Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc sử dụng bản đồ tư ...

Tài liệu Skkn phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc sử dụng bản đồ tư duy vào dạy học môn ngữ văn lớp 11, ở trường thpt nguyễn trường tộ

.PDF
24
1385
65

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO GIA LAI TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRƯỜNG TỘ ---------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: “Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc sử dụng bản đồ tư duy vào dạy - học môn Ngữ văn lớp 11, ở trường THPT Nguyễn Trường Tộ” Người thực hiện: 1) Họ và tên: Hồ Đức Kỳ 2) Năm sinh: 28/01/1982 3) Lĩnh vực giảng dạy: Ngữ văn 4) Chức vụ: Giáo viên, tổ phó 5) Điện thoại: 01667852419 Năm học: 2015 – 2016 MỤC LỤC I. MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 1 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................................... 2 4. Ý nghĩa đề tài ................................................................................................................... 2 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 3 II. NỘI DUNG ..................................................................................................................... 4 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài ................................................................................ 4 1.1. Bản đồ tư duy và việc áp dụng BĐTD vào dạy học Ngữ văn hiện nay ........................ 4 1.1.1. Bản đồ tư duy, lịch sử phát triển ............................................................................... 4 1.1.2. Thực tế áp dụng BĐTD vào dạy học môn Ngữ văn hiện nay .................................... 5 1.2. Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng đề tài trong dạy học ở Trường THPT Nguyễn Trường Tộ ............................................................................................................... 7 a) Thuận lợi: ........................................................................................................................ 7 b) Khó khăn: ........................................................................................................................ 8 2. Biện pháp phát huy tích chủ động, sáng tạo của học sinh trong BĐTD ......................... 9 2.1. Hướng dẫn học sinh vận dụng BĐTD một cách sáng tạo ............................................ 9 a) Xây dựng BĐTD theo chủ đề .......................................................................................... 9 b) Xây dựng BĐTD theo nhân vật ..................................................................................... 11 c) Xây dựng BĐTD theo nội dung ..................................................................................... 13 d) Xây dựng BĐTD theo cách tổng hợp ............................................................................ 14 e) Xây dựng BĐTD theo cách vận dụng ............................................................................ 15 2.2. Xây dựng, định hướng tổ chức hoạt động dạy – học có sử dụng BĐTD.................... 17 a) Định hướng, thiết kế bài học ......................................................................................... 17 b) Chuyển giao nhiệm vụ ................................................................................................... 17 c) Trao đổi thảo luận ......................................................................................................... 18 d) Đánh giá kết quả ........................................................................................................... 19 3. Kết quả đạt được ............................................................................................................ 19 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 22 I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) vào dạy học không còn là chuyện quá xa lạ với nhiều giáo viên và học sinh hiện nay. Tuy nhiên, việc sử dụng như thế nào cho hiệu quả BĐTD lại là một vấn đề không hề đơn giản. Hiện nay, nhiều người vẫn cho rằng sử dụng BĐTD chỉ là việc tái hiện lại kiến thức qua các đường nét, màu sắc, từ khóa để cho dễ nhớ, dễ thuộc một nội dung nào đó. Thực tế, BĐTD còn có thể phát huy hiệu quả trong công việc dạy học nhiều hơn thế. Nếu chúng ta tập trung vào sự sáng tạo, biến đổi, kết hợp giữa những yếu tố có sẵn của BĐTD (màu sắc, đường nét, từ khóa, hình ảnh) với những yếu tố bên ngoài, mới hơn như: hình tượng nhân vật, chủ đề đối tượng, tích hợp liên môn, diễn giải, thuyết trình trên lớp… biến BĐTD thành những “tác phẩm” mang tính nghệ thuật, sẽ làm cho bài học trở nên sinh động, cuốn hút, tránh sự nhàm chán, áp đặt, thụ động với học sinh, từ đó đạt được hiệu quả dạy học cao hơn. Đối với môn Ngữ văn, việc sử dụng BĐTD vốn không dễ như những môn học khác bởi đặc thù của môn học là tái hiện những kiến thức rất “trừu tượng” (những nội dung thuộc phạm trù tư tưởng, tình cảm, thẩm mĩ…). Do vậy, nếu áp dụng phương pháp sử dụng BĐTD theo một lối mòn có sẵn trong dạy học thì hiệu quả công việc sẽ không cao, ngược lại nếu biết khơi dậy tính chủ động, sáng tạo của học sinh vào BĐTD thì người giáo viên lại có thể phát huy được tính linh hoạt, hiệu quả của nó và đạt được hiệu quả tối đa trong công việc của mình. Từ thực tế trên đây, tôi viết đề tài Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc sử dụng bản đồ tư duy vào dạy - học môn Ngữ văn lớp 11, ở trường THPT Nguyễn Trường Tộ nhằm chia sẻ những kinh nghiệm trong việc sử dụng BĐTD vào hoạt động dạy học môn Ngữ văn của mình. Rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý từ quý thầy cô, đồng nghiệp, mọi người để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! 1 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: phương pháp sử dụng BĐTD một cách chủ động, sáng tạo vào dạy – học môn Ngữ văn ở trường THPT. - Đối tượng thực nghiệm: học sinh THPT, lớp 11 (ban cơ bản), trường THPT Nguyễn Trường Tộ, Đức Cơ, Gia Lai; - Phạm vi nghiên cứu: thuộc chương trình SGK Ngữ Văn, lớp 11 (ban cơ bản), trong năm học: 2015 – 2016. 3. Mục đích nghiên cứu - Tìm ra một phương pháp học tích cực, hiệu quả trong việc khai thác, ghi nhớ, vận dụng sáng tạo kiến thức môn Ngữ văn trong hoạt động dạy học và áp dụng vào thực tiễn cuộc sống. - Làm cho tiết học thêm phong phú, đa dạng, tích hợp kiến thức liên môn, phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện năng lực người học. Từ đó tạo điều kiện cho học sinh tăng thêm sự hứng thú, tích cực trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. - Qua việc thực hiện phương pháp BĐTD trong chương trình dạy học, còn giúp các giáo viên bộ môn không ngừng học hỏi, trao đổi kiến thức với nhau. Từ đó góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục. 4. Ý nghĩa đề tài Ý nghĩa khoa học: - Đề tài được thực hiện nhằm nâng cao nghệ thuật dạy học bộ môn Ngữ văn, cũng như phát huy tính sáng tạo trong việc dạy và học Văn học ở nhà trường THPT. Kết quả của đề tài sẽ góp phần phát triển tư duy của GV và HS trong hoạt động dạy học Văn học. - Cung cấp thêm một phương pháp dạy học tích cực, góp phần thực hiện hiệu quả chủ trương dạy học theo định hướng pháp triển năng lực mà Sở Giáo dục – Đào tạo Gia Lai, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang hướng đến. Ý nghĩa thực tiễn: 2 - Góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn nói riêng và các môn học khác nói chung ở trường THPT Nguyễn Trường Tộ. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp - Phương pháp đối chiếu – so sánh - Phương pháp khảo sát thực tế. 3 II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài 1.1. Bản đồ tư duy và việc áp dụng BĐTD vào dạy học Ngữ văn hiện nay 1.1.1. Bản đồ tư duy, lịch sử phát triển Bản đồ tư duy là một phương pháp học, ghi nhớ thông tin mới mẻ, sáng tạo do Tony Buzan tìm ra ra vào những năm 60 của thế kỉ XX. Nguyên tắc hoạt động của BĐTD là sự ghi nhớ, xâu chuỗi, liên kết thông tin về đối tượng một cách logic từ các yếu tố: đườn nét, màu sắc, hình ảnh và từ khóa. Sự liên kết này giống cách thức hoạt động của các nơ ron thần kinh trong não người, đồng thời nó cũng cho phép cả hai bán cầu não trái và phải được kích thích hoạt động một cách tối đa. Theo các nhà khoa học thì bên não trái của người là nơi đảm nhận các thông tin về: nhịp điệu, màu sắc, hình dạng, bản đồ, tưởng tượng, mơ mộng; bên não phải đảm nhận các thông tin về: từ ngữ, con số, đường kẻ, danh sách, lý luận, phân tích, một khi BĐTD được tái hiện thì tất cả những khả năng của hai bán cầu não đều được huy động mang lại hiệu quả cao nhất cho việc tái hiện, liên kết và ghi nhớ thông tin. Hình 1. Tony Buzan Hình 2. Các chức năng của hai bán cầu não 4 Chính những ưu việt của phương pháp tái hiện và ghi nhớ thông tin này mà BĐTD nhanh chóng được áp dụng rộng rãi vào cuộc sống. Người ta coi đó là “công cụ vạn năng”, điều “thần kỳ” mang lại hiệu quả cao cho công việc. Theo Wikimidia, hiện nay trên thế giới có hơn 250 triệu người sử dụng BĐTD vào các công việc khác nhau, từ các hoạt động cá nhân cho đến các công ty, tổ chức, hiệp hội… trên mọi lĩnh vực: kinh tế, khoa học, chính trị, giải trí, giáo dục... Hình 3. Các lĩnh vực áp dụng bản đồ tư duy ngày nay rất đa dạng Bản chất của BĐTD là sự kết hợp giữa KIẾN THỨC và SÁNG TẠO. Càng sáng tạo bao nhiêu thì kiến thức được tái hiện và ghi nhớ nhiều hơn, lâu hơn. Do vậy, BĐTD ngày càng được phổ biến và áp dụng với nhiều xu hướng 1.1.2. Thực tế áp dụng BĐTD vào dạy học môn Ngữ văn hiện nay Hiện nay với “khả năng vô hạn” của mình, BĐTD đã được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực giáo dục và dạy học, trong đó có môn Ngữ văn. Từ thực tế dạy học môn Ngữ văn, có hai trường hợp xẩy ra khi sử dụng BĐTD. Trường hợp thứ nhất, sử dụng bản đồ tư duy theo hình thức ghi nhớ thông tin truyền thống (dùng những hình đường nét để ghi nhớ thông tin bài học theo một mô hình nhất định). Ở xu hướng này, BĐTD trở thành công cụ giúp người sử dụng có thể ghi nhớ và tái hiện lại thông tin một cách rất hiệu quả, tuy nhiên những thông tin này chỉ dựa trên sự tái hiện giữa các đường nét, màu sắc, và từ khóa (hình 5 ảnh minh họa chiếm số lượng ít) nên hạn chế trong việc liên kết, mở rộng trong thực tiễn, dễ gây nhàm chán cho người học. Hình 4. Bản đồ tư duy theo nhánh (cách sử dụng truyền thống) Trường hợp thứ hai, BĐTD được tái hiện hiện dựa trên sự sáng tạo, tích hợp và kết hợp nhiều hình ảnh, thông tin từ các loại hình nghệ thuật, bộ môn học khác, nhằm vừa tái hiện, ghi nhớ thông tin, vừa liên kết, mở rộng, vừa sáng tạo thêm thông tin và các chủ đề liên quan khác. Hình 5. Một bản đồ tư duy theo cách sáng tạo (truyện “Hai đứa trẻ”-Thạch Lam) 6 Từ hai trường hợp này có thể nhận thấy, trong hoạt động dạy học nếu áp dụng BĐTD theo trường hợp thứ nhất thì học sinh có thể ghi nhớ thông tin bài học và việc lĩnh hội kiến thức chỉ ở mức độ “nhận biết” và “thông hiểu” - những kiến thức cơ bản trong bài học. Ngược lại trong trường hợp thứ hai, các em không chỉ nhận biết, thông hiểu nữa mà còn có thể “vận dụng, sáng tạo” cả ở mức độ thấp và mức độ cao khi tiếp nhận kiến thức. Các em có thể tái hiện kiến thức trong BĐTD một cách sáng tạo và chủ động, có thể huy động kiến thức ở nhiều cấp độ khác nhau, trong môn học hoặc liên môn với các môn học khác. Như vậy, chủ động, sáng tạo khi sử dụng BĐTD trong bộ môn Ngữ văn trở thành một chìa khóa quan trọng rất lớn để học sinh và giáo viên thành công trong hoạt động dạy – học của mình. Và đây cũng chính là cơ sở, căn cứ khoa học của đề tài, SKKN này. 1.2. Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng đề tài trong dạy học ở Trường THPT Nguyễn Trường Tộ a) Thuận lợi: + Về chương trình giáo dục. Hiện nay với việc áp dụng chương trình dạy học tích cực phát triển năng lực của học sinh, và dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn, cho phép học sinh có thể thỏa sức sáng tạo và chủ động trong việc nắm bắt kiến thức bài học. Mục tiêu lớn nhất của Bộ giáo dục và Đào tạo là chuyển từ hình thức học “đọc chép” sang hình thức “tự học” phát sự chủ động, sáng tạo ở người học. Do vậy, sử dụng BĐTD tăng cường được khả năng sáng tạo của người học, giúp định hướng phát triển năng lực toàn diện cho học sinh. + Về phương tiện, cơ sở vật chất của nhà trường. Được sự quan tâm tận tình của lãnh đạo UBND Tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo Gia Lai, cùng với sự chỉ đạo của BGH, trường THPT Nguyễn Trường Tộ đã trang bị được những phòng học, phòng máy tính, phòng máy chiếu tương đối hiện đại, có đầy đủ thiết bị hỗ trợ: máy tính, máy chiếu, loa, đài, bảng phụ… để phục vụ cho hoạt động dạy học. 7 + Về giáo viên. Đa số giáo viên hiện nay đều đã được học, được tập huấn hướng dẫn sử dụng BĐTD vào dạy học. Từ đó việc học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong dạy học có sử dụng BĐTD cũng thuận lợi và dễ dàng hơn. + Về học sinh. Phần lớn học sinh đã được làm quen với BĐTD trong dạy học, điều này có được là do các em được học trên lớp, một phần do các em tiếp xúc với các nguồn thông tin từ bên ngoài nên cũng thuận lợi cho việc dạy học có sử dụng BĐTD. Thêm vào đó, với sự mới mẻ, linh hoạt từ chính phương pháp học, các em cũng rất thích thú và tham gia nhiệt tình để hoàn thành các bài tập mà giáo viên giao cho. + Về gia đình và xã hội. Áp dụng BĐTD vào dạy học là một phương pháp mới, mang lại tính hiệu quả nên được mọi người ủng hộ. Hiện nay, phần lớn những gia đình đều có điều kiện để cho con em mình những điều kiện, phương tiện hỗ trợ học tập tốt nhất. Ngoài sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, các em cũng được tiếp xúc với các phương tiện, ứng dụng khoa học kĩ thuận hiện đại như: máy tính, tivi, điện thoại… nếu sử dụng vào đúng vào mục đích học tập thì đây cũng là yếu tố để các em có thể tham khảo, học hỏi nhiều nguồn kiến thức về BĐTD từ bên ngoài để hỗ trợ cho việc học của mình. b) Khó khăn: + Phần lớn học sinh ở địa bàn trường THPT Nguyễn Trường tộ có chất lượng đầu vào thấp, việc tiếp thu nhanh và hiệu quả phương pháp học mới còn nhiều khó khăn. Điều này yêu cầu giáo viên phải chú ý việc tổ chức nhóm và ra bài tập một cách linh hoạt, tùy huộc vào từng đối tượng học sinh để có hiệu quả. + Phương pháp học tập thụ động truyền thống vẫn còn ảnh hưởng khá nhiều ở học sinh. Phần lớn vẫn có tâm lý làm bài tập mang tính đối phó, xong mỗi bài học rồi sau đó không luyện tập, áp dụng vào các bài học khác một cách hệ thống, khoa học để có thể liên kết giữa các bài học. 8 + Đặc thù môn Ngữ văn cũng có những khó khăn nhất định. Phần lớn là những bài học khó, trừu tượng nên các em học sinh và giáo viên cũng khó cho việc lựa chọn nội dung và bài học để áp dụng BĐTD vào chương trình. + Hình thức tổ chức hoạt động nhóm, thảo luận, trình bày, trao đổi, tương tác… giữa các học sinh còn mới mẻ nên có một số em chưa quen, từ đó khó khăn cho giáo viên triển khai nội dung bài học… 2. Biện pháp phát huy tích chủ động, sáng tạo của học sinh trong BĐTD 2.1. Hướng dẫn học sinh vận dụng BĐTD một cách sáng tạo Trong phần này, chúng tôi không tập trung vào kĩ thuật vẽ BĐTD hay những bước tiến hành cần có của một BĐTD mà chỉ tập trung vào những nội dung, biện pháp nhằm thể hiện sáng tạo trong BĐTD, từ đó học sinh có thể ghi nhớ, tái hiện, liên kết thông tin một cách hiệu quả nhất, dựa trên đặc thù của bộ môn Ngữ văn. a) Xây dựng BĐTD theo chủ đề Xây dựng BĐTD dựa trên những chủ đề lớn, bao quát từ các tác phẩm trong SGK Ngữ văn. Mỗi chủ đề học sinh có thể dựa trên những thông tin: nhân vật, các chuỗi sự kiện, chi tiết nổi bật, hành động, lời đối thoại… trong văn bản để tái hiện. Mỗi văn bản giáo viên có thể đưa ra nhiều chủ đề để học sinh thể hiện. Như tác phẩm “Chí Phèo” có thể đưa ra các chủ đề: - Bi kịch tình duyên của Chí Phèo; - Bi kịch cự tuyệt quyền làm người; - Mâu thuẫn giai cấp địa chủ phong kiến với người nông dân… Tác phẩm “Hai đứa trẻ” có thể có các chủ đề như: - Số phận những con người nhỏ bé ở phố huyện; - Hình tượng ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm; - Đoàn tàu và người dân phố huyện 9 - Suy nghĩ và tâm trang của nhân vật Liên… Ở dạng này, BĐTD có tính tổng thể, logic giữa những thông tin. Ưu điểm là người học có thể tái hiện lại được những vấn đề cốt lõi của tác phẩm đề ghi nhớ và liên tưởng, tưởng tượng đến những vấn đề, nội dung, giá trị khác trong tác phẩm. Hạn chế ở đây là do mang tính trừu tượng nên một số BĐTD cách thể hiện còn tương đối đơn giản hoặc mơ hồ, không rõ ý. 10 Hình 6. Hai cách thể hiện về chủ đề: “Bi kịch tình duyên của Chí phèo” b) Xây dựng BĐTD theo nhân vật Dựa trên nhân vật chính, quan trọng trong tác phẩm, BĐTD tái hiện lại nhân vật. Yêu cầu quan trọng của cách thể hiện BĐTD này là người học phải cho thấy tính hợp lý, mối liên hệ giữa nhân vật với các thông tin liên quan, sự tác động qua lại giữa các nhân vật, và giữa nhân vật với ý nghĩa tác phẩm, thậm chí là thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm qua nhân vật. BĐTD thể hiện nhân vật phát huy tối đa khả năng liên tưởng, tưởng tượng và vận dụng sáng tạo của học sinh, cho phép ghi nhớ thông tin văn bản và khả năng liên hệ thực tế. Tuy vậy, củng có trường hợp học sinh có cách hiểu đơn giản, hoặc sai lệch về nhân vật, điều này giáo viên cần định hướng đúng lại cho học sinh. 11 Hình 7. Cách thể hiện nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao Hình 8. Cách thể hiện nhân vật Hai chị em Liên, An 12 c) Xây dựng BĐTD theo nội dung Nội dung văn bản văn học ở đây được hiểu là các diễn biến chính của câu chuyện, nó giống như việc tái hiện lại cốt truyện của tác phẩm. Nếu chủ đề là những khía cạnh, hay một vấn đề nổi bật thì nội dung là cái nhìn toàn cảnh về văn bản văn học. Việc sử dụng BĐTD để thể hiện nội dung văn bản giúp học sinh ghi nhớ thông tin hiệu quả, đồng thời có thể tóm tắt nội dung văn bản một cách nhanh nhất, từ đó vận dụng vào việc cảm nhận, phân tích, đánh giá các nội dung tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Hình 9. Cách thể hiện nội dung vở kịch “Vũ Như Tô” 13 Hình 10. Cách thể hiện nội dung truyện ngắn “Hai đứa trẻ” d) Xây dựng BĐTD theo cách tổng hợp Đây là cách dùng BĐTD để thể hiện cái nhìn toàn vẹn, hoàn chỉnh về tác phẩm văn học. Giống như việc trả lời câu hỏi “em học được những gì từ tác phẩm này?”, học sinh thông qua BĐTD có cách đánh giá bao quát về tác phẩm dựa trên những phạm khía cạnh lớn nhất, bao gồm các yếu tố như: tác giả, hoàn cảnh sáng tác, nội dung, nghệ thuật của văn bản… Đây là một cách thể hiện tổng hợp nên BĐTD dạng này phù hợp cho các bài ôn tập, củng cố kiến thức bài học mang tính hoàn chỉnh. Một dạng khác của cách thể hiện này, là có thể chia nhỏ nội dung thành các phần cho các nhóm và tổng hợp lại để có một BĐTD hoàn chỉnh. 14 Hình 11. Bản đồ tư duy về tác phẩm “Từ ấy” e) Xây dựng BĐTD theo cách vận dụng Xây dựng BĐTD theo cách vận dụng nhằm tái hiện kiến thức ở dạng “đơn lẻ” như: hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt văn bản, thể hiện nội dung một khổ thơ, một chi tiết nghệ thuật, biện pháp nghệ thuật… Cách vận dụng này là sự cảm nhận riêng của các em học sinh trong quá trình học, nên có thể kết hợp để mở rộng hơn vấn đề hoặc có thể liên kết với kiến thức của các môn học khác trong BĐTD. 15 Hình 12. Cách thể hiện khổ thơ một trong bài “Từ ấy” Hình 13. Cách thể hiện khổ thơ hai trong bài “Từ ấy” 16 2.2. Xây dựng, định hướng tổ chức hoạt động dạy – học có sử dụng BĐTD Để có được thành công trong việc vận dụng sáng tạo BĐTD vào hoạt động môn Ngữ văn thì việc định hướng, hướng dẫn, tổ chức hoạt động dạy học cần được tiến hành theo một quy trình thống nhất, khoa học. Sau đây là các bước tiến hành của một hoạt động dạy học có sử dụng BĐTD cụ thể. a) Định hướng, thiết kế bài học Đây là bước đầu tiên, người giáo viên cần xác định được nội dung bài dạy của mình có áp dụng phương pháp dạy học bằng BĐTD. Thực tế cho thấy không phải bài học nào cũng có thể áp dụng hoặc dùng BĐTD là đạt hiệu quả, mà nó cần sự phù hợp, linh hoạt nhất định. Việc lựa chọn bài học, nội dung, chủ đề, người thực hiện BĐTD thể hiện tầm nhìn và kinh nghiệm của giáo viên trong dạy học. Tiếp theo là việc áp dụng BĐTD như thế nào vào trong tiến trình dạy học, thể hiện qua giáo án của người giáo viên. Nó có thể nằm ở phần nào, thuộc phần kiểm tra bài cũ, triển khai bài mới hay làm bài tập, là do cá nhân hay nhóm học sinh tiến hành… Tất cả đều phải được giáo viên lựa chọn, sắp xếp, bố trí một cách hợp lý. Điều này đòi hỏi sự chuẩn bị kĩ càng của giáo viên, và có thể linh hoạt thay đổi sau khi “rút kinh nghiệm” qua mỗi tiết học, bài học và cả những năm học của giáo viên. b) Chuyển giao nhiệm vụ Chuyển giao nhiệm vụ học tập cho học sinh được tiến hành khi giáo viên đã có định hướng và nội dung cho học sinh, các nhóm học sinh thực hiện BĐTD. Bước này được thực hiện trên lớp, trước mỗi bài học có áp dụng BĐTD. Ở bước này, giáo viên và học sinh có thể trao đổi về các nội dung liên quan đến BĐTD như: cách thức thể thể hiện, đánh giá, thời gian, giao nhiệm vụ, phân chia nhóm… Lưu ý quan trọng nhất trong hoạt động này: giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng còn học sinh giữ vai trò trung tâm quyết định, lựa chọn cách thức thể hiện, trình bày BĐTD của mỗi nhóm. 17 c) Trao đổi thảo luận Sau khi có BĐTD, mỗi học sinh hoặc các nhóm trình bày lại ý tưởng của mình và cho học sinh trong lớp trao đổi, đặt câu hỏi thảo luận. Đây là bước học sinh phản biện về mỗi BĐTD, qua đó học sinh có thể học hỏi lẫn nhau cũng như rút ra những hạn chế, thiếu sót để hoàn thiện hơn BĐTD của mình. Điều này cũng góp phần nâng cao tính tương tác giữa những người học và các chủ đề của bài học. Về hình thức hoạt động trao đổi, thảo luận, giáo viên có thể tiến hành linh hoạt theo hình thức cặp đôi, các nhóm hoặc cá nhân… Vai trò của người giáo viên trong hoạt động này là tổ chức, định hướng hoạt động thảo luận, giúp cho các em học sinh chiếm lĩnh, lĩnh hội kiến thức, bài học một cách hiệu quả nhất. Hình 14. Hoạt động thảo luận nhóm và trao đổi trên lớp 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan