Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn phat huy tinh tich cuc cua hoc sinh...

Tài liệu Skkn phat huy tinh tich cuc cua hoc sinh

.DOC
19
176
64

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm phát huy tính tích cực của học sinh
CỘNG HOÀ Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BÁO CÁO NỘI DUNG SÁNG KIẾN Họ và tên: Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Chức vụ: giáo viên giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5D Đơn vị công tác hiện nay: I. LĨNH VỰC ÁP DỤNG CỦA SÁNG KIẾN Sáng kiến thuộc lĩnh vực chuyên môn tiểu học (lớp 5D). Áp dụng trong việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 5D nói riêng và học sinh khối 5 nói chung”nhằm góp phần nâng cao chất lượng học sinh khối 5 nói riêng và chất lượng giáo dục trong nhà trường nói chung. II. SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THỰC HIỆN SÁNG KIẾN 1. Sự cần thiết của việc thực hiện sáng kiến. Hiện nay nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam không ngừng cải tiến, đổi mới phù hợp với thế giới và các quốc gia trong khu vực. Mặt khác, trong bối cảnh đó, nền giáo dục còn có những bất cập về chất lượng giáo dục, nhiều giáo viên sử dụng phương pháp dạy học lạc hậu đã gây nên tình trạng thụ động trong học tập của học sinh dẫn đến hiệu quả dạy học chưa cao. Học sinh ít được lôi cuốn động viên khích lệ để hứng thú, tự giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ học ở một số bộ phận học lực yếu kém. Cùng với nhiều nguyên nhân, tình trạng này trở nên khá gay gắt, khó khắc phục. Dạy học là lấy học sinh làm trung tâm. Người giáo viên là người đi bên cạnh để định hướng, hướng dẫn, gợi mở cho các em. Để thực hiện được điều đó, người giáo viên hãy làm đúng như một ngôn từ đã được ban tặng “người mẹ hiền thứ hai”.Người thầy hãy là người gần gũi, thân thiết, là người bạn để hiểu được nhu cầu của các em; là người “mẹ”để có đủ tình yêu, trách nhiệm giúp các em bản lĩnh, tự tin bước vào cuộc sống. Và để làm gương, người thầy cũng cần chủ động, sáng tạo, tích cực đổi mới trong công tác giảng dạy để truyền đến các em ngọn lửa nhiệt tình, sự thích thú trong học tập Đã có một thời gian dài học trò chúng ta đến trường chỉ là để được nhồi nhét những kiến thức của các môn học vào đầu. Các em tiếp nhận kiến thức đó như một hình thức học vẹt để có cái “trả nợ”cho thầy cô mà không hiểu được nguyên nhân, bản chất như thế nào, tại 1 sao lại như vậy. Đến lớp, hình ảnh thường thấy nhất là thầy đọc, trò chép. Tất cả diễn ra như một cỗ máy chạy đều đặn từ ngày này sang ngày khác và cũng đến một ngày cỗ máy ấy mỏi mệt. Các em sẽ thấy nhàm chán với lượng kiến thức được nhồi nhét mỗi ngày và sẽ trở nên quá tải. Còn thầy cô giáo cũng không còn sự hứng khởi, sáng tạo trong giảng dạy. Đã đến lúc chúng ta có cái nhìn mới về giáo dục. Chúng ta không phải là nguời đi tìm và đưa kiến thức cho các em vì như thế các em sẽ trở nên thụ động, chây ì. Chúng ta – những người thầy, người cô phải làm sao để giúp học sinh cảm nhận được “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, giúp các em có hứng thú trong học tập, trong việc tìm hiểu thế giới xung quanh các em. Các em sẽ là người tự tìm, tự chiếm lĩnh kiến thức cho mình dưới sự hỗ trợ, giúp đỡ, dẫn dắt của thầy, cô – người mẹ thứ hai của các em. Để phát huy tính tích cực của học sinh thì người giáo viên phải là người chủ động sáng tạo. Linh hoạt trong hoạt động dạy học. Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” Lời dạy của Bác thật là đáng quý. Lời dạy ấy đã, đang và sẽ là kim chỉ nam cho chúng ta và những thế hệ sau tiếp tục thực hiện.Thật vậy, để giáo dục một con người không phải chỉ một sớm một chiều mà là cả một thời gian dài.Giáo dục một người không phải chỉ cung cấp cho họ có kiến thức mà còn giúp họ tự trang bị kiến thức cho mình, có được cái nhìn bao quát về cuộc sống để họ có thể tự tin, chủ động hội nhập vào cuộc sống đang phát triển từng ngày Tuy nhiên việc giúp các em chủ động, tích cực trong học tập không đơn giản. Đây quả là một công việc đòi hỏi rất nhiều công sức và tâm huyết ở người thầy. Người giáo viên phải có tấm lòng yêu nghề, yêu trẻ, phải đặt mình vào vị trí của học sinh xem các em nghĩ gì, có nhu cầu gì để từ đó có những phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động cho phù hợp, sinh động, lôi cuốn các em tham gia tìm hiểu bài học và phát huy được tính tích cực ở các em. Đó chính là sự cần thiết để tôi chọn sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh lớp 5D trường Tiểu học Thị trấn Hương Sơn – Phú Bình – Thái Nguyên nói riêng và học sinh khối 5 nói chung”. 2. Mục đích của việc thực hiện sáng kiến Là một giáo viên chủ nhiệm và giảng dạy đứng trước những yêu cầu đổi mới của giáo dục, bằng cố gắng và kinh nghiệm của bản thân, học hỏi từ bạn bè, tôi muốn đưa ra một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh lớp 5D. Biến các môn học trở thành một "niềm vui" với các em, giúp các em yêu 2 thích học hơn.Từ đó góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng với mục đích nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. III. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN. 1. Tính mới: Như chúng ta đã biết, nói đến học sinh tích cực không phải là mới. Đây cũng là một trong những nội dung của phong trào xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Nhưng làm thế nào để phát huy được tính tích cực của học sinh đó là điều mà tất cả thầy cô giáo đều băn khoăn suy nghĩ, bởi vì không phải ai cũng hiểu và làm được điều đó. Bởi vì đòi hỏi tính thực tế rất cao, đồng thời phải phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học. Trong năm học này, Sau khi áp dụng sáng kiến mặc dù kết quả cuối năm chưa thật sự cao nhưng tôi nhận thấy học sinh lớp 5D mà tôi trực tiếp giảng dạy và chủ nhiệm có nhiều tiến bộ rõ rệt. Trong quá trình học, các em đều thể hiện sự cố gắng của mình. Ở mỗi giai đọan, tôi nhận thấy sự chuyển biến ngày càng rõ hơn. Học sinh khá, giỏi ngày càng năng động, tự tin, có trách nhiệm cao trong việc học tập và các hoạt động của nhà trường. Bên cạnh đó, các em còn nhiệt tình hỗ trợ, giúp đỡ các bạn học chậm trong lớp để các em ngày càng phát huy tính tích cực trong học tập của mình. Điều đó cho thấy nếu được học tập trong một môi trường thân thiện, gần gũi, làm việc một cách tích cực, sáng tạo sẽ không ngừng giúp các em tiến bộ, nâng cao năng lực học tập của mình. Nhưng điều làm tôi vui hơn là tôi thấy được sự biến chuyển tích cực của các em. Các em học sinh của tôi đã mạnh dạn, tự tin hơn nhiều, kĩ năng giao tiếp cũng được nâng cao. Các em đã không còn quá nhút nhát, e dè khi muốn trình bày một ý kiến nào đó hay chia sẻ cho mọi người về một vấn đề thú vị. Dù sự tiến bộ của mỗi em khác nhưng tôi đều ghi nhận và cố gắng giúp các em chủ động, tích cực hơn trong việc học tập của mình. Tôi tin rằng trong thời gian tới các em sẽ còn tiến bộ nhiều hơn. 2. Tính khoa học Học không phải là học một cách máy móc thầy nói trò nghe, cũng không phải học từng phần riêng biệt độc lập. Mỗi bài, mỗi phần đều có sự gắn kết, đều có mối quan hệ qua lại tác động đến nhau. Trong chương trình lớp 5 các Phân môn Khoa học - Lịch sử - Địa lý ở trường Tiểu học, học sinh được tìm hiểu về tự nhiên, về các hoạt động kinh tế xã hội của con người …dựa trên đặc điểm tự nhiên sẵn có.Vì vậy việc dạy học các phân môn này không thể theo kiểu truyền thống thầy đưa ra câu hỏi , học sinh trả lời máy móc như sách mà không có sự mở rộng, không được minh hoạ kiến thức bằng tranh ảnh, lại không phát huy khả năng vận động của học sinh. Vì thế việc đưa ra “Một số biện pháp phát huy tính tích cực chủ động của học sinh lớp 5D” là một cách hữu hiệu để học sinh 3 được vận động, được phát huy vốn hiểu biết của mình, qua đó có thể tự mình kiểm tra kiến thức của bản thân đồng thời thấy rõ mối quan hệ biện chứng của các môn học. không những thế qua việc đưa ra các hình thức học đổi mới, các em được rèn khả năng tư duy nhanh, lập luận suy diễn logic, Trên thực tế, việc học thông qua các hình thức đổi mới: tổ chức các hoạt động nhóm, xây dựng các tình huống có vấn đề…. được sử dụng trong rất nhiều ngành nghề, môn học,…Đây là một hình thức giảm tải, tạo không khí vui vẻ khiến người học cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái, thích thú. Hơn nữa trong việc thay đổi sách giáo khoa với khối lượng kiến thức phong phú hơn, hay hơn thì phương pháp dạy học cũng đang thay đổi theo hướng vừa học, vừa chơi là điều cần thiết. 3. Tính thực tiễn Hiện nay ngành giáo dục đang từng bước đổi mới nhiều mặt nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng đại trà cho học sinh. Phải đổi mới thế nào? Bắt đầu từ đâu? Theo hình thức nào?…còn phụ thuộc vào từng môn học, từng trường, từng lớp, từng trình độ học sinh. Mỗi phương pháp khác nhau, đều có ưu điểm, nhược điểm khác nhau. Vì vậy người giáo viên không nên máy móc bài nào cũng đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Điều này tưởng như dễ nhưng lại rất khó nhất là trong xu hướng đổi mới dạy học hiện nay. Vì vậy người giáo viên cần biết lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp để có hiệu quả cao trong môn học của mình và dễ hiểu với học sinh Trong hoạt động dạy học, nhằm đổi mới phương pháp, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh như: xây dựng tình huống có vấn đề, sử dụng các dạng bài tập, tổ chức hoạt động nhóm… đã được sử dụng ở một số phân môn nhưng phạm vi còn rất hạn chế Để khắc phục tình trạng học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, ngành Giáo dục của huyện nhà trong những năm gần đây đã có rất nhiều sự thay đổi. Sự thay đổi đó thể hiện ở nhiều mặt như thay đổi về phương pháp và hình thức tổ chức, nâng cao chuẩn của giáo viên. Tổ chức các chuyên đề để giáo viên cùng tham gia, trao đổi và lựa chọn phương pháp phù hợp hiệu quả nhất. Tuy nhiên, để giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, người có vai trò quan trọng chính là người giáo viên đứng lớp. Đối với cấp tiểu học, mỗi ngày học sinh đến trường là mỗi ngày học sinh được gặp thầy cô giáo của mình. Có bao giờ các bạn tự hỏi: có khi nào học sinh cảm thấy nhàm chán chính thầy cô của chúng không? Có thể lắm chứ nếu như mỗi ngày học sinh của chúng ta đều được nhìn, được nghe thấy một việc quen thuộc, một câu lệnh quen thuộc và làm những việc quen thuộc. 4 Như vậy, muốn học sinh của chúng ta hứng thú, tích cực thì người giáo viên cũng phải luôn sáng tạo, đổi mới trong những giờ lên lớp. Bên cạnh đó, người giáo viên hãy là người bạn lớn của học sinh để tạo được sợi dây tình cảm bền chặt với các em, mang đến cho các em sự tin cậy, gần gũi. Tình trạng học sinh học thụ động, nhồi nhét đã diễn ra một thời gian dài khi chưa đổi mới giáo dục. Giai đoạn đó, chúng ta vẫn còn sử dụng những phương pháp truyền thống, cách giáo dục một chiều tức là giáo viên cung cấp, truyền thụ kiến thức cho học sinh và học sinh tiếp nhận kiến thức đó. Lớp học im phăng phắc vì thầy giảng, trò lắng nghe và ghi chép. Kiến thức các em đuợc tiếp thu cũng chỉ gói gọn trong bài học mà không được mở rộng ra cuộc sống xung quanh. Những gì các em tiếp thu chỉ là kiến thức, còn mặt kĩ năng các em lại bị thiếu hụt. *) Vài nét về học sinh lớp 5D năm học 2013 – 2014 Tổng só học sinh lớp 5D : 33 em, trong đó nữ: 19 em Con dân tộc ít người: 0 Con gia đình thuộc hộ nghèo: 5 em Học sinh xã ngoài: 4 em Học sinh độ tuổi 2003: 33 em Trong đó có một số em tích cực nhanh nhẹn, tham gia vào các hoạt động học tập rất tốt. Tuy nhiên có một số em lại rất hiếu động, hay quậy phá trong lớp. Bên cạnh đó có nhiều em rất ngoan, ngoan đến nỗi nhút nhát, thụ động, ít tham gia các hoạt động của lớp, của trường không dám chia sẻ, trình bày ý kiến cá nhân của mình trước mọi người. KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐẦU NĂM NHƯ SAU T ổng số Môn Tiếng Việt K Giỏi 3 3 Môn Toán há S L=% TB S L=% 3 = 9,1 Y Giỏi S L= % 14 = 42,4 ếu 1 2 =36,5 K S L= % S L=% 4 = 12,1 há TB S L=% 9 = 27,2 Y S L=% 6 =18,2 ếu L=% 7 = 21,2 S 1 1= 33,4 Nhìn vào kết quả khảo sát đầu năm tôi thấy rất thấp chính vì vậy tôi tăng cường công tác kiểm tra để nắm bắt tình hình học tập của từng học sinh . Qua quá trình nắm bắt từng đối tượng học sinh tôi nhận thấy đặc điểm của một số em như sau: - Nói chuyện trong giờ học 5 - Làm việc riêng - Lơ là, không tập trung nghe thầy cô giảng bài - Nhiều em thụ động, không dám giơ tay phát biểu xây dựng bài. Khi được thầy giáo mời đọc bài hay phát biểu thì nói nhỏ, không biết trình bày như thế nào cho đúng. - Ít trao đổi, chia sẻ, trình bày ý kiến cá nhân và phản hồi lại ý kiến của bạn. - Lười học, không chuẩn bị bài, làm bài trước khi đến lớp. - Hiện nay, chúng ta đang chú trọng đổi mới giáo dục.Vấn đề giúp học sinh học tập tích cực, chủ động đang được phát huy. Xã hội đang ngày càng phát triển, nếu các em chỉ được cung cấp kiến thức theo một chiều mà không có sự rèn luyện kĩ năng thì khi bước ra xã hội, các em sẽ bị hụt hẫng, không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của xã hội.Trong quá trình đổi mới giáo dục, chúng ta cần đảm bảo học sinh được chủ động lĩnh hội kiến thức, có kĩ năng và thái độ đúng đắn. Với tình hình của lớp như thế, tôi thiết nghĩ cần đổi mới, cần tạo ra một không khí lớp học thân thiện để các em cùng hòa đồng, hỗ trợ nhau học tập và hãy đặt học sinh vào trạng thái “căng thẳng tích cực” để các em được làm việc, động não, suy nghĩ liên tục. Có như thế các em mới thể hiện được hết khả năng sáng tạo và năng lực học tập của mình. 4. Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh lớp 5D trường Tiểu học Thị trấn Hương Sơn – Phú Bình – Thái Nguyên. Thứ nhất: người giáo viên phải soạn bài chu đáo, khi lên lớp, nhất thiết phải có giáo án trên giấy, ngay cả khi sử dụng máy chiếu Projector. Khi giảng bài, giáo viên phải làm rõ trọng tâm và mối quan hệ lôgíc nội tại của mạch kiến thức bài học, sắp xếp hợp lý hoạt động của giáo viên và học sinh; chuẩn bị hệ thống câu hỏi phát huy trí lực và phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh, (nhất là đối với bài dài, bài khó, nhiều kiến thức mới). Bồi dưỡng kỹ năng vận dụng sáng tạo kiến thức, hạn chế ghi nhớ máy móc, thay việc sửa lỗi bằng cách hướng dẫn học sinh tự trả lời câu hỏi: do đâu dẫn đến kết quả sai? Thứ hai: Giáo viên phải là người làm chủ lớp học, thiết lập bầu không khí thân thiện tích cực, chủ động giải quyết mọi tình huống bảo đảm yêu cầu sư phạm. Thứ ba: Sử dụng hợp lý sách giáo khoa (không đọc chép, hướng dẫn học sinh chỉ ghi theo diễn đạt của giáo viên, không để học sinh đọc theo sách giáo khoa để trả lời câu hỏi) và sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học, phương tiện trực quan, phương tiện nghe nhìn; ứng dụng hợp lý công nghệ thông tin, thực hiện 6 đầy đủ thí nghiệm, thực hành. Ở một số bài phải làm rõ mối liên hệ dọc theo mạch kiến thức môn học và mối quan hệ môn với các môn học khác để khắc sâu kiến thức. Thứ tư: Cần phải tích luỹ, khai thác sử dụng hồ sơ chuyên môn, liên hệ thực tế sinh động để làm sâu sắc thêm bài giảng, giao bài tập, chủ đề nguyên cứu, sưu tầm về nhà để rèn luyện kỷ năng tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Thứ năm: Giáo viên nêu vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết, dẫn dắt học sinh tự đưa ra kết luận cần thiết. Dạy phải sát đối tượng, coi trọng bồi dưỡng học sinh khá giỏi và kiên trì giúp đỡ học sinh học lực yếu kém. Ngoài ra, giáo viên chuẩn bị thiết bị dạy học, học liệu, chủ động sưu tầm chọn lọc tư liệu liên hệ thực tế, nắm bắt các kỹ năng và kỹ thuật dạy học cần thiết (kỹ năng sử dụng thiết bị, viết bảng, vẽ hình, kỹ năng diễn giải, kỹ năng lôi cuốn chú ý, kỹ năng thao tác mẫu…kỹ năng tiến hành các hoạt động dạy học cụ thể; dạy học vi mô, dạy học theo nhóm, dạy học theo dự án, dạy học nêu vấn đề, trình bày theo cấu trúc…) Đối với các môn học khoa học xã hội: giáo viên chú ý trọng bồi dưỡng năng lực cảm thụ để nắm vững từng chủ đề, rèn kỹ năng diễn đạt bằng lời nói, chữ viết, hình vẽ. Đối với các môn học tự nhiên: giáo viên cần chú trọng rèn luyện kỹ năng tư duy lôgic, tự hệ thống hóa kiến thức, ghi nhớ có ý nghĩa (hạn chế ghi nhớ máy móc), rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, tuỳ vào môn học, đối tượng học sinh, hoàn cảnh thực tế, điều kiện vật chất người dạy và người học cần làm tốt những dấu hiệu cơ bản sau: - Giáo viên có hành vi chuẩn mực, thái độ thân thiện, biết khích lệ tình cảm hứng thú và tinh thần tích cực chủ động trong học tập cho học sinh. - Giáo viên bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng của chương trình, biết nêu vấn đề và hướng dẫn học sinh tự giải quyết, bảo đảm kiến và kỹ năng, giáo viên “khai thác thác lỗi” để rèn luyện phương pháp học tập, giảm thời lượng thuyết trình của giáo viên đến mức thấp nhất, tăng hoạt động tìm tòi, tăng tính chủ động, tham gia xây dựng bài của học sinh. - Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng hợp lý sách giáo khoa trên lớp. - Giáo viên khai thác thiết bị dạy học (trong đó có công nghệ thông tin) tăng cường thí nghiệm, thực hành trực quan (kênh chữ, kênh hình) để nâng cao hiệu quả dạy học và gắn bài giảng sát với thực tế của cuộc sống. - Học sinh kết hợp học tập cá nhân với học tập tương tác, hợp tác, huy động mọi nhóm trình độ (giỏi, khá, trung bình, yếu, kém) tham gia xây dựng bài. 7 - Học sinh hứng thú, tích cực, chủ động xây dựng bài. - Học sinh tự thực hành trực quan, và tự liên hệ với thực tế cuộc sống. - Học sinh biết cách tự đánh giá, kết hợp với đánh giá của thầy với của trò theo các mức độ (biết, thông hiểu, vận dụng). - Học sinh rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu để hoàn thành thói quen học suốt đời. Việc đổi mới phương pháp dạy học là một giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Trong đó hoạt động dạy và hoạt động học có tính độc lập tương đối nhưng là hai mặt của một quá trình, người giáo viên truyền đạt kiến thức, kỹ năng và hình thành nhân cách; học sinh làm chủ kiến thức kỹ năng theo chuẩn kiến thức kỹ năng quy định ở các bậc học. Tuy nhiên, đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách có hiệu quả các phương pháp dạy học hiện có theo quan điểm dạy học tích cực kết hợp với các phương pháp hiện đại Ngoài ra để phát huy tính tích cực của học sinh tôi thường học hỏi, vận dụng thực tế từ các buổi hội thảo, chuyên đề của các đồng chí giáo viên có kinh nghiệm trong trường cũng như các đơn vị bạn. *)Lắng nghe học sinh “ Ngày còn bé, khi còn học tiểu học, tôi rất ngại khi phải đứng trước mặt thầy cô của mình.Tôi ít giơ tay phát biểu vì sợ nếu nói sai thì cô sẽ la mắng, sẽ trách phạt mình. Dần dần tôi thu mình vào vỏ ốc mặc cảm, thụ động. Nhưng cô giáo đã làm thay đổi tôi. Cô là người nhẹ nhàng, thân thiện.Vào lớp cô hay trò chuyện với chúng tôi, hỏi thăm học trò của mình.Và khi chúng tôi nói cô đều tỏ thái độ muốn nghe. Tôi dần trở nên tự tin hơn. Tôi đã mạnh dạn phát biểu nhiều hơn trước” Và bây giờ, tôi cũng đang cố gắng thực hiện điều đó với học sinh của mình. Tôi luôn tìm biện pháp giúp các đồng chí giáo viên trường tôi luôn tỏ thái độ muốn lắng nghe những điều các em muốn trình bày. Nếu được bày tỏ điều mình suy nghĩ và có người lắng nghe mình, các em sẽ dần mạnh dạn hơn, hăng hái thể hiện bản thân mình, chủ động hơn trong việc học tập. Hãy để các em được trình bày, được suy nghĩ, được thể hiện bản thân mình, điều đó sẽ giúp các em phát triển kĩ năng giao tiếp của mình trong cuộc sống, mang lại cho các em sự chủ động, tự tin trong mọi việc. *) Làm người bạn lớn của các em Chúng ta cứ nghĩ nhiệm vụ của chúng ta khi đến lớp là giảng dạy, truyền đạt đến các em tất cả những kiến thức kĩ năng cần thiết, tạo dựng một lớp học nề nếp, trật tự. Thế thôi vẫn chưa đủ. Chúng ta cũng cần phải hiểu, ngoài việc học, 8 khi đến lớp các em cũng cần được giao tiếp, được chia sẻ những tâm tư tình cảm với bạn bè và đặc biệt là với chính thầy cô giáo của chúng. Đứng trước học trò, người giáo viên thường tạo ra một khoảng cách khiến học trò không dám gần gũi để bày tỏ tình cảm, chia sẻ những tâm tư nguyện vọng với thầy cô của chúng. Với điệp khúc mệnh lệnh, học sinh của chúng ta sẽ làm như một cái máy quen thuộc.Và khi không vừa ý với việc làm của học sinh như: không thuộc bài, chưa làm bài, làm mất vở, quên mang sách, quên mang đồ dùng…thì lập tức học sinh sẽ được nghe những câu la mắng. Không khí lớp học sẽ thật căng thẳng. Bản thân giáo viên chúng ta lúc ấy như thế nào? Chúng ta còn hào hứng để dạy nữa không khi vừa la mắng học trò của mình. Dù là các em không bị phạt, bị mắng thì các em có còn tâm trạng hứng khởi để bắt đầu bài học hay không? vì vậy Chúng ta hãy nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc. Cố gắng làm sao để tạo được một không khí thật vui, thật dễ chịu khi chúng ta và học sinh bước vào lớp. Hãy làm sao để học sinh cảm nhận thấy “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Giáo viên hãy là người quan tâm, chia sẻ với các em, lâu dần các em sẽ tin tưởng và chia sẻ với chúng ta. Mối dây tình cảm sẽ gắn bó thân thiết hơn. Điều này rất thuận lợi cho giáo viên và học sinh. *) Tạo môi trường học thân thiện với học sinh Quan tâm, chia sẻ tạo một môi trường học thân thiện với học sinh sẽ càng ngày càng thắt chặt tình thầy trò. Hãy để cho các em được nhìn ngắm những sản phẩm do chính tay mình làm ra. Sau mỗi giờ học, đặc biệt những môn có sản phẩm như Mĩ thuật, kĩ thuật cho học sinh trưng bày sản phẩm ở quanh lớp. Mỗi ngày các em đều được nhìn ngắm sản phẩm của mình và của bạn nên học hỏi được những cái hay từ bạn. Bên cạnh đó, những em có sản phẩm tốt đều cảm thấy rất vui nên càng thể hiện sự cố gắng ở những bài sau. Dưới lớp, dành cho các em một góc sưu tầm. Tranh, ảnh, tư liệu sưu tầm cũng được các em đính vào đó như một góc học tập và trang trí lớp. Từ đó đã tạo cho các em hứng thú và tích cực học tập. Ngoài ra, còn phát động phong trào môi trường xanh - sạch - đẹp. Các em mang cây xanh để tạo mảng xanh cho lớp và chia tổ để chăm sóc, tưới nước cho cây. Lớp học với không khí trong lành, xanh mát của những cây xanh quanh lớp sẽ giúp cho học sinh vơi bớt những căng thẳng mệt mỏi. Hơn nữa, việc chăm sóc tưới nước cho cây cũng rèn cho học sinh ý thức tự giác thực hiện, biết yêu quý môi trường và yêu lao động. Tổ nào có nhiều cây xanh và chăm sóc tốt sẽ được tặng bông hoa điểm thưởng. Do có sự thi đua nên các em thực hiện việc này rất hào hứng. Trong một lớp học, không phải em nào cũng học khá giỏi như chúng ta mong muốn. Bên cạnh những em học tốt cũng có những em học chậm. Giáo 9 viên nên nhẹ nhàng, hướng dẫn các em để các em có sự tự tin trong học tập. Ngoài ra giáo viên cần có sự động viên, khen ngợi kịp thời khi thấy các em tiến bộ dù chỉ là một bước nhỏ. Nếu chúng ta trách phạt thì sẽ tạo nên áp lực lớn ở các em. Khiến các em càng ngày càng thụ động và chui vào“vỏ ốc” của mình, không dám thể hiện bản thân mình, không còn sự chủ động và tích cực nữa. Tuy nhiên, đã có khen thưởng thì cũng có phạt. Nhưng phạt như thế nào để học sinh nhận ra lỗi và dần sửa chữa được lỗi đó là điều quan trọng. Người giáo viên nên biết sử dụng các biện pháp thay thế. Nên hướng dẫn để học sinh tự đề ra nội quy của lớp. Cho các em tự thảo luận nêu ý kiến để xây dựng bảng nội quy lớp. Sau đó cho các em tự đề ra biện pháp xử lí theo sự định hướng của giáo viên. Các em sẽ hào hứng khi tự mình đề ra nội quy riêng cho lớp mình. Từ đó, các em ngoan và chăm hơn, nhiều em ít quậy phá và đã biết chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Có lẽ các em đã ý thức được mình cần tuân thủ những nội quy do chính mình đề ra. Các em là người tự đưa ra nội quy và cách xử lí thì các em sẽ là người cố gắng thực hiện các điều quy định đó. Vào những giờ ra chơi, những khi rảnh rội tôi thường chủ động hỏi chuyện các em, đặc biệt là những em nhút nhát trong lớp, hỏi thăm về thầy cô cũ, về gia đình của các em. Dần dần các em trở nên thân thiết hơn với thầy cô, thích trò chuyện và mạnh dạn bày tỏ nhiều ý kiến hơn. Khuyến khích các em viết thư vào hộp thư “Những điều em muốn nói” để cuối tuần vào giờ sinh hoạt các em lại trao đổi cho nhau nghe. Những tâm sự, mong muốn của các em sẽ được truyền tải qua những cánh thư mà có thể là khi trình bày bằng lời các em sẽ gặp một số khó khăn. *) Khơi gợi tinh thần trách nhiệm ở học sinh Bản thân mỗi học sinh cần luôn thể hiện được tinh thần trách nhiệm của mình trong cuộc sống, trong học tập. Có như vậy, các em mới chủ động trong mọi việc. Có nhiều em học sinh ngay từ bé đã được gia đình quá yêu thương, chiều chuộng nên dần có tính ỷ lại, dựa dẫm. Vì thế nên cho học sinh tự thảo luận, nêu lại những việc làm thể hiện tinh thần trách nhiệm của người học sinh và gắn vào góc học tập của lớp. Mỗi ngày đến lớp, khi nhìn thấy bảng “Tinh thần sống có trách nhiệm”các em sẽ cảm nhận được rõ hơn và có ý thức trong từng hành vi, cách ứng xử của mình.Và với tinh thần trách nhiệm cao, các em sẽ tự chủ, linh động hơn trong học tập, luôn mong muốn mình hoàn thành công việc ở mức tốt nhất. *) Tạo điều kiện cho học sinh thể hiện kĩ năng cộng tác và giao tiếp Hiện nay, trong các hoạt động dạy học, người giáo viên luôn cố gắng tổ chức lớp học, tổ chức các hoạt động học tập sao cho học sinh được làm việc để tự tìm kiếm tri thức. Các hoạt động có thể là thảo luân, học nhóm, thi đua… Tuy 10 nhiên, trong quá trình thực hiện, có thể giáo viên chưa bao quát hết nên sẽ có những trường hợp có học sinh được làm việc, có học sinh lại quá thụ động, không dám trình bày ý kiến, có học sinh không muốn tham gia cùng các bạn. Với những trường hợp này cần đặc biệt lưu ý, tìm hiểu kĩ nguyên nhân để có cách giải quyết phù hợp. *) Chủ động, sáng tạo trong việc lập kế hoạch dạy học Mỗi ngày đến lớp người giáo viên đều chuẩn bị cho mình một kế hoạch bài học đầy đủ. Với sự chuẩn bị chu đáo, chúng ta sẽ là người chủ động dẫn dắt các em trong từng hoạt động. Hiện nay hoạt động nhóm có nhiều ưu điểm nổi bật, giúp học sinh phát huy tối đa tính chủ động, tích cực trong giờ học. Thực tế ở các nước phát triển ta thấy hoạt động nhóm tổ chức tốt thì sẽ giải quyết được nhiều vấn đề trong giờ học, học tập có chất lượng, rèn được kĩ năng nói , viết cho HS . Khi cho học sinh hoạt động theo nhóm, tùy theo bài mà GV có thể phân ra các nhóm nhỏ, lớn để thu hút HS giải quyết vấn đề có hiệu quả. Các bước tiến hành: - B1: Hình thành các nhóm làm việc: tổ chức nhóm, chỉ định vị trí làm việc của các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm. - B2: Các nhóm thực hiện công việc: thảo luận , trao đổi ý kiến, đưa ra kết luận chung, cử đại diện trình bày kết quả của nhóm trước lớp. - B3: Tổng hợp kết quả của các nhóm: đại diện các nhóm trình bày, các nhóm khác nghe và nhận xét, bổ sung. B4: GV tóm tắt ý kiến phản hồi của các nhóm sau đó cùng cả lớp chốt lại nội dung chủ yếu của bài học. GV nhận xét kết quả làm việc của từng nhóm và tổng kết lại kiến thức toàn bài. *) Kết hợp sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy Chúng ta đã quá quen thuộc với cách dạy truyền thống đó là thầy và trò gắn liền với bảng đen và phấn trắng. Nhưng nếu thay bảng đen bằng màn hình, thay dòng chữ và tranh ảnh cứng nhắc bằng những hình ảnh, những đoạn phim ngắn sinh động, phong phú kết hợp với âm thanh vui nhộn thì học sinh của chúng ta sẽ thích thú. Học sinh tiểu học dễ nhớ nhưng mau quên. Những bài học có điều gì mới lạ sẽ ghi sâu vào tâm trí của các em hơn. Dẫu biết rằng để thực hiện một bài giáo án điện tử không phải là dễ dàng. Chúng ta phải bỏ ra rất nhiều công sức để tìm kiếm tư liệu. Bên cạnh đó có một số thầy cô đôi khi hạn chế về khả năng sử dụng máy vi tính. Tuy nhiên, nếu có điều kiện để thực hiện một bài học bằng giáo án điện tử, tôi tin chắc học sinh của chúng ta sẽ rất thích thú, say mê. Tuỳ vào điều kiện chúng ta có thể thực hiện được nhiều hay ít. 11 Nhưng chỉ cần có một chút thay đổi sáng tạo trong bài học là học sinh của chúng ta sẽ tích cực hơn trong học tập. Để thực hiện một kế hoạch giảng dạy có ứng dụng công nghệ thông tin, người giáo viên cần lưu ý: Lựa chọn bài phù hợp để thực hiện giáo án điện tử. Không phải bài học nào khi ứng dụng công nghệ thông tin cũng mang lại hiệu quả cao.Chúng ta phải biết chọn lọc, xem bài nào có nội dung phù hợp, nếu ứng dụng công nghệ thông tin sẽ tác động tích cực. *) Thực hiện làm đồ dùng dạy học Là người lớn chúng ta rất thích sử dụng những đồ dùng đẹp. Học sinh của chúng ta cũng thế thôi. Các em cũng rất thích thú khi cầm trên tay mình một đồ dùng nào đó xinh xắn đáng yêu.Việc làm đồ dùng không những giúp chúng ta rất nhiều vào việc tổ chức các hoạt động trên lớp mà còn khơi gợi sự thích thú của học sinh trong học tập. Ngoài việc sử dụng, các em còn biết cần phải giữ gìn bảo quản để có thể được sử dụng nhiều lần. Ở lớp, trong một số giờ ngoại khóa, nên tổ chức cho lớp cùng làm đồ dùng học tập. Sau khi thực hiện, có những đồ dùng được sử dụng ngay, có những đồ dùng chưa sử dụng giáo viên cho các em treo chung quanh lớp để trang trí. Nhìn lớp học thật sinh động và đẹp. Các em nhìn thấy sản phẩm do chính mình làm ra nên rất thích thú và cùng chung sức giữ gìn, bảo quản. Như vậy chúng ta có thể phát huy được sự sáng tạo của học sinh trong việc học và hành. *) Tổ chức các hình thức học nhóm, thi đua và trò chơi học tập Tâm lí của giáo viên thường sợ mất thời gian. Khi gặp một bài tập khó, một vấn đề phức tạp mà giáo viên nghĩ rằng vượt quá sức học sinh thì giáo viên thường chủ động nêu hướng giải quyết hoặc trả lời giùm các em. Có giáo viên lại sa đà vào giảng giải. Chúng ta hãy mạnh dạn giao việc cho các em để các em tự thực hiện, khi nào thấy các em thật sự gặp khó khăn, giáo viên hãy là người hướng dẫn, gợi ý giúp học sinh đi đúng hướng. Đối với những hoạt động yêu cầu mức độ cao, một học sinh không đủ sức để thực hiện, giáo viên hãy tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm nhỏ. Như vậy các em sẽ được thảo luận, được trình bày ý kiến, được tự mình tìm tòi ra vấn đề một cách chủ động. Trong giờ học, nên tổ chức cho các em học theo nhóm, trao đổi thảo luận với nhau. Các em hiếu động giờ trở nên nhanh nhẹn hơn; các em e dè, nhút nhát đã tự tin, mạnh dạn trao đổi với các bạn và trình bày ý kiến trước lớp. Bên cạnh đó tôi nên thường xuyên tổ chức các hoạt động thi đua cá nhân, nhóm, tổ để tăng thêm sự hào hứng, thích thú trong học tập của các em. Và sau mỗi họat động thi đua, giáo viên cần có sự khen thưởng kịp thời để ghi nhận sự 12 cố gắng của các em.Việc khen thưởng cũng có thể thực hiện đơn giản bằng cách tặng hoa, phiếu ghi nhận, thẻ tuyên dương, lời khen…Việc khen thưởng tuy nhỏ nhưng mang tính khích lệ và khuyến khích các em rất cao. Mức tập trung chú ý của học sinh tiểu học thường không cao. Các em sẽ dễ mệt mỏi khi học tập liên tục trong một thời gian dài. Hãy thay đổi không khí lớp bằng cách cho các em thư giãn bằng một bài hát, một trò chơi nho nhỏ. Bên cạnh đó, chúng ta có thể lồng ghép vào bài học một hoạt động trò chơi học tập phù hợp. Học mà chơi – chơi mà học. Chơi nhưng lồng ghép vào đấy kiến thức của bài học sẽ giúp học sinh tiếp nhận kiến thức một cách chủ động và sáng tạo. Hãy nhìn vào đôi mắt sáng, lanh lợi của học sinh khi được tham gia vào một hoạt động trò chơi của bài học, chúng ta sẽ thấy các em nhanh nhẹn, tích cực hẳn lên. 5. Tính hiệu quả Để phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thì trước hết chúng ta cần phải hiểu học sinh, lắng nghe xem học sinh suy nghĩ gì, mong muốn gì. Tìm hiểu xem bản tính của các em năm học trước như thế nào, các em hiếu động kiểu nào, thụ động ra sao. Hãy quan sát học sinh trong các giờ học, chúng ta sẽ thấy tất cả hiện lên trong từng ánh mắt, hoạt động của các em. Các em: thích thú? chán? mệt mỏi? đang tò mò muốn xem cô(thầy) của chúng đang chuẩn bị làm gì? ở lứa tuổi tiểu học rất khác với người lớn chúng ta. Chúng không thể ngồi yên một chỗ suốt nhiều giờ liền và chỉ làm một việc lặp đi lặp lại. Điều đó dễ gây nên sự nhàm chán nơi hoc sinh. Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi vẫn còn rất hiếu động. Chúng thích được chạy nhảy, thích được trò chuyện, thích được làm một việc gì đó chứ không phải là ngồi yên một chỗ. Như vậy có thể thấy là các em thích được hoạt động.Vậy tại sao chúng ta không tạo nên sự ham thích cho các em, sự khám phá của các em bằng việc tự tin giao quyền chủ động cho các em, tạo cho các em những hoạt động mà ở đó các em được tham gia, được khám phá. Thật thú vị biết bao khi tự mình phát hiện, tìm tòi ra một điều gì mà mình chưa biết.Trong giờ học, thường xuyên đặt ra những tình huống có vấn đề, tổ chức cho các em thảo luận, hợp tác, chia sẻ để tìm hiểu vấn đề ấy. Có những vấn đề các em tự khám phá được và cảm nhận được niềm vui, sự tự hào trong đôi mắt các em. Có những vấn đề khó các em cần có sự hướng dẫn và gợi mở của giáo viên nhưng khi tìm được kết quả, tôi nhận thấy sự thích thú ở các em khi các em được tự mình hoạt động để tìm kiếm tri thức Trong năm học này tôi vân dụng một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh lớp 5D do chính tôi chủ nhiệm. Chính vì vậy kết quả tham gia các cuộc thi cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh đạt tương đối cao. 13 Kết quả kiểm tra định kỳ và kết quả thi đua cuối năm đều vượt chỉ tiêu. Để đạt được kết quả như vậy, là người giáo viên tôi đã áp dụng một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh lớp trong lớp như sau: 6. Phạm vi áp dụng: Phạm vi áp dụng của sáng kiến này là học sinh lớp 5D của trường tiểu học Thị trấn Hương Sơn – Phú Bình - Thái Nguyên. Bước đầu đạt hiệu quả đáng phấn khởi. 7. Kết quả, hiệu quả mang lại: Sau khi áp dụng “ Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thị trấn Hương Sơn – Phú Bình – Thái Nguyên” tôi đã thu được những kết quả đáng mừng. Chính vì vậy có khả năng áp dụng tại các trường Tiểu học khác trên địa bàn huyện Phú Bình và các trường tiểu học khác trên toàn quốc. * Đối với học sinh lớp 5Đ Khi tôi áp dụng Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thị trấn Hương Sơn – Phú Bình – Thái Nguyên ở trên giúp các em nhìn thấy rõ các mối quan hệ. Vì thế sau khi áp dụng dạy học bằng các biện pháp này kết quả tỷ lệ bài kiểm kiểm tra trên trung bình đạt 70 đến 100%. Ý thức học tập của học sinh tiến bộ rõ rệt, học sinh chăm học, chịu khó nghe giảng hơn trước đây. Khả năng quan sát sự vật hiện tượng của học sinh tốt hơn. Các em đã chịu khó quan sát những hiện tượng xảy ra xung quanh. Cách ghi vở, vẽ hình rõ ràng, sạch đẹp, ngắn gọn và đầy đủ kiến thức hơn trước. Ngoài những kiến thức giáo viên đã ghi trên bảng, các em đã biết chọn lựa ghi những kiến thức mà giáo viên nhấn mạnh trong lúc dạy để bài học đầy đủ hơn, phong phú hơn. So với cách dạy trước đây thì kết quả học tập nâng cao rõ rệt. Tỉ lệ học sinh khá, giỏi nhiều hơn, lớp học sôi nổi hơn, các em đã biết đặt ra nhiều câu hỏi nhằm tìm hiểu vấn đề sâu hơn, rõ hơn. Sau khi áp dụng một số biện pháp trên kết quả học sinh lớp 5D của lớp tôi trong năm học này đạt được thành tích đáng phấn khởi cụ thể: - Thi giải toán trên mạng cấp huyện 3 em đạt giải 14 - Thi giải toán trên mạng cấp tỉnh 1 em đạt giải. - Thi viết chữ đẹp cấp huyện 1 em đạt giải - Kết quả kiểm tra định kỳ và kết quả thi đua cuối năm đều vượt chỉ tiêu. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Tổng số 33 học sinh. Kết quả khảo sát đầu năm Môn Tiếng Việt Kết quả cuối học kì I Môn Toán Giỏi Khá TB Yếu Giỏi Khá TB Yếu SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % 3 = 9,1 14 = 42,4 12 =36,5 4 = 12,1 9 = 27,3 6 =18,2 7 = 21,2 11= 33,3 Môn Tiếng Việt Kết quả cuối học kì II Môn Toán Giỏi Khá TB Yếu Giỏi Khá TB Yếu SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % 6 = 18,2 16 = 48,5 10 =30,3 1 = 3,0 12 = 36,4 9 =27,3 9 = 27,3 3= 3,0 Môn Tiếng Việt Môn Toán Giỏi Khá TB Yếu Giỏi Khá TB Yếu SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % SL = % 10 = 30,3 16 = 48,5 7 = 21,2 0 14 = 42,4 12 =36,4 7 = 21,2 0 KẾT QUẢ XẾP LOẠI 2 MẶT GIÁO DỤC CUỐI NĂM HỌC Hạnh kiểm ĐĐ Học lực CĐ Giỏi Khá T.Bình Yếu SL % SL % SL % SL % SL % SL % 33 100 0 0 10 30,3 16 48,5 7 21,2 0 0 Cháu ngoan Bác Hồ: 33 em = 100% 8. Khả năng áp dụng của sáng kiến. Khả năng áp dụng của sáng kiến “Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh lớp 5” này áp dụng thành công tại nhà trường và có thể áp dụng cho các trường Tiểu học trong toàn huyện. 9. Mục đích và những điểm khác biệt được áp dụng của sáng kiến: Với mục đích nhằn nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Ngoài những yếu tố cần thiết, cơ bản của hệ thống kiến thức, trình độ của giáo viên cũng như các phương pháp và hình thức dạy học thì điều khác biệt được 15 tôi áp dụng khi thục hiện sáng kiến là giúp đội ngũ giáo viên tận dụng những cơ hội phù hợp và phát huy một cách sáng tạo, mềm dẻo, linh hoạt khả năng tư duy sáng tạo và khích lệ tinh thần học hỏi của học sinh để giúp học sinh phát huy tính tích cực chủ đông sáng tạo trong mọi hoạt động. Mỗi một môn học trong nhà trường là một mảng của đời sống được đúc rút, tích luỹ qua nhiều thế hệ. Để nâng cao chất lượng giáo dục người giáo viên có nhiệm vụ truyền đạt những tri thức ấy tới thế hệ trẻ, bồi dưỡng cho các em nguồn kiến thức cơ bản, giáo dục cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, biết trân trọng những gì cuộc sống đã ban tặng cho con người. Từ đó phát huy khả năng tìm tòi, sáng tạo những tri thức mới phục vụ cho cuộc sống và góp phần xây dựng Tổ quốc giàu đẹp hơn. Đất nước của chúng ta vốn nghèo, muốn thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu ấy, bắt kịp những tiến bộ về khoa học kỹ thuật của nhiều nước trên thế giới thì giáo dục phải được ưu tiên hàng đầu. Giáo dục vốn là gốc rễ, là căn bản của mọi vấn đề. Đây cũng là sự nghiệp lâu dài những người làm thầy. Ngày nay trước những tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin. Trên thế giới chúng ta đang nỗ lực không ngừng để đổi mới nhiều mặt giáo dục, nhưng phải hiểu rằng không có phương pháp giảng dạy nào là tuyệt đối. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi người giáo viên là phải lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học dể đạt hiệu quả cao nhất, giúp học sinh chủ động, tích cực nắm bắt kiến thức. 10. Thời gian thực hiện sáng kiến: Thời gian thực hiện sang kiến này là năm học 2013 - 2014h *) Kết luận về vấn đề nghiên cứu của đề tài. Trên đây tôi vừa trình bày một số biện pháp giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo hơn trong học tập. Với mục tiêu dạy con người thông qua dạy chữ, giúp các em mỗi ngày đến trường là một ngày vui, chúng ta hãy để các em tự chủ động trong chính việc học của mình. Đừng làm thay các em quá nhiều để rồi chúng trở nên thụ động, ỉ lại. Hãy “Nâng cao tinh thần trách nhiệm” trong việc dạy và truyền đạt kiến thức của mình để giúp các em trở thành một con người hoàn thiện về mặt kiến thức, kĩ năng và nhân cách khi các em bước chân vào xã hội. Với điều kiện thời gian còn hạn chế chắc chắn đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đống góp của đồng chí, đồng nghiệp đặc biệt là các ý kiến của quý Hội đồng khoa học các cấp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. 11. Kiến nghị, đề xuất: 16 *Đối với giáo viên: Không ngừng tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nghiên cứu kỹ bài trước khi lên lớp. Vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động sáng của học sinh, phải luôn đặt tiêu chí: Muốn có trò giỏi trước hết thầy phải giỏi. *Đối với nhà trường. - Tổ chức các chuyên đề sử dụng phương pháp dạy học tích cực và phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. *Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo. - Tổ chức bồi dưỡng hè cho giáo viên được học hỏi kinh nghiệm qua những đề tài mà hội đồng khoa học các cấp đánh giá cao. Hương sơn, ngày 20 tháng 5 năm 2014 HIỆU TRƯỞNG NGƯỜI BÁO CÁO Hoàng Thị Kim Liên Ngô Viết Đạt TRƯỜNG TIỂU HOC TT HƯƠNG SƠN HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hương Sơn, ngày tháng năm 2014. PHIẾU ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thị trấn Hương Sơn – Phú Bình – Thái Nguyên”. 2. Họ và tên tác giả sáng kiến:. Ngô Viết Đạt 3. Họ và tên người đánh giá, nhận xét (của cấp trường)......................................................................................... 17 4. Nội dung đánh giá chấm điểm: Tiêu chuẩn I 1 Điểm Tiêu chí Tối đa Nội dung Tính mới: ............................................................................................................................................. Đánh giá 90đ 10đ ............................................................................................................................................................................. 2 3 Tính khoa học .................................................................................................................................... .............................................................................................................................................................................. Tính thực tiễn...................................................................................................................................... 20đ 30đ .............................................................................................................................................................................. 4 II 1 2 Tính hiệu quả: ................................................................................................................................... ............................................................................................................................................................................. Hình thức trình bày báo cáo Bố cục của báo cáo....................................................................................................................... .............................................................................................................................................................................. Cách trình bày báo cáo........................................................................................................... 30đ 10đ 6d 4đ .............................................................................................................................................................................. Tổng số 100đ 5. Nhận xét ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................ 6. Xếp loại:..................................... NGƯỜI ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT PHÒNG GD&ĐT PHÚ BÌNH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Phú Bình, ngày tháng năm 2014 PHIẾU ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thị trấn Hương Sơn – Phú Bình – Thái Nguyên”. 2. Họ và tên tác giả sáng kiến:. Ngô Viết Đạt 3. Họ và tên người đánh giá, nhận xét (của cấp huyện)................................................. 4. Nội dung đánh giá chấm điểm: Tiêu Tiêu chí Điểm 18 Tối đa chuẩn I 1 2 3 4 II 1 2 Nội dung 90đ Tính mới: ............................................................................................................................................. 10đ .............................................................................................................................................................................. Tính khoa học .................................................................................................................................... 20đ .............................................................................................................................................................................. Tính thực tiễn ...................................................................................................................................... 30đ .............................................................................................................................................................................. Tính hiệu quả: ................................................................................................................................... 30đ .............................................................................................................................................................................. Hình thức trình bày báo cáo Bố cục của báo cáo....................................................................................................................... 10đ 6d .............................................................................................................................................................................. Cách trình bày báo cáo........................................................................................................... 4đ .............................................................................................................................................................................. Tổng số 100đ 5. Nhận xét ............................................................................................................... ............................................................................................................................ ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. .............................................................................................................................. 6. Xếp loại:.................................. NGƯỜI ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT 19 Đánh giá
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan