SKKN Nâng cao hiệu quả chủ nhiệm thông qua giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nữ lớp 10 trường THPT HH Thám
z
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KHÁNH HÒA
Trường THPT Hoàng Hoa Thám
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SƯ PHẠM ỨNG DỤNG
ĐỀ TÀI: NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHỦ NHIỆM THÔNG QUA
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH NỮ LỚP 10
TRƯỜNG THPT HOÀNG HOA THÁM
Tên tác giả:Tạ Thị Thu Hằng
Kèm theo: đĩa CD, phụ lục
NĂM HỌC 2013-2014
MỤC LỤC
Trang 1
I. Tóm tắt đề tài ..................................................................................................... 4
II. Giới thiệu: .......................................................................................................... 6
II. 1.Thực trạng:.........................................................................................................9
II.1.1. Thực trạng KNS của HS trong trường THPT ....................................... 9
II.1.2.Thực trạng giáo dục KNS trong trường THPT ..................................... 10
II.1.3.Thực trạng GD KNS cho HS nữ ở trường THPT Hoàng Hoa Thám ... 12
II.1.4. Nguyên nhân thực trạng ....................................................................... 13
II.2. Giải pháp thay thế: ....................................................................................... 15
II.2.1.Cơ sở lí luận của đề tài: ......................................................................... 15
II.2.2.Kĩ năng sống là gì? ................................................................................ 16
II.2.3. Nội dung GD kĩ năng sống cho hs nữ trong giờ SH ngoài giờ lên lớp 21
II.2.3.1. GD giới tính .......................................................................... 21
II.2.3.2. Sức khỏe sinh sản vị thành niên, phòng chống HIV- AIDS. 16
II.2.3.3. GD giới tính + Bình đẳng giới.............................................. 23
II.2.3.4. Tình bạn – Tình yêu – Hôn nhân .......................................... 24
II.2.3.5. Bạo lực học đường................................................................ 25
II.2.3.6. Tư vấn học đường ................................................................. 27
II.3. Nhiệm vụ nghiên cứu: .................................................................................... 27
II.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:...... ............................................................28
III.Phương pháp nghiên cứu:...................................................................................28
III.1.Khách thể nghiên cứu:.....................................................................................28
III.2.Thiết kế nghiên cứu:............................................................ ...... .....................29
III.3.Quy trình nghiên cứu:.................................................................. ..... ..............31
III.4. Đo lường và thu thập dữ liệu: ....................................................... .................47
IV. Phân tích dữ liệu và kết quả:............................................................. ............47
V. Kết luận và khuyến nghị:............................................ ...... ..............................48
V.1. Kết luận: ....................................................................... ..................................48
V.2. Khuyến nghị ....................................................... ...... ......................................49
Tài liệu tham khảo ....................................................... ... .....................................52
PHẦN PHỤ LỤC ......................................................... . .......................................53
Trang 2
Những chữ viết tắt:
GD – ĐT: Giáo dục – đào tạo
VTN: Vị thành niên
GVCN: Giáo viên chủ nhiệm
HS: học sinh
THPT: Trung học phổ thông
KNS: kĩ năng sống
SKSS: Sức khỏe sinh sản
Trang 3
I. Tóm tắt đề tài:
Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển với tốc độ chóng mặt đã
mang lại nhiều tiến bộ, văn minh giúp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
con người. Nhưng nó cũng tồn tại những mặt trái mà tác động cụ thể đến các thế
hệ tương lai qua những kênh giải trí trên TV, Youtube, mạng Facebook,... Đó là
thực trạng học sinh THPT sa vào những thử nghiệm, khám phá về tình dục gây
ra việc bỏ học giữa chừng để làm mẹ trẻ hoặc phải nạo phá thai; những nhận
thức sai lầm về bình đẳng giới, những ảnh hưởng từ trò chơi, phim ảnh bạo lực
dẫn đến tình trạng báo động về bạo lực học đường,... Đối tượng ở đây lại là
những nữ sinh vốn từ trước đến giờ là biểu tượng của sự trong sáng, đáng yêu.
Đứng trước thực trạng nhức nhối ấy, người giáo viên THPT không chỉ
chú trọng dạy chữ mà còn cần phải đặc biệt chú ý dạy người. Người giáo viên
chủ nhiệm sẽ trang bị được kiến thức, GD, uốn nắn các hành vi của các em học
sinh thông qua giáo dục kĩ năng sống trong các giờ chủ nhiệm cuối tuần, sinh
hoạt ngoài giờ lên lớp đầu tuần. Nhận thấy tính khả thi của hoạt động, tôi đã tiến
hành nghiên cứu đề tài khoa học: Nâng cao hiệu quả chủ nhiệm thông qua giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh nữ lớp 10 trường THPT Hoàng Hoa Thám năm
học 2013- 2014.
Từ việc tìm hiểu rõ thực trạng kĩ năng sống của học sinh THPT, thực trạng
dạy kĩ năng sống ở trường THPT nói chung và trường THPT Hoàng Hoa Thám
nói riêng, tôi nhận thấy: Học sinh THPT đang ở vào tuổi vị thành niên với rất
nhiều những biến đổi về tâm sinh lí, rất non yếu về kĩ năng sống nhưng lại luôn
muốn khẳng định mình là người lớn. Điều đó tiềm ẩn nhiều nguy hại khó lường
nếu không quan tâm, uốn nắn các em kịp thời. Trong khi đó Giáo dục của chúng
ta còn né tránh việc giáo dục giới tính cho học sinh. Các giờ sinh hoạt chủ nhiệm
còn nặng về phê bình, đánh giá theo thi đua hoặc nếu có, các giờ Sinh hoạt ngoài
giờ lên lớp GVCN dạy qua loa, chiếu lệ, không mấy hiệu quả. Cho nên hoạt
động giáo dục kĩ năng sống của tôi sẽ xoáy vào nội dung GD giới tính.
Theo WHO (Tổ chức Y tế thế giới) giáo dục giới tính bao gồm: Sự phát
triển của giới tính, sức khỏe sinh sản, các mối quan hệ cá nhân, tình cảm, về
Trang 4
ngoại hình, về vai trò của giới[5]. Dựa vào khái niệm này tôi đã lồng ghép các
nội dung vào 4 chủ để: Sức khỏe sinh sản vị thành niên và phòng chống HIVAIDS; Giáo dục giới tính + Bình đẳng giới; Tình bạn – Tình yêu – Hôn nhân và
Bạo lực học đường. Về lí thuyết, chúng ta có thể tìm thấy khá nhiều tài liệu về
các nội dung này nhưng để tập trung đầy đủ lại và để hướng cụ thể đến đối
tượng học sinh nữ thì chưa có.
Mặt khác có thể nói đây là nội dung không mới đối với các em nên nếu
không khéo cứ nhồi nhét, bắt các em học thì rất có thể phản tác dụng.. Chính vì
thế trước tiên tôi phải điều tra về đối tượng để nắm bắt xem các em hiểu biết đến
đâu và thăm dò phương pháp dạy học phù hợp nhất. Mặc dù đã được học nhưng
các em hiểu biết chưa toàn diện và đầy đủ (65% không hiểu khái niệm Bình
đẳng giới). Nguyện vọng của các em đều muốn giờ sinh hoạt ít nặng nề về thi
đua hay kỉ luật mà tăng cường hoạt động giao lưu, giáo dục kĩ năng sống qua
các trò chơi, các câu chuyện kể,.. Các em hứng thú nhất với Phương pháp trò
chơi 25/41 chiếm 61 % và phương pháp đóng vai 22/41 chiếm 53,7%. Như vậy
thiết kế nghiên cứu của tôi sẽ truyền tải 4 chủ đề như trên sử dụng chủ yếu 2
phương pháp này để các em học sinh sẽ học mà chơi, chơi mà học.
Điều đó được thể hiện cụ thể thông qua việc tổ chức lớp thành 4 đội chơi (4
tổ của lớp), từng chủ đề đều được thiết kế qua các phần thi với tên gọi và luật thi
khác nhau. Đặc biệt chủ đề nào cũng có phần xử lí tình huống và phát biểu quan
điểm(trong trò chơi hoặc ở phần thi phụ). Các nội dung mở rộng phong phú từ
những sự kiện trong quá khứ (Hai Bà Trưng xưng vương) cho đến các hiện
tượng gây xôn xao dư luận gần đây(học sinh nữ đánh nhau lột đồ, bà Tưng) để
định hướng học sinh có cái nhìn đúng đắn và chấn chỉnh hành vi. Nội dung giới
tính các em được tìm hiểu sự phát triển ở cả giới nam và nữ (thuận lợi là lớp 41
học sinh nữ) và tìm hiểu các biện pháp quan hệ tình dục an toàn. Các em được
tìm hiểu cụ thể về các biện pháp tránh thai, giải pháp cho bạo lực học đường,..
và được xem phim nói về chủ đề này. Bốn chủ đề tôi đều thiết kế trên
Powerpoint với nhiều hình ảnh, âm thanh linh hoạt để giúp hỗ trợ giáo viên vừa
để tăng sự sinh động cho bài giảng, thu hút hs chú ý hơn.
Trang 5
Sau mỗi tiết học các em được trao phần thưởng cho đội chiến thắng và
được cộng khuyến khích 2 điểm thi đua tuần đối với mỗi thành viên của tổ đạt
giải nhất(đã có hội ý của GVCN và lớp). Đồng thời cuối mỗi tiết sinh hoạt tôi
cho các em viết vào giấy(không cần viết tên) điều thắc mắc của mình về chủ đề
đã học. Sau đó tôi tổng hợp tất cả lại và chuẩn bị 1 số nội dung mở rộng làm
thành hoạt động tư vấn học đường. Một số câu hỏi đã có trong phần được học thì
tôi cho học sinh tham gia, trở thành nhà tư vấn cho bạn mình. Cuối cùng tôi
chọn một tiết thích hợp tổ chức một buổi chiếu phim với tư liệu giáo dục giới
tính trực tuyến tôi đã sưu tầm được để giúp các em củng cố những gì đã học.
Một tuần sau đó tôi tiến hành phát phiếu đánh giá cho lớp thực nghiệm (lớp 10
A7) và lớp đối chứng(lớp 10 A8). Các em hoàn thành trong thời gian 40 phút,
tôi thu lại và chấm điểm.
Như vậy khách thể nghiên cứu của đề tài là 20 học sinh nữ của lớp 10 A8
là nhóm đối chứng và 20 hs nữ lớp 10 A7 ở nhóm thực nghiệm,. Các em có kết
quả hạnh kiểm và học lực lớp 9 tương đương nhau. Điểm từ phiếu đánh giá
chính là bài kiểm tra sau tác động. Kết quả điểm trung bình nhóm đối chứng 5,4,
nhóm thực nghiệm 7,0, chênh lệch giá trị trung bình chuẩn là 1,5. Sau tác động
kiểm chứng chênh lệch ĐTB bằng T-test cho kết quả p = 0,00001, cho thấy sự
chênh lệch giữa ĐTB trước tác động và sau tác động rất có ý nghĩa. Như vậy có
thể thấy việc GD kĩ năng sống với nội dung GD giới tính đã giúp các em học
sinh nữ được trang bị kiến thức đầy đủ, biết xử lý những tình huống trong cuộc
sống nếu gặp phải. Từ đó cũng giúp các em định hướng và sẽ có quyết định
đúng đắn, nghiêm túc về tình yêu, tình dục, hôn nhân,...trong tương lai. Đó là ý
nghĩa thiết thực của đề tài.
II. Giới thiệu:
Thế kỉ XXI, thế kỉ của đỉnh cao trí tuệ, là thế kỉ bùng nổ của tri thức khoa
học và công nghệ. Con người trở thành trung tâm của sự phát triển, vừa là mục
tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Từ đó đòi hỏi Giáo dục phải đạt được hiệu
quả nhất định trong đào tạo con người mới và vì thế đã đặt ra cho người giáo
viên nói chung và người giáo viên chủ nhiệm nói riêng những yêu cầu mới.
Trang 6
Người giáo viên chủ nhiệm không chỉ trang bị kiến thức mà phải chăm lo
hình thành ở thế hệ trẻ những tình cảm, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử hợp
lí. Có nghĩa là giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm đến sự phát triển ở học sinh về
các giá trị đạo đức, thẩm mĩ, thể chất.
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi có những chuyển biến quan trọng cả về
sự phát triển thể lực lẫn sự phát triển tâm lí. Các em có khả năng tri giác rõ ràng,
có những rung cảm mãnh liệt, có nhiệt tình sôi nổi, có khao khát được tìm hiểu,
khám phá mọi vấn đề, khao khát thể hiện mình, ... Nhưng các em cũng trải qua
giai đoạn khó khăn: có những hành vi, những thử nghiệm, có thể có nguy cơ gây
hại cho bản thân và xã hội bởi mâu thuẫn trong tâm lí giữa một bên là tính chất
quá độ không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn. Vì vậy cần có
sự có sự nỗ lực của bản thân các em, sự quan tâm, định hướng của nhà trường,
gia đình và xã hội để các em vượt qua giai đoạn khủng hoảng, phát triển nhân
cách đúng hướng, tránh các sai lệch không đáng có, để trở thành người lớn với
đúng nghĩa của nó.
Sinh ra trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ với tốc độ
chóng mặt, những học sinh thế hệ này phải được đào tạo để trở thành những con
người năng động, tự tin vừa giàu tri thức vừa giàu kĩ năng sống. Cho nên nội
dung Giáo dục kĩ năng sống được chú trọng đưa vào giảng dạy nhiều năm gần
đây. Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã phát động phong trào “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong đó nội dung thứ ba trong năm
nội dung chính là “Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh”. Dựa trên cơ sở phân
tích kinh nghiệm quốc tế và thực trạng giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam những
năm qua, nội dung giáo dục KNS cho HS trong các nhà trường phổ thông bao
gồm các KNS cơ bản, cần thiết. Tuy nhiên hiệu quả chưa được như mong đợi.
Có thể thấy việc HS không được GD kĩ năng sống đầy đủ gây ra tình trạng
phát triển nhân cách lệch lạc. Cụ thể những hiện tượng nổi cộm trong thời gian
gần đây như bạo lực học đường ở nữ giới, bệnh vô cảm, mê muội thần tượng,
tạo Scadal từ khoe hình phản cảm, ăn mặc hở hang, phát ngôn gây sốc, .. và
Trang 7
cùng với đó là những con số đáng lo ngại. Theo Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt
Nam, bình quân mỗi năm có khoảng 300.000 ca nạo phá thai (chiếm 20% trong
tổng số ca), trong đó 80-90% là học sinh, sinh viên. Việt Nam là nước có tỷ lệ
nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và thứ 5 thế giới.[13Báo Vn express ngày 12/07/2013].
Biểu đồ 1: Khảo sát về quan hệ tình dục trước hôn nhân
Gần một nửa số bạn trẻ vị thành niên tham gia một nghiên cứu được Bộ
GD-ĐT công bố [13- Báo DanTri.com.vn ngày 05/12/2012] cho biết từng yêu
và có quan hệ tình dục, 7,6% các em chưa yêu nhưng cũng có quan hệ tình dục.
Kết quả nghiên cứu này do Trung tâm Sáng kiến sức khỏe và dân số (CCIHP)
thực hiện, được báo cáo tại hội thảo “Phổ biến kết quả nghiên cứu về giới và sức
khỏe sinh sản cho thanh niên, học sinh sinh viên (HSSV)”. Cũng theo nghiên
cứu này, có đến 1/3 thanh niên từng có mối quan hệ tình cảm không hề làm bất
cứ điều gì để bảo đảm an toàn, nữ giới lại ít chuẩn bị những biện pháp an toàn
bảo vệ mình hơn nam giới, chỉ vì đơn giản họ nghĩ “không thấy có bất cứ mối
nguy hại nào từ phía đối tác”.
Từ những con số ấy chứng minh việc GD kĩ năng sống mà cụ thể, cấp thiết
là GD giới tính cho học sinh nói chung và học sinh nữ nói riêng là cần tiến hành
càng sớm thì những bất ngờ và đáng tiếc sẽ được hạn chế hơn. Những kiến thức
Trang 8
về giáo dục giới tính sẽ giúp trẻ vị thành niên(giới hạn trong đề tài nghiên cứu
này là những học sinh nữ lớp 10) có một quan điểm tích cực về tình dục, đồng
thời cung cấp các thông tin và kỹ năng để các em có được thái độ và hành vi
đúng, hiểu biết và có trách nhiệm về những quyết định của mình. Đó là lí do tôi
tiến hành đề tài nghiên cứu này.
II.1. Thực trạng:
II.1.1. Thực trạng Kĩ năng sống của học sinh THPT:
Chúng ta dễ dàng tận mắt nhìn thấy trong những quán Internet dọc đường
lúc nào cũng đông học sinh, dù lúc đó đang trong giờ học, buổi trưa hay tối. Học
sinh bỏ học đi chơi game, hoặc tranh thủ lúc đi học về cũng ghé qua “lướt” một
lúc, buổi tối lấy lý do đi học thêm để trốn nhà đi ra quán nét. Đặc biệt ngày nay
với sự mở rộng của mạng xã hội Facebook, các em có thể dễ dàng online bằng
điện thoại di động 24/24 để chia sẻ hình ảnh, ghi âm, quay phim về mọi vấn đề
để cùng nhau “chém gió”, “dìm hàng”, “tự sướng”.. Cũng từ mạng xã hội này
đã nảy sinh nhiều vụ nói xấu, cãi cọ, mâu thuẫn, đánh nhau gây bạo lực học
đường không chỉ của hs với hs, gv với gv mà còn gv với hs. Học sinh khó kiểm
soát cảm xúc của bản thân, chỉ vì nguyên nhân cỏn con cũng sẵn sàng cầm dao
đâm bạn. Cảnh những học sinh vi phạm giao thông, tan trường đạp xe hàng ba,
hàng bốn, phóng xe lạng lách, vượt quá tốc độ dù bị nhà trường cảnh cáo, hạ
hạnh kiểm vẫn không sợ.
Học sinh hiện nay có quan niệm về tình bạn, tình yêu cởi mở hơn, dễ dàng
yêu sớm và muốn thử nghiệm. Nhiều sự việc trực tiếp xảy ra ở trường THPT
trên địa bàn huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa: Học sinh 12 phải nạo phá thai
hoặc nghỉ học để làm mẹ. Đáng chú ý là tình huống này lại xảy ra ở những học
sinh nổi tiếng ngoan, hiền, chăm học.
Bên cạnh đó, một số học sinh rất chăm chỉ học tập và kết quả học tập
hàng năm đều cao, nhưng lại chỉ biết mỗi chuyện học, ít quan tâm đến các hoạt
động tập thể văn nghệ, thể thao, cắm trại của lớp, của trường. Những học sinh
Trang 9
đó sống khép kín, không hòa đồng với bạn bè, không quan tâm đến những gì
đang diễn ra xung quanh. Từ đó phổ biến căn bệnh vô cảm trong học sinh. Có sự
vô cảm không biết cảm ơn khi được giúp đỡ, không biết xin lỗi khi làm sai, có
sự vô cảm dẫn đến sự việc nghiêm trọng như các nữ sinh ở Bắc Giang, Quảng
Ninh, Hải Phòng đánh nhau, xé áo, cắt tóc bạn mình thì các em vẫn đứng xem,
quay phim, cổ vũ nhiệt tình. Văn hóa thần tượng lệch lạc, các Fan cuồng có
hành động phát ngôn phản cảm, thiếu suy nghĩ, tôn thờ mù quáng. Hoặc giới trẻ
thích tạo ra Scandal để được nổi tiếng bằng việc khoe thân phản cảm, phát ngôn
gây sốc,…
Tất cả những biểu hiện ấy làm đau đầu những nhà Giáo dục và trách
nhiệm của nhà trường THPT và giáo viên chủ nhiệm không phải là những người
ngoài cuộc. Như vậy câu hỏi đặt ra phải GD kĩ năng sống như thế nào để cải
thiện tình trạng trên.
II.1.2.Thực trạng giáo dục kĩ năng sống ở trường THPT :
Thông qua dự án “Giáo dục KNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/
AIDS dành cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”, do Quỹ nhi đồng
Liên Hợp Quốc (UNICEF) phối hợp với Bộ GD- ĐT phối hợp cùng Hội Chữ
thập đỏ Việt Nam thực hiện năm 1995-1996 thì thuật ngữ KNS bắt đầu xuất hiện
trong nhà trường phổ thông Việt Nam. Việc giáo dục KNS trong trường THPT
được Bộ GDĐT triển khai vào cuối năm 2010. Theo công văn chỉ đạo của Bộ
GDĐT, đưa KNS vào chương trình giáo dục trong nhà trường phổ thông, yêu
cầu lồng ghép chương trình kỹ năng sống ở các môn học. Các môn lịch sử, địa
lí, giáo dục công dân và đặc biệt là môn ngữ văn đã có sự lồng ghép vào giảng
dạy. Nhưng một mặt tôi nhận thấy việc lồng ghép đưa vào còn chung chung, hời
hợt, chiếu lệ và ít hiệu quả. Một mặt việc áp dụng của giáo viên (GV) còn gặp
nhiều khó khăn, lúng túng; xét trong điều kiện đó cũng là điều không thể tránh
khỏi.
Mặt khác việc GD kĩ năng sống ở trường THPT chủ yếu nhấn mạnh ở với
những nội dung: kĩ năng nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác(thông qua
Trang 10
làm việc nhóm) mà ít các kĩ năng nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng
kiểm soát cảm xúc, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ và kĩ năng giải quyết vấn đề. Như
vậy GD kĩ năng sống chưa thật thiết thực, chưa đi vào nội dung cụ thể, đặc biệt
là nội dung GD giới tính.
Lí giải về tình trạng trên, có thể thấy: Xã hội Việt Nam bị coi là một xã hội
bảo thủ vì tỷ lệ giáo dục giới tính trong trường học tại Việt Nam rất thấp: chỉ có
khoảng 0.3% trường Trung học phổ thông có đưa giáo dục giới tính vào giảng
dạy cho học sinh[13]. Việc GD giới tính ở trường THPT lại chỉ gắn với phòng
chống HIV- AIDS là phiến diện, không đầy đủ.
Phần nội dung này đã được Bộ giáo dục và đào tạo triển khai tập huấn cho
GV nhưng cũng là dạy học lồng ghép vào các môn xã hội. Những bài học có nội
dung liên quan thìlồng ghép khéo léo, ngắn gọn, không nặng nề, dài dòng. Như
vậy các nội dung này vốn sơ lược lại phân bố rải rác ở các môn học khác nhau.
Cuối cùng kiến thức Hs nhận được chung chung như vệ sinh thân thể, sự mang
thai hoặc cụ thể như HIV/AIDS, thay đổi cơ thể tuổi dậy thì, quan hệ với bạn
bè… Các kiến thức về GD giới tính đôi lúc được đề cập ngẫu nhiên thông qua
trao đổi, tư vấn trên lớp hoặc với riêng từng HS, GV thậm chí còn bỏ qua các
nội dung nhạy cảm..
Như vậy có thể thấy nội dung này đã được quan tâm nhưng ở mức độ còn
hạn chế, chưa có sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa nhà trường, gia đình và
xã hội trong việc GDGT cho tuổi vị thành niên. Công tác tuyên truyền về GD
giới tính chưa được đồng bộ, phương tiện tuyên truyền còn hạn chế. Vì vậy mà
đối tượng tiếp cận kiến thức chỉ mới hiểu biết một cách mơ hồ, chưa thấu triệt,
chưa hiểu rõ bản chất… Trong khi đó với trào lưu du nhập lối sống phương Tây
vào nước ta hiện nay, số VTN QHTD trước hôn nhân, tình trạng nạo phá thai,
hiện tượng lạm dụng TD trẻ em nữ có xu hướng tăng cao… Những vấn đề này
đe doạ trực tiếp đến sức khoẻ VTN. Để giúp các em HS có thể tiếp thu lối sống
lành mạnh thì việc trang bị kiến thức về sức khoẻ giới tính, về việc tránh thai an
toàn để bảo vệ mình là điều vô cùng cần thiết.
Trang 11
Trở lại vấn đề, nhiệm vụ của người GVCN là tìm hiểu đối tượng hs và định
hướng, dẫn dắt các em có quan điểm, tư tưởng, lối sống lành mạnh. Môi trường
sống, gia đình, sở thích, quan hệ, những xu hướng phát triển nhân cách của hs,
GVCN là người nắm rõ hơn ai hết. Chính vì thế cần đưa nội dung GD giới tính
vào giảng dạy ở các giờ SHNGLL mới có thể nâng cao hiệu quả chủ nhiệm và
có thể phần nào giảm bớt thực trạng đáng lo ngại ở trên.
II.1.3. Thực trạng về GD KNS cho HS nữ ở trường THPT Hoàng Hoa
Thám:
Về GD kĩ năng sống nói chung, GD giới tính nói riêng ở Trường
THPT Hoàng Hoa Thám có tiến hành nhưng ít hiệu quả. Nhà trường có tổ
chức chương trình Sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh nữ trong thời
gian 45 phút. Hội trường đông đúc, ồn ào, thời gian ngắn, các em ít tập trung
chú ý.
Hoạt động của Đoàn trường như tuyên truyền qua phát thanh: Sức
khỏe sinh sản vị thành niên và phòng chống HIV – AIDS, Khi tôi 18,.. hay tổ
chức sinh hoạt ngoại khóa nhưng các hoạt động ít lại mang tính hình thức, bề
nổi, chưa có chiều sâu.
Trong giờ sinh hoạt ngoài giờ lên lớp có chủ đề Sức khỏe sinh sản vị
thành niên và phòng chống HIV – AIDS, Phòng chống bạo lực học đường,..
nhưng triển khai cũng qua loa. Người dạy ít đầu tư, người học ít hào hứng
nên hiệu quả không cao.
Theo điều tra về đối tượng Hs nữ lớp 10 A7 trường THPT Hoàng Hoa
Thám về thực trạng hiểu biết về kĩ năng sống và GD giới tính, kết quả như
sau: 40/41 hs nữ cho rằng GD kĩ năng sống rất quan trọng trong trường
THPT chiếm tỉ lệ (97%) nhưng 30/41 hs hiểu chưa thật rõ(73%) kĩ năng sống
là gì, 34/41 hs cho rằng rất cần GD giới tính tại trường THPT(83%). Như
vậy thực trạng giảng dạy KNS và GD giới tính cho hs, nhất là hs nữ ở trường
THPT Hoàng Hoa Thám chưa đáp ứng được nguyện vọng của thầy và trò.
II.1.4. Nguyên nhân thực trạng:
Trang 12
Một thách thức lớn trong việc GD giới tính để tăng kĩ năng sống cho VTN
ở nước ta hiện nay là vấn đề chưa được nhận thức đầy đủ, chưa đúng mức của
toàn
xã hội. Nhiều nhà lãnh đạo chính quyền và nhà hoạch định chính sách vẫn coi
vấn đề sức khoẻ, SKSS VTN chỉ thuần tuý là vấn đề xã hội, liên quan đến tập
quán, lối sống.
Nhận thức về SKSS VTN của các bậc cha mẹ còn nhiều lệch lạc, phong
kiến, coi VTN là trẻ con, chưa có sự trao đổi cởi mở, bình đẳng và hướng dẫn
cần thiết cho VTN. Tâm lí lo ngại “vẽ đường cho hươu chạy” vẫn còn phổ biến
không
chỉ
ở
các bậc PHHS mà cả ở GV, lãnh đạo ngành giáo dục, văn hoá. Thái độ của GV
trực tiếp dạy nội dung GD giới tính cũng đang là trở ngại, các thầy cô cảm thấy
chưa tự tin, ngại ngùng khi truyền đạt về vấn đề này. Lí giải cho hiện trạng thầy
cô cho rằng một nguyên nhân quan trọng là không có môn học riêng về lĩnh vực
này. Sự băn khoăn về nội dung, phương pháp giảng dạy cũng làm GV chưa tự
tin, kết quả là GV có thể né tránh, không đề cập hoặc trả lời thắc mắc của HS.
Về phía học sinh: chưa được trang bị các kỹ năng cần thiết để nhận thức
bản thân và đối phó với các nguy cơ đến từ các mối quan hệ xã hội và sự biến
đổi tâm sinh lý bản thân, các em được gia đình nuông chiều quá mức tạo thành
các thói quen xấu, khó thay đổi.
Về phía phụ huynh học sinh: nhiều phụ huynh chỉ lo kiếm tiền nhiều mà
không quan tâm gì đến việc học tập và giáo dục con cái. Khi thấy môi trường
của chúng có nguy cơ không an toàn thì lại vội vàng tách con mình ra khỏi môi
trường, đưa chúng vào môi trường gò bó, khuôn khổ khiến chúng một mặt
không thể thích nghi với những thay đổi và một mặt khi xảy ra những tình
huống thật sự ngoài đời sẽ phản ứng theo bản năng một cách tiêu cực. Cách nhìn
nhận của các bậc phụ huynh còn dừng lại ở việc quan tâm đến việc học hành của
con mà ít giành thời gian tâm sự hay giáo dục về vấn đề giới tính. Và rõ ràng đối
với hs càng bị né tránh cung cấp thông tin cụ thể từ người lớn sẽ khiến các em
càng tò mò, hoang mang và càng dễ bị dẫn dụ.
Trang 13
Theo ý kiến của phó viện trưởng Viện phát triển sức khỏe cộng đồng Ánh
Sáng- Bác sĩ Nguyễn Thu Giang đã nhấn mạnh về hai nguyên nhân:"Giáo dục
kỹ năng sống cho các em phải từ hai phía gia đình và nhà trường. Ở nhà trường,
đó có thể là các buổi ngoại khóa, sinh hoạt nhóm lành mạnh. Ở góc độ là bác sĩ
điều trị, tôi thấy khi để các em đến cơ sở y tế là đã muộn rồi"[13- Báo Thế giới
trong ta số 426]. Cũng theo điều tra đối với 41 em hs nữ lớp 10A7 trường THPT
Hoàng Hoa Thám, 29/41 hs chọn người tin tưởng nhất để chia sẻ những vấn đề
về giới tính là người thân thiết nhất trong gia đình(71%), chỉ có 2 hs chọn chia
sẻ với GV mà mình tin tưởng nhất(4,9%). Kết quả này cho thấy các em rất đặt
niềm tin vào người thân trong gia đình nhưng đó có phải là nơi cung cấp kiến
thức về giới tính đầy đủ nhất cho các em? Rõ ràng là khó vì bố mẹ các em làm
nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, không phải phụ huynh nào cũng giành
nhiều thời gian để tìm hiểu các kiến thức này cũng như lắng nghe những thay
đổi để uốn nắn các em kịp thời.
Như vậy có thể thấy cơ hội để GV, nhất là GVCN trở thành người cố vấn
đáng tin cậy cho các em chỉ có thể thông qua việc tăng cường GD kĩ năng sống
này. Từ đây GVCN sẽ hoàn thành tốt hơn vai trò của mình, nâng cao được hiệu
quả chủ nhiệm còn Hs sẽ tìm được nguồn thông tin đáng tin cậy để trang bị cho
mình. Trong nghiên cứu này tôi tập trung vào việc tác động vào nguyên nhân từ
phía nhà trường mà cụ thể là người GVCN GD kĩ năng sống với nội dung GD
giới tính cho hs nữ trong các tiết SHNGLL để cải thiện tình trạng như đã phân
tích.
II.2. Giải pháp thay thế: GD kĩ năng sống với nội dung giáo dục giới tính
cho hs nữ lớp 10 trường THPT Hoàng Hoa Thám
II.2.1.Cơ sở lí luận của đề tài:
- HS THPT là lứa tuổi đầu thanh niên từ 14 - 18 tuổi, là thời kì đạt được sự
trưởng thành về mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát
tri ển cơ thể củangười lớn. Đối với các em, đây là thời kỳ chuyển từ thời thơ ấu
sang tuổi trưởng thành. Sự khác biệt cơ bản của lứa tuổi VTN với các em ở lứa
tuổi khác là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối giữa các mặt: cơ thể, trí tuệ,
Trang 14
tâm sinh lý [8]. Sự biến đổi về tâm sinh lí làm cho lứa tuổi VTN vừa là “trẻ
con”, vừa là“người lớn” là sự phát triển đối lập nhưng thống nhất. Các em còn
trẻ con hồn nhiên nhưng đã bắt đầu có ý thức về “cái tôi”, muốn tự khẳng định
mình, khẳng định nhân cách của mình. Đây cũng là thời kỳ các em hình thành
cách sống, cách nghĩ. Đặc biệt ở lứa tuổi này các em rất xem trọng tình bạn, các
em thích giao tiếp kết bạn với nhau, tôn trọng lẫn nhau, tin tưởng, quan hệ bình
đẳng và giúp đỡ lẫn nhau. Như vậy đây là lứa tuổi có những thay đổi mãnh liệt
báo hiệu những phong phú về tâm sinh lí nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ
đáng lo ngại. Chính vì vậy tiếp cận và GD kĩ năng sống cho các em ở lứa tuổi
này vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức đối với người GVCN.
Điều 27 về Mục tiêu của giáo dục phổ thông nêu rõ: “…Mục tiêu của giáo
dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng
tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…”[10]. Đồng
thời Chỉ thị 40/2008/ CT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GDĐT về phát động phong
trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã chỉ ra:“Rèn
luyện kỹ năng sống cho học sinh:
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống,
thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm.
- Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai
nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác.
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa
bạo lực và các tệ nạn xã hội.” [11].
Từ đó có thể thấy việc GD kĩ năng sống cho Hs THPT là rất quan trọng.
II.2.2.Kĩ năng sống là gì?
- Tổ chức Y tế Thế giới WHO định nghĩa kỹ năng sống là "khả năng thích
nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu
cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày" [1].
Trang 15
- Theo Quĩ nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), KNS là cách tiếp cận giúp
thay đổi hay hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng và
tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng [5].
KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử
phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước
các tình huống của cuộc sống[7].
Như vậy kỹ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết
những nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả. Trong tập
sách Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông _ nxb Giáo dục, nội dung
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông đã được tổng
hợp thành 21 KN:
1. Kĩ năng tự nhận thức:Tự nhận thức là tự mình nhìn nhận, tự đánh giá
về bản thân. Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm
qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với người khác.
2. Kĩ năng xác định giá trị.
Mỗi người đều có một hệ thống giá trị riêng. Kĩ năng xác định giá trị là
khả năng con người hiểu rõ được những giá trị của bản thân mình. Kĩ năng này
còn giúp người khác biết tôn trọng người khác, biết chấp nhận rằng người khác
có những giá trị và niềm tin khác.
3. Kĩ năng kiểm soát cảm xúc
Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình
trong một tình hống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản
thân và đối với người khác thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện
cảm xúc một các phù hợp.
4. Kĩ năng ứng phó với căng thẳng.
Kĩ năng ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng
đón nhận những tình huống căng thẳng như là một phần tất yếu của cuộc sống,
là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng
Trang 16
thẳng, cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi bị căng
thẳng.
5. Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ.
Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ bao gồm các yếu tố sau:
- Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ.
- Biết xác định được những địa chỉ đáng tin cậy.
- Tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó.
- Biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp.
6. Kĩ năng thể hiện sự tự tin
Kĩ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn
bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải
quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ
tích cực và lạc quan trong cuộc sống.
7. Kĩ năng giao tiếp
Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và
điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ,
cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác.
8. Kĩ năng lắng nghe tích cực
Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kĩ năng giao tiếp. Người
có kĩ năng lắng nghe tích cực thường được nhìn nhận là biết tôn trọng và quan
tâm đến ý kiến của người khác, nhờ đó làm cho việc giao tiếp, thương lượng và
hợp tác của họ hiệu quả hơn. Lắng nghe tích cực cũng góp phần giải quyết mâu
thuẫn một cách hài hòa và xây dựng.
9. Kĩ năng thể hiện sự cảm thông
Thể hiện sự cảm thông là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong
hoàn cảnh của người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn là
những người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm
của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ
Trang 17
10. Kĩ năng thương lượng.
Thương lượng là khả năng trình bày, suy nghĩ, phân tích và giải thích,
đồng thời có thảo luận để đạt được một sự điều chỉnh và thống nhất về cách suy
nghĩ, cách làm hoặc một vấn đề gì đó.
Kĩ năng thương lượng có liên quan đến sự tự tin, tính kiên định, sự cảm
thông, tư duy sáng tạo, kĩ năng hợp tác và khả năng thỏa hiệp những vấn đề
không có tính nguyên tắc của bản thân.
11. Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là những xung đột, tranh cãi, bất đồng, bất bình với một hay
nhiều người về một vấn đề nào đó.
Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn là khả năng con người nhận thức được
nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó với thái độ
tích cực, không dùng bạo lực, thỏa mãn được nhu cầu và quyền lợi các bên và
giải quyết cả mối quan hệ giữa các bên một cách hòa bình.
12. Kĩ năng hợp tác.
Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công
việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.
Kĩ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và
cùng làm việc có hiêu quả với những thành viên khác trong nhóm.
13. Kĩ năng tư duy phê phán.
Kĩ năng tư duy phê phán là khả năng phân tích một cách khách quan và toàn
diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng…xảy ra.
Kĩ năng tư duy phê phán phụ thuộc vào hệ thốn giá trị cá nhân. Một người có
được kĩ năng tư duy phê phán tốt khi biết phối hợp nhịp nhàng với kĩ năng tự
nhận thức và kĩ năng xác định giá trị.
14. Kĩ năng tư duy sáng tạo.
Kĩ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều sáng
kiến và óc tưởng tượng; biết cách phán đoán và thích nghi; có tầm nhìn và khả
Trang 18
năng suy nghĩ rộng hơn các người khác, không bị bó hẹp vào kinh nghiệm trực
tiếp đang trải qua; tư duy minh mẫn và khác biệt.
15. Kĩ năng ra quyết định
Kĩ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn
phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống
một cách kịp thời.
16. Kĩ năng giải quyết vấn đề
Kĩ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn
phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn đề
hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống.
17. Kĩ năng kiên định.
Kĩ năng kiên định là khả năng con người nhận thức được những gì mình
muốn và lí do dẫn đến sự mong muốn đó. Kiên định còn là khả năng tiến hành
các bước cần thiết để đạt được những gì mình muốn trong những hoàn cảnh cụ
thể, dung hòa được giữa quyền, nhu cầu của mình với quyền, nhu cầu của người
khác.
18. Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm.
Đảm nhận trách nhiệm là khả năng con người thể hiện sự tự tin, chủ động và
ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong nhóm. Khi đảm
nhận trách nhiệm, cần dựa trên những điểm mạnh, tiềm năng của bản thân,
đồng thời tìm kiếm thêm sự giúp đỡ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.
19. Kĩ năng đạt mục tiêu.
Kĩ năng đặt mục tiêu là khả năng của con người biết đề ra mục tiêu cho bản
thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện được mục tiêu đó.
20. Kĩ năng quản lý thời gian.
Trang 19
Kĩ năng quản lý thời gian là khả năng con người biết sắp xếp các công việc
theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một
thời gian nhất định.
21. Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin.
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông
tin là một KNS quan trọng giúp con người có thể có được những thông tin cần
thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời.
Như vậy với 21 kĩ năng này tôi nghiên cứu và cụ thể hóa vào các hoạt động
theo từng chủ đề.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho hs THPT là rất quan trọng vì nó giúp các
em làm chủ suy nghĩ, cảm xúc và hành động của mình, nhưng điều quan trọng
hơn nữa là việc các em vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống. Việc áp
dụng một cách linh hoạt các kỹ năng sống cần thiết vào cuộc sống sẽ giúp các
em có những nền tảng vững chắc trong việc tạo dưng tư thế chủ động sáng tạo
của một thanh niên năng động. Đó cũng là cách các em đối đầu và tìm cách vượt
qua những áp lực tâm lý về công việc , học tập cũng như các mối quan hệ phức
tạp khác trong cuộc sống.
II.2.3. Nội dung GD kĩ năng sống cho hs nữ trong giờ sinh hoạt ngoài
giờ lên lớp
2.3.1. GD giới tính:
Theo WHO (Tổ chức Y tế thế giới) giáo dục giới tính bao gồm: Sự phát
triển của giới tính, sức khỏe sinh sản, các mối quan hệ cá nhân, tình cảm, về
ngoại hình, về vai trò của giới.[5]
2.3.2. Sức khỏe sinh sản vị thành niên, phòng chống HIV- AIDS:
2.3.2.a. Tuổi vị thành niên là một giai đoạn phát triển đặc biệt và mạnh mẽ
trong đời của mỗi con người. Đây chính là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con thành
người lớn và được đặc trưng bởi sự phát triển mạnh mẽ cả về thể chất lẫn tinh
thần, tình cảm và khả năng hòa nhập cộng đồng.Tuổi vị thành niên được hiểu là
giai đoạn từ 10 đến 19 tuổi, và nằm trong khoảng thời gian từ lúc dậy thì đến lúc
Trang 20
- Xem thêm -