ môn. Với đề tài này có thể thấy được cách vận dụng để giải thích các hiện tượng thực tế có hệ thống qua một số bài, hỗ trợ giáo viên dạy học trong một số tiết, qua đó cung cấp cho học sinh những kiến thức bổ ích, thiết thực, tạo niềm tin vào khoa học, say mê học tập, vận dụng kiến thức vào đời sống và sản xuất. I.3. Vài nét về chất lượng học sinh Với những năm thực nghiệm giảng dạy từ những lớp học sinh đã qua tôi nhận thấy rằng học sinh dù khả năng tư duy tốt thì vẫn rất ngại những bài học khô khan mang tính lí thuyết, ngược lại các em tỏ ra hứng thú với những bài giảng có tính thực tế, mỗi khi giáo viên đặt ra những hiện tượng thực tế trong đời sống hàng ngày xung quanh mình các em tỏ ra tò mò, hiếu kì muốn tìm ngay lời giải đáp và tập trung vào bài học rất cao. Trong các năm học, tôi đã tiến hành dạy thử nghiệm với khối lớp 9 – Trường THCS Nam Toàn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Đặc điểm tình hình khối lớp 9, tỉ lệ nam, nữ và học lực của các em tương đương.  Lớp 9B: 20 học sinh (Lớp thực nghiệm)  Lớp 9A: 23 học sinh (Lớp đối chứng) Trong suốt thời gian dạy thực nghiệm tôi nhận thấy rằng học sinh hoạt động rất tích cực, về nhà làm bài tập nhiều hơn, tiết học sôi nổi hơn mỗi khi các em thảo luận với nhau về các hiện tượng thực tế liên quan trong bài học để tìm câu trả lời và đặc biệt hơn là học sinh đã chủ động lĩnh hội kiến thức, biết vận dụng kiến thức vào đời sống. Xuất phát từ những thực tế đó và một số kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn Sinh học 9, tôi thấy để có chất lượng giáo dục bộ môn Sinh học cao hơn, người giáo viên ngoài phát huy tốt các phương pháp dạy học tích cực, cần khai thác thêm các hiện tượng Sinh học trong thực tiễn trong đời sống để đưa vào bài giảng hoặc yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức lí thuyết để giải thích các hiện tượng thực tiễn bằng nhiều phương pháp và hình thức học khác nhau nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, tạo niềm tin, niềm vui và hứng thú trong học tập bộ môn. Từ những lí do đó tôi chọn đề tài: “Phát triển năng lực vận dụng kiến thức Sinh học 9 vào thực tiễn cuộc sống” cho học sinh, áp dụng cho chương trình Sinh học lớp 9 cấp THCS. 1. Mô tả giải pháp sau khi tìm ra sáng kiến II.1. Cơ sở lí luận của vấn đề I.1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”; “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội”. I.2. Luật Giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 qui định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. I.3. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. I.4. Nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày 09/6/2014 Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế xác định “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục theo hướng đánh giá năng lực của người học; kết hợp đánh giá cả quá trình với đánh giá cuối kỳ học, cuối năm học theo mô hình của các nước có nền giáo dục phát triển”… Những quan điểm, định hướng nêu trên tạo tiền đề, cơ sở và môi trường pháp lý thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng năng lực người học. II.2. Nghiên cứu cơ sở lí luận về chương trình giáo dục định hướng năng lực 1. Lí luận chung Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. Chương trình dạy học định hướng năng lực không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục, trên cở sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Trong chương trình định hướng năng lực, mục tiêu học tập, tức là kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng lực. Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được. Học sinh cần đạt được những kết quả yêu cầu đã quy định trong chương trình. Để hình thành và phát triển năng lực cần xác định các thành phần và cấu trúc của chúng. Có nhiều loại năng lực khác nhau. Việc mô tả cấu trúc và các thành phần năng lực cũng khác nhau. Cấu trúc chung của năng lực hành động được mô tả là sự kết hợp của 4 năng lực thành phần: Năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể. Mục tiêu dạy học môn Hóa học định hướng phát triển 9 năng lực chung và 5 năng lực chuyên biệt. * Các năng lực chung 1. Năng lực tự học 2. Năng lực giải quyết vấn đề 3. Năng lực sáng tạo 4. Năng lực tự quản lý 5. Năng lực giao tiếp 6. Năng lực hợp tác 7. Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) 8. Năng lực sử dụng ngôn ngữ 9. Năng lực tính toán * Các năng lực chuyên biệt 1. Năng lực sử dụng ngôn ngữ sinh học 2. Năng lực thực địa 3. Năng lực tính toán 4. Năng lực giải quyết vấn đề thông qua môn sinh học 5. Năng lực vận dụng kiến thức sinh học vào cuộc sống Trong khuân khổ đề tài này, tôi chỉ trình bày vấn đề “Phát triển năng lực vận dụng kiến thức Sinh học 9 vào thực tiễn cuộc sống” cho học sinh. Năng lực vận dụng kiến thức Sinh học 9 vào thực tiễn cuộc sống + Khả năng phân loại kiến thức, lựa chọn kiến thức sinh a) Có năng lực hệ thống hóa học một cách phù hợp với mỗi hiện tượng, tình huống xảy kiến thức. ra cụ thể trong cuộc sống. b) Năng lực phân tích tổng Thông qua các thao tác phân tích, so sánh, chọn lọc, để hợp các kiến thức sinh học chuyển hóa các kiến thức sinh học mang tính lẻ tẻ, rời rạc, vận dụng vào cuộc sống thực tản mạn thành dạng kiến thức mang tính tổng hợp và có tiễn định hướng vận dụng vào cuộc sống thực tiễn. c) Năng lực phát hiện các nội Phát hiện kiến thức hóa học có liên quan đến các vấn đề dung kiến thức sinh học được thực phẩm, sinh hoạt, y học, sức khỏe , khoa học thường ứng dụng trong các vấn đề, thức, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và môi trường các lĩnh vực khác nhau d) Năng lực phát hiện các vấn Dựa vào các kiến thức hóa học để có thể giải thích được đề trong thực tiễn và sử dụng một số các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và các ứng kiến thức sinh học để giải dụng của sinh học trong cuộc sống và trong các lính vực thích. đã nêu trên. e) Năng lực độc lập sáng tạo Có khả năng làm việc độc lập và đề xuất các biện pháp ở trong việc xử lý các vấn đề mức độ lý thuyết xử lý các vấn đề hàng ngày liên quan thực tiễn. đến sinh học và có ý thức bảo vệ môi trường . 2. Sơ đồ về quy trình xây dựng kế hoạch dạy học theo chương trình giáo dục định hướng năng lực. Lựa chọn phương pháp và kĩ thuật dạy học cho từng đơn vị kiến thức Lựa chọn phương tiện, đồ dùng dạy học phù hợp với phương pháp * Chương trình giáo dục định hướng năng lực được cụ thể hóa như sau: Chương trình giáo dục định hướng năng lực Lựa chọn chủ đề Mục tiêugiáo dục Chủ đề là một đơn vị kiến thức tương đối độc lập Kết quả học tập cần đạt được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được; thể hiện được mức độ tiến bộ của học sinh một cách liên Nội tục. Lựa chọn những nội dung nhằm đạt được kết quả đầu ra đã quy định, dunggiáo gắn với các tình huống thực tiễn. Chương trình chỉ quy định những dục nội dung chính, không quy định chi tiết. – Giáo viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ học sinh tự lực và tích Phương phápdạy học cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng sự phát triển khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp,…- Chú trọng sử dụng các quan điểm, phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực (PP dạy học theo dự án, PP hợp tác theo nhóm nhỏ, …); các phương pháp dạy học thí nghiệm, thực hành. Hình thức dạy học Tổ chức hình thức học tập đa dạng; chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học. Đánh giá kết Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực đầu ra, có tính đến sự tiến bộ quả học tập trong quá trình học tập, chú trọng khả năng vận dụng kiến thức môn của học sinh học để giải quyết các tình huống trong các tình huống thực tiễn. 3. Một số hình thức áp dụng trong tiết dạy định hướng phát triển năng lực Thiết lập mối liên hệ giữa nội dung học với giải thích các hiện tượng thực tiễn trong tiết học bằng các câu hỏi dẫn dắt để đi tìm kiến thức mới; tạo hứng thú, khơi dậy niềm đam mê; thích tìm tòi khám phá những hiện tượng, tình huống trong cuộc sống cho học sinh. II.3. Cách thức thực hiện các giải pháp của đề tài 1. Liên hệ thực tế khi giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thường mà hàng ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập. Ví dụ 1: Khi dạy về bài 1: “MENĐEN VÀ DI TRUYỀN HỌC” (Sinh học 9) giáo viên có thể mở bài bằng một câu chuyện liên hệ thực tế như sau : – GV: Một người bạn của bố đến thăm nhà, người bố ra đón khách và cậu con trai cũng nhanh nhẩu ra chào. Người bạn của bố bèn thốt lên: Anh có thằng con trai giống cha như đúc! – GV: Em hãy nhớ lại xem mọi người đã nhận xét em giống bố hay giống mẹ và ở những đặc điểm nào? – HS: trả lời – GV: Vậy con cái sinh ra có những đặc điểm giống bố, có đặc điểm giống mẹ, thậm trí có thể giống ông bà….nguyên nhân là do đâu? Và ai là người đã tìm ra câu trả lời đầu tiên? Cô trò chúng ta đi tìm hiểu bài hôm nay. Ví dụ 2: Khi dạy về bài 25: “THƯỜNG BIẾN” (Sinh học 9), giáo viên có thể mở bài như sau : – GV : Ông cha ta tổng kết “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” Theo em tổng kết trên đúng hay sai? Tại sao? – HS: (dựa vào kiến thức văn học) Đó là thứ tự cần thiết khi trồng lúa nước để được bội thu . Nước quan trọng bậc nhất , nhì phân là thứ hai là phân bón phải bón đủ đạm và bón đúng thời điểm, tam cần là thứ 3 cần sự chăm sóc của người nông nhân, phải phun thuốc diệt cỏ đúng thời điểm và thăm đồng thường xuyên để phát hiện sâu rầy để phun thuốc bảo vệ, tứ giống là thứ 4 là lúa giống phải thích hợp với thổ nhưỡng và kịp thời vụ. Đó là 4 điều cần thiết khi trồng lúa nước để có mùa bội thu. – GV: Nhìn lại câu nói trước kia “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” cho tới nay vẫn không hề sai, nhưng trong cùng điều kiện như nhau thì giống là ưu tiên số một. Chọn được giống tốt giúp chúng ta yên tâm hơn khi gieo trồng, yên tâm hơn khi thu hoạch và bán sản phẩm. Để lựa chọn đúng giống cần cân nhắc khía cạnh: An toàn, chất lượng và năng suất. Để hiểu rõ hơn điều này, cô trò chúng ta cùng tìm hiểu bài học hôm nay… Ví dụ 3: Khi dạy về bài 54:“Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG” (Sinh học 9), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Gây tác hại gì đến môi trường? Nguyên nhân nào gây ra hiện tượng mưa axit? HS: (liên hệ kiến thức hóa học để giải thích) – Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (ô tô, xe máy) có chứa các khí SO 2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi nước trong không khí tạo ra một số loại axit như: H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit – Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới. Mưa axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần chính là CaCO 3); đặc biệt gây ô nhiễm môi trường đất và nước,… 2. Liên hệ thực tế qua từng nội dung và tính chất cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính tò mò của học sinh. Ví dụ 1: Khi học bài 28 : «PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU DI TRUYỀN NGƯỜI» (Sinh học 9), sau khi học phần I. Nghiên cứu phả hệ, giáo viên khắc sâu và mở rộng kiến thức bằng bài tập sau: – GV : Một phụ nữ đã kể về gia đình bà ấy như sau: “ Ông ngoại tôi bị bệnh mù màu đỏ còn bà ngoại thì không bị bệnh này. Bố mẹ tôi đều phân biệt màu rất rõ sinh được 3 chị em tôi, em trai tôi bị bệnh mù màu đỏ còn chị cả và tôi không bị bệnh này. Chị tôi lấy chồng bình thường, sinh được 2 con gái bình thường và một con trai bị mù màu đỏ. Chồng tôi và con trai tôi cũng phân biệt màu rất rõ”. Dựa vào lời tường thuật của người phụ nữ nói trên hãy lập sơ đồ phả hệ của gia đình này và cho biết: – Gen quy định tính trạng mù màu đỏ là trội hay lặn? Gen nằm trên NST thường hay NST giới tính? – Xác định gen của những người trong gia đình nói trên? HS: – Thảo luận nhóm vẽ sơ đồ phả hệ – Gen gây bệnh mù màu đỏ là gen lặn và nằm trên NST giới tính – Xác định KG của từng người trong gia đình Ví dụ 2: Khi dạy bài 25: “THƯỜNG BIẾN” (Sinh học 9), trước khi học phần I. Sự biến đổi kiểu hình do tác động của môi trường, giáo viên có thể yêu cầu học sinh hoàn thành bảng sau: Đối tượng quan sát H 25: Lá cây rau mác VD1: Cây rau dừa nước VD2: Luống xu hào Mô tả kiểu hình tương Điều kiện môi trường ứng Mọc trong nướcTrên mặt nướcTrong không khí Mọc trên bờMọc ven bờMọc trên mặt nước Trồng đúng qui địnhKhông đúng qui định – HS : dựa vào kiến thức và kinh nghiệm thực tế hoàn thành bảng, từ đó hình thành khái niệm về thường biến. Ví dụ 3: Khi dạy về bài “PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU DI TRUYỀN NGƯỜI” (Sinh học 9) sau khi học xong bài, giáo viên có thể đánh giá năng lực của học sinh bằng một bài tập như sau : – GV: Bệnh mù màu đỏ – xanh lục do m nằm trên X qui định. Một phụ nữ bình thường có em trai bị mù màu lấy một người chồng bình thường. a, Vẽ sơ đồ phả hệ của gia đình trên. b, Nếu cặp vợ chồng này sinh được 1 con trai thì xác suất để người con trai đó bị mù màu là bao nhiêu? Biết rằng bố mẹ của cặp vợ chồng đều bình thường. – HS: + Vẽ sơ đồ phả hệ + Xác định được xác suất sinh con trai bị mắc bệnh mù màu là 25% Ví dụ 5 : Khi dạy về bài 53: “TÁC ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG” (Sinh học 9), giáo viên có thể liên hệ thực tế bằng câu hỏi trắc nghiệm như sau: – GV: Trong những điều kiện thích hợp nhất, lợn Ỉ 9 tháng tuổi đạt 50 kg, trong khi đó lợn Đại bạch ở 9 tháng tuổi đã đạt 90 kg. Kết quả này nói lên: 1. A) Tính trạng cân nặng ở lợn Đại bạch do nhiều gen chi phối hơn ở lợn Ỉ. 2. B) Tính trạng cân nặng ở giống lợn Đại bạch có mức phản ứng rộng hơn so với lợn Ỉ. 3. C) Vai trò của môi trường trong việc quyết định cân nặng của lợn. 4. D) Vai trò của kỹ thuật nuôi dưỡng trong việc quyết định cân nặng của lợn. – HS: trả lời đáp án: B 3. Liên hệ thực tế sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó trong cuộc sống, học sinh sẽ suy nghĩ và mong muốn tìm ra câu trả lời. Ví dụ 1: Sau khi học xong bài “SỬ DỤNG HỢP LÍ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN” (Sinh học 9). Để tạo cho học sinh có thể kiểm nghiệm trong đời sống, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : – GV: Ở địa phương đã có những vi phạm gì trong việc sử dụng tài nguyên đất? Chính quyền và nhân dân địa phương đã khắc phục hiện tượng này như thế nào? – HS: + Nêu ra những hiện tượng vi phạm trong việc sử dụng tài nguyên đất của người dân hoặc do chính gia đình mình. + Nhận thức được những sai lầm, tìm hiểu những biện pháp khắc phục. Từ đó tuyên truyền cho mọi người sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên đất, cũng như các nguồn tài nguyên khác. Ví dụ 2: Sau khi học xong bài 59 + 60: “KHÔI PHỤC MÔI TRƯỜNG VÀ GÌN GIỮ THIÊN NHIÊN HOANG DÃ. BẢO VỆ ĐA DẠNG CÁC HỆ SINH THÁI” (Sinh học 9), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : GV : Ở địa phương em có những loại thực vật nào có giá trị về kinh tế? Nhân dân địa phương đã dùng những biện pháp nào để bảo vệ các loài thực vật đó? HS : + Ở địa phương em, có những loài thực vật có giá trị kinh tế như: Cây lúa, cây ăn quả, cây hoa màu và đặc biệt là cây cảnh,…. + Nhân dân địa phương đã có các biện pháp để bảo vệ các loài thực vật: – Chăm sóc và tưới tiêu hợp lí. – Sử dụng các loại thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật và bón phân hóa học phù hợp với giai đoạn phát triển của cây trồng. – Đối với cây cảnh phải thường xuyên chăm sóc, cắt tỉa cây Ví dụ 3: Sau khi học xong bài 30: “DI TRUYỀN HỌC VỚI CON NGƯỜI” (Sinh học 9), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : – GV : Tại sao phụ nữ không nên sinh con ở độ tuổi ngoài 35? Tại sao cần phải đấu tranh chống ô nhiễm môi trường? – HS trả lời: + Phụ nữ ở tuổi ngoài 35 không nên sinh con vì dễ sinh ra con bị tật, bệnh di truyền, nhất là bệnh Đao. Lí do bởi ở tuổi này trở đi các yếu tố gây đột biến của môi trường tích lũy trong tế bào của bố, mẹ nhiều hơn và phát huy tác hại của nó và dễ dẫn đến phát sinh đột biến trong quá trình sinh sản + Vì ô nhiễm môi trường là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm sút chất lượng cuộc sống và tạo ra nhiều tật bệnh di truyền ở con người. Vì vậy cần phải đấu tranh chống ô nhiễm môi trường để bảo vệ con người trong hiện tại và tương lai. 4. Liên hệ thực tế thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài hay các câu chuyện lịch sử phát hiện vấn đề nghiên cứu, có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải mải. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học bộ môn sinh học. Ví dụ 1: Khi dạy bài 55: “Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG”(tiếp theo) (Sinh học 9), sau khi học xong phần: Bảo vệ không khí trong lành tránh ô nhiễm, giáo viên có thể kể câu chuyện hài : – GV : + Một nhà thông thái thuyết trình ở hội nghị bảo vệ môi trường : “Tại sao người ta không nghĩ đến việc xây dựng thành phố ở nông thôn nhỉ ? Ở đó không khí trong lành, lo gì bị ô nhiễm” + Cả hội trường cười ầm lên. Ví dụ 2: Khi dạy về bài 15: “ADN” (Sinh học 9), khi học về cấu trúc không gian của ADN giáo viên có thể vào bài bằng câu chuyện : Câu chuyện ở Cambridge – Watson và Crick đang bận rộn với việc xây dựng mô hình về cấu trúc phân tử ADN, phần lớn dựa vào sự mò mẫm và suy luận từ các giả định, dữ liệu và kết quả của nhóm nghiên cứu khác. Đến Cambridge năm 1951 khi mới 23 tuổi, Watson đã gặp Crick, lúc đó 35 tuổi, đang nghiên cứu về cấu trúc của protein. Đây dường như là cuộc gặp mặt định mệnh của họ. – Gần như ngay lập tức, cả hai đều chia sẻ nhận định rằng chính cấu trúc của ADN là câu hỏi lớn nhất của ngành sinh học lúc bấy giờ. Họ thường xuyên thảo luận và phản biện, bổ sung cho nhau hầu tìm ra cấu trúc của ADN. Và tất nhiên là tích cực theo dõi các kết quả thực nghiệm và công bố của các nhà khoa học khác. Một trong những mốc quan trọng là năm 1952, trong một lần đến Cambridge, Erwin Chargaff, nhà hóa sinh của Đại học Columbia, đã giải thích cho Watson và Crick về kết quả thực nghiệm của mình rằng dù có tỉ lệ khác nhau trong các ADN khác nhau, nhưng các cặp phân tử nucleotide luôn cặp đôi và có tỉ lệ bằng nhau, đó là: adenine với thymine (A-T) và guanine với cytosine (G-C) (còn gọi là cặp đôi GX trong phiên âm của nhiều tài liệu tiếng Việt). Ví dụ 3: Khi học về bài 13: “DI TRUYỀN LIÊN KẾT” (Sinh học 9), giáo viên có thể giới thiệu về Moocgan và công trình nghiên cứu của ông thông qua câu chuyện sau: – Thomas Hunt Morgan (1866-1945) là nhà khoa học người Mỹ. Ông được trao Giải Nobel Sinh lý và Y khoa vào năm 1933 nhờ những khám phá về vai trò của nhiễm sắc thể đối với di truyền. Thomas Hunt Morgan tốt nghiệp đại học University of Kentucky vào loại xuất sắc khi mới có 20 tuổi (năm 1886). Năm 24 tuổi (1890), Morgan được nhận bằng tiến sĩ tại Johns Hopkins University và năm sau đã được phong phó giáo sư (Associate Professor). Ông là một nhà phôi học, giảng dạy tại trường Đại học Columbia. Ông quyết định nghiên cứu di truyền học, khi đó ngành khoa học này còn non trẻ. Lúc đầu, Morgan không tán thành các quy luật di truyền mà Gregor Mendel đã xây dựng và thuyết di truyền nhiễm sắc thể. Ông dự trù kinh phí xin tiến hành thí nghiệm lai ở thỏ, nhưng không được chấp nhận vì kinh phí quá lớn. Sau đó, ông đã chọn được một đối tượng độc đáo và thuận lơi cho nghiên cứu là ruồi giấm. Phòng thí nghiệm của Morgan về sau được gọi là “phòng thí nghiệm ruồi“. Tham gia nghiên cứu cùng ông có ba học trò Alfred Sturtevant, Hermann Muller và Calvin Bridges. Nhóm nghiên cứu này đã chứng minh các nhân tố di truyền của Mendel nằm trên nhiễm sắc thể và hoàn chỉnh thuyết di truyền nhiễm sắc thể. Thuyết di truyền nhiễm sắc thể xác nhận tính đúng đắn của thuyết di truyền về gene (nhân tố di truyền), cho thấy các gene phân bố theo chiều dọc nhiễm sắc thể tạo thành nhóm liên kết. 5. Kết hợp với Đoàn – Đội tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, giúp học sinh vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống sau khi đã học bài giảng. Trong các hoạt động trải nghiệm, giúp học sinh có thể vận dụng kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo, kiểm chứng lại kiến thức qua các thí nghiệm, qua việc thực tế quan sát; giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng kiến thức sinh học vào đời sống thực tiễn. Ví dụ 1: Khi học bài 38: “THỰC HÀNH: TẬP DƯỢT THAO TÁC GIAO PHẤN” (Sinh học 9), giáo viên có thể hướng dẫn học sinh các thao tác thực hành, phân công các nhóm thực hiện để học sinh có thể tự làm thí nghiệm kiểm chứng ở nhà. Các nhóm theo dõi và báo cáo kết quả thực hành với nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ 2: Sau khi học xong bài 62: “THỰC HÀNH: VẬN DỤNG LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀO VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở ĐỊA PHƯƠNG” (Sinh học 9), giáo viên phối hợp với Đoàn – Đội tổ chức các hoạt động vệ sinh môi trường trong nhà trường và ở địa phương nơi các em sống, để học sinh được tự kiểm nghiệm trong cuộc sống. Chăm sóc bồn hoa và trồng cây xanh trong nhà trường góp phần tạo không khí trong lành Vệ sinh môi trường Nghĩa trang liệt sĩ và đường làng Ví dụ 3: Sau khi học xong bài 62: “THỰC HÀNH: VẬN DỤNG LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀO VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở ĐỊA PHƯƠNG” (Sinh học 9), giáo viên tổ chức cho học sinh học tập theo dự án, hoàn thành nhiệm vụ, để học sinh được tự kiểm nghiệm trong cuộc sống. (?) Những hành động nào hiện nay đang vi phạm Luật bảo vệ môi trường ? Hiện nay, nhận thức của người dân địa phương về vấn đề đó đã đúng như Luật Bảo vệ môi trường quy định chưa? 6. Tạo điều kiện cho các em thực hiện được mơ ước trở thành các “nhà khoa học”, “tuyên truyền viên tí hon” trong các buổi thực hành, hoạt động ngoại khóa… Phương pháp này giúp các em học sinh biết cách tổ chức, lựa chọn hình thức, cách thức thực hiện phù hợp; đặc biệt giúp các em tự tin hùng biện trước đám đông. Ví dụ 1: Trước khi học bài 56+57: “THỰC HÀNH: TÌM HIỂU TÌNH HÌNH MÔI TRƯỜNG Ở ĐỊA PHƯƠNG” (Sinh học 9), giáo viên hướng dẫn học sinh tổ chức trong buổi học ngoại khóa để tìm hiểu tình hình ô nhiễm môi trường ở địa phương và tuyên truyền cho các bạn học sinh toàn trường nâng cao ý thức bảo vệ môi trường ở địa phương. – Hs tích cực tham gia các hoạt động (ảnh minh họa) Tìm hiểu tình hình môi trường ở địa phương Tuyên truyền và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho các bạn học sinh trong buổi học ngoại khóa Thu thập và xác định tính chất một số mẫu nước bị ô nhiễm 7. Để nâng cao kiến thức sinh học thực tế, giáo viên có thể phối hợp với nhà trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho học sinh như đưa các em đi tham quan các hệ sinh thái, cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, các làng nghề…đặc biệt giúp các em nắm vững tình hình ô nhiễm môi làng nghề ở địa phương. Qua đó, các em sẽ có cơ hội tham khảo, bổ sung các kiến thức còn trống và tìm hiểu xác thực hơn tác động của học đến đời sống của chúng ta. 1. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm IV.1. Nhận xét chung Sau khi áp dụng một số phương pháp mở rộng kiến thức thực tế trong bài giảng hóa học vào các tiết dạy, tôi thấy đã đạt được kết quả khả quan : – Giúp cho học sinh có được những hiểu biết về hệ tự nhiên và hoạt động của nó, tác động của nó đối với cuộc sống của con người. – Học sinh nắm được những ảnh hưởng của những hoạt động của con người lên hệ tự nhiên. Từ đó, học sinh ý thức được hoạt động của bản thân trong cuộc sống, đặc biệt là đối với vấn đề môi trường. – Xây dựng cho học sinh những kĩ năng quan sát, thu nhập thông tin và phân tích thông tin, dần hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học. – Phát triển kĩ năng nghiên cứu thực tiễn và kĩ năng tư duy để giải thích các hiện tượng thực tiễn, luôn chủ động trong cuộc sống. – Nuôi dưỡng nhận thức và các quan niệm đúng đắn về các hiện tượng trong tự nhiên và cuộc sống, giúp nâng cao hứng thú học tập của các em. – Phát triển sự đánh giá thẫm mĩ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan