Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Skkn nâng cao chất lượng giờ luyện tập thực hành tiếng việt cho học sinh thpt bằ...

Tài liệu Skkn nâng cao chất lượng giờ luyện tập thực hành tiếng việt cho học sinh thpt bằng việc sử dụng graph.

.DOC
19
116
69

Mô tả:

A. PHẦN MỞ ĐẦU Trong xu hướng hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học được đặt ra như một vấn đề cấp thiết nhằm hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp nhận tri thức, dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống, có tư duy phân tích, tổng hợp, phát triển được năng lực của mỗi học sinh. Tuy nhiên trong thực tế, các giờ dạy tiếng Việt nói chung và dạy luyện tập thực hành tiếng Việt nói riêng còn đơn điệu về hình thức, chưa thực sự chú trọng phát triển tư duy. Phần lớn học sinh chưa thấy được vai trò môn học này, cho đây là môn học “khô, khó, khổ”, đặc biệt ở phần luyện tập thực hành. Thậm chí nhiều giáo viên cũng chưa thực sự đầu tư vào hợp phần này, dẫn đến cách dạy qua quýt, đối phó. Giờ luyện tập thực hành, vì thế, càng trở nên thiếu sức hút đối với học sinh. Làm thế nào để thắp lên tình yêu tiếng Việt đối với các em qua những bài học trên lớp? Nhiều thầy cô tâm huyết với nghề đã tìm tòi, sáng tạo và thử nghiệm những phương pháp khác nhau. Trên con đường ấy, có người đã chọn cách mô hình hoá các đơn vị kiến thức và mối quan hệ giữa chúng thành những sơ đồ, bảng biểu để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Như vậy, họ đã “vô thức” chạm tới phương pháp graph (gọi là vô thức vì phần lớn giáo viên chưa có hiểu biết đầy đủ về lí thuyết graph). Dù có ý thức sáng tạo,thuy nhiên do chưa nắm được bản chất lí thuyết này nên cách làm của họ chưa phát huy được tối đa hiệu quả. Trong suốt 7 năm đứng trên bục giảng, câu hỏi về việc tạo ra sức hấp dẫn của giờ luyện tập thực hành tiếng Việt luôn ám ảnh tôi. Qua việc tìm hiểu kĩ hợp phần tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT; khảo sát tâm lí và năng lực học sinh THPT; nghiên cứu về lí thuyết graph; qua sự thử nghiệm của bản thân và một số đồng nghiệp, tôi nhận thấy, sử dụng graph trong luyện tập thực hành tiếng Việt là phương pháp mới mẻ, tích cực, vừa giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, vừa giúp giáo viên hình thành, rèn luyện các thao tác tư duy, khả năng tự học cho học sinh. Đó cũng là một cách gõ vào niềm đam mê môn học của các em. Tất cả những vấn đề trình bày ở trên chính là lí do để tôi triển khai sáng kiến kinh nghiệm của mình với đề tài: Nâng cao chất lượng giờ luyện tập thực hành tiếng Việt cho học sinh THPT bằng việc sử dụng graph. 1 B. PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. vài nét về lí thuyết graph 1.1. Khái niệm Graph là một lí thuyết có nguồn gốc từ toán học, tồn tại như một khoa học độc lập. Đến nay, lí thuyết graph đã được sử dụng rộng rãi, quen thuộc trong nhiều ngành khoa học như: Tâm lí học, Xã hội học, Giáo dục , Xây dựng, Giao thông... Theo tiếng Anh, graph (danh từ) có nghĩa là: Sơ đồ, đồ thị, mạng, mạch. Graph (động từ) có nghĩa là: vẽ sơ đồ, vẽ đồ thị, mạng, mạch. Graph(tính từ) có nghĩa là: thuộc về sơ đồ, đồ thị, mạng, mạch. Sở dĩ khi nghiên cứu về lí thuyết graph hoặc sử dụng graph, các nhà khoa học ở Việt Nam vẫn giữ nguyên tên “graph”, không chuyển dịch sang tiếng Việt bởi trong thực tế không phải bất kì sơ đồ nào cũng là graph. Có những sơ đồ không phải là graph. Theo lí thuyết toán, graph là tập hợp số lượng hữu hạn các đỉnh và các cung có đầu mút tại các đỉnh đó. Như vậy, điều kiện để lập một graph là phải có 2 yếu tố: tập hợp các đỉnh và tập hợp các cung. Mỗi cung lại là tập hợp của một cặp đỉnh có quan hệ với nhau. Mỗi cặp đỉnh không có quan hệ với nhau không lập thành một cung trong graph. Bản chất graph được quyết định bởi số lượng các đỉnh, số lượng các cung và mối quan hệ giữa chúng. 2.2. Phân loại graph - Thứ nhất, graph định hướng và graph vô hướng Graph định hướng là graph có sự xác định rõ định nào là đỉnh xuất phát trong graph. Các đoạn nối các đỉnh với nhau là những đoạn thẳng có mũi tên Ví dụ: Graph vô hướng là graph không chỉ rõ đâu là chiều liên hệ, vận động của các yếu tố. Các đoạn để nối các đỉnh với nhau là những đoạn thẳng không có mũi tên. 2 Ví dụ: - Thứ hai, graph khép và graph mở Graph khép là graph trong đó mọi cặp đỉnh đều có sự liên thông với nhau. Ví dụ: Graph mở là graph trong đó không phải tất cả các đỉnh đều có quan hệ liên thông với nhau mà ít nhất phải có hai đỉnh treo. Ví dụ: Dưới đây là 1 graph có 3 đỉnh treo. - Thứ ba, graph đủ, graph câm, graph khuyết Graph đủ là graph mà tất cả các đỉnh của nó đều được ghi chú hoặc ghi kí hiệu một cách đầy đủ, không thiếu một đỉnh nào. Nhân tố giao tiếp Nhân vật giao tiếp Hoàn cảnh giao tiếp Nội dung giao tiếp Mục đich giao tiếp Phuơng tiện và cách thức giao tiếp 3 Graph câm là graph mà tất cả các đỉnh của nó đều rỗng, không có bất kỳ một sự lấp đầy nào bằng ngôn từ, bằng ký hiệu hoặc sự ghi chú nào ở mọi đỉnh (trừ đỉnh xuất phát). Ví dụ Nhân tố giao tiếp Graph khuyết là graph trong đó có một hoặc một số đỉnh rỗng, các đỉnh còn lại không rỗng. Ví dụ: Nhân tố giao tiếp Nội dung giao tiếp 2. Thực trạng dạy luyện tập thực hành tiếng Việt ở THPT 2.1. Thời lượng chương trình Tổng số tiết dành cho học phần tiếng Việt trong chương trình THPT (theo sách giáo khoa chương trình chuẩn) là 39 tiết, trong đó lớp 10 là 11 tiết, lớp 11 là 15 tiết, lớp 12 là 13 tiết. Số tiết dành riêng cho bài thực hành tiếng Việt cả 3 năm học là 10 tiết, trong đó lớp 10 là 2 tiết, lớp 11 là 4 tiết, lớp 12 là 4 tiết. Qua việc thống kê, có thể thấy thời lượng dành cho các bài thực hành tiếng Việt nói riêng và phần tiếng Việt nói chung không nhỏ. Điều đáng nói là phần thực hành tiếng Việt không chỉ là một nội dung cơ bản của một giờ học trong các bài thực hành mà còn là một nội dung trong các bài học về lí thuyết tiếng Việt. Do vậy, có thể thấy đây là một hoạt động quan trọng của giáo viên và học sinh trong mỗi giờ học tiếng Việt. 2.2. Thực tế việc dạy của giáo viên - Về kĩ năng soạn bài và chuẩn bị đồ dùng dạy học Nhìn chung, đa số các thầy cô đều tập trung nhiều vào phần lí thuyết, coi nhẹ thực hành. Riêng ở các bài luyện tập thực hành, giáo viên thường không xác định trúng mục tiêu cụ thể của bài học, chỉ tập trung vào kiến thức cần ôn tập, coi nhẹ việc rèn luyện các thao tác tư duy, năng lực thực hành, phương pháp học và khả năng tự học của học sinh. Vì vậy, giáo viên ít đầu tư sử dụng đồ dùng dạy học khi dạy dạng bài này. Một số giáo viên có sử dụng sơ đồ, bảng biểu nhưng sử dụng một cách vô thức chứ không căn cứ trên hiểu biết về lí thuyết graph, vì 4 thế giờ học thường không có sự sáng tạo, gây ra sự đơn điệu, không hấp dẫn thu hút học sinh. - Về phương pháp dạy học Qua việc sử dụng phiếu điều tra lấy ý kiến của giáo viên về tình hình sử dụng các phương pháp để dạy luyện tập thực hành tiếng Việt, tôi thu được kết quả được thống kê như sau: Bảng 1: Tình hình sử dụng phương pháp dạy học trong luyện tập thực hành tiếng Việt. Phương pháp Nội dung khảo sát Phương pháp đã sử dụng Phương pháp Phương Phương Số rèn luyện pháp giao pháp trực giáo Theo mẫu tiếp quan viên Số Tỉ lệ % Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ nguời nguời % nguời % 30 12 40% 6 20% 1 0,3% Phương Ghi pháp giảng chú giải trực quan Số Tỉ Số Tỉ lệ nguời lệ % nguời % Phương pháp giảng giải 7 23% 4 13% Theo số liệu điều tra ở bảng 1, tôi nhận thấy hiện nay, khi dạy luyện tập thực hành tiếng Việt, giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu hướng dẫn học sinh làm bài tập. Một số giáo viên sử dụng bảng biểu để minh hoạ bài tập nhưng chưa được coi là một cách thức giải các bài tập tiếng Việt. Rất ít giáo viên sử dụng phương tiện trực quan để tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Phần lớn giáo viên cho rằng trong luyện tập thực hành không cần thiết phải sử dụng sơ đồ, bảng biểu mà quan trọng là hướng dẫn cho học sinh cách làm bài và làm thế nào cho đúng. Nhiều người chưa biết cách thiết kế và sử dụng sơ đồ trong luyện tập thực hành và họ cho rằng đó là việc làm mất nhiều thời gian và khó sử dụng. 2.3. Thực tế việc học của học sinh Qua khảo sát chúng tôi thấy phần lớn học sinh chưa thấy được tầm quan trọng của việc luyện tập thực hành tiếng Việt, không yêu thích giờ học, không phát huy được tính chủ động, tích cực trong học tập, chưa được phát triển tư duy, năng lực tự học... Trong giờ luyện tập, nếu giáo viên làm quá nhiều thay cho học sinh, học sinh sẽ ỉ lại, ì trệ; ngược lại nếu giáo viên yêu cầu học sinh làm quá nhiều mà ít cho sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên, học sinh sẽ mệt mỏi, chán 5 nản và làm mang tính đối phó. Như vậy, có thể thấy việc sử phương pháp hợp lý trong dạy luyện tập thực hành tiếng Việt là một vấn đề hết sức quan trọng. II. SỬ DỤNG GRAPH ĐỂ LUYỆN TẬP THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH THPT 1. Điều kiện để lập graph Lập graph luyện tập được hiểu là việc giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh dùng graph để trình bày kết quả giải một bài tập hoặc một nhóm bài tập nào đó trong SGK hoặc bài tập do chính giáo viên chuẩn bị. Để lập được graph, một bài tập tiếng Việt phải đáp ứng 2 điều kiện: có đủ các đơn vị kiến thức (từ 2 trở lên) và các đơn vị ấy có mối quan hệ với nhau. Vì vậy, không phải bất kì bài tập hay nhóm bài tập nào cũng có thể và cũng cần phải giải bằng cách lập graph. Trong chương trình luyện tập thực hành tiếng Việt THPT, số lượng bài tập là 153 bài, tuy nhiên trong đó chỉ có 37 bài tập có thể giải bằng graph (Khối 10: 12/44 bài; Khối 11: 14/70 bài; Khối 12: 11/39 bài). Đó là những bài tập có đầy đủ các yếu tố và xác định rõ mối quan hệ giữa các yếu tố ấy. Chỉ khi có đủ các điều kiện này chúng ta mới có thể tiến hành lập được graph cho một bài luyện tập thực hành. Ví dụ 1: Bài tập phần luyện tập của bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt- SGK lớp 10 - T1. Đọc đoạn nhật ký dưới đây và trả lời câu hỏi 8.3.69. Đi thăm bệnh nhân về giữa đêm khuya. Trở về phòng, nằm thao thức không ngủ được. Rừng khuya im lặng như tờ, không một tiếng chim kêu, không một tiếng lá rụng hoặc một ngọn gió nào đó khẽ rung cành cây. Nghĩ gì đấy Th. ơi? Nghĩ gì mà đôi mắt đăm đăm nhìn qua bóng đêm. Qua ánh trăng mờ Th. thấy bao nhiêu là viễn cảnh tươi đẹp, cả những cận cảnh êm đềm của những ngày sống giữa tình thương trên mảnh đất Đức Phổ này. Rồi cảnh chia ly, cảnh đau buồn cũng đến nữa... Đáng trách quá Th ơi! Th có nghe tiếng người thương binh khi rên và tiếng súng vẫn nổ nơi xa. Chiến trường vẫn đang mùa chiến thắng. (Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2005). a, Những từ ngữ, kiểu câu, kiểu diễn đạt nào thể hiện tính cụ thể, tính cảm xúc, tính cá thể của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt? b, Theo anh (chị), ghi nhật ký có lợi gì cho cho phát triển ngôn ngữ của mình? 6 Ở bài tập trên, trong ý của câu hỏi (a), ta có thể xác định được ba đơn vị kiến thức cơ bản cần xác định trong đoạn trích. Đó là biểu hiện của tính cụ thể, tính cảm xúc, tính cá thể của phong cách ngôn ngữ. Ba yếu tố này có mối liên hệ với nhau, liên quan đến nhau, cũng là đặc trưng cơ bản của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Từ ba yếu tố này, chúng ta có thể triển khai ra các đơn vị kiến thức nhỏ hơn. Chẳng hạn, tính cụ thể trong đoạn trích bộc lộ qua sự phân thân đối thoại của tác giả (Nghĩ gì đấy Th ơi?... Đáng trách quá Th ơi!.. Th có nghe...); thời gian đêm khuya; không gian rừng núi.... Từ việc xác định rõ các đơn vị kiến thức trong bài tập, ta nhận thấy bài tập đáp ứng hai điều kiện để lập graph: có ba yếu tố và các yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Mặt khác, có thể thấy rằng đối với ý a của bài tập này, lập graph là một cách giải hợp lý, rõ ràng, dễ hiểu, vừa bao quát, vừa cụ thể. Như vậy ta xác định được đỉnh xuất phát của graph sẽ là “Đặc trưng phong cách ngôn ngữ sinh hoạt” (qua đoạn trích), ba đơn vị kiến thức sẽ là 3 đỉnh chính, các yếu tố triển khai 3 đơn vị này là những đỉnh nhánh. Từ đó, ta có thể lập graph sau: Bài tập 1- Đặc trưng phong cách ngôn ngữ sinh hoạt Tính cảm xúc Tính cụ thể Phân thân đối thoại Thời gian đêm khuy a Không gian rừng núi Giọng điệu thân mật Câu nghi vấn Tính cá thể Câu cảm thán Những từ ngữ thê hiện dòng tâm tư Ngôn ngữ của một nguời giàu cảm xúc, có đơì sống nội tâm phong phú 2. Phân loại bài tập tiếng Việt theo lí thuyết grap 2.1 Loại bài tập tái hiện kiến thức Đây là dạng bài tập yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã học, tái hiện đầy đủ vào trong graph. Ở những bài tập này, giáo viên thường đưa ra 1 graph câm hoặc graph khuyết, yêu cầu học sinh hoàn chỉnh graph bằng cách lấp đầy vào các khung đó những kiến thức cần thiết. 2.2. Loại bài tập vận dụng kiến thức 7 Để giải được yêu cầu của những bài tập này, học sinh buộc phải nắm được bản chất nội dung kiến thức của bài học, không thể học vẹt hay học đối phó. Dạng bài tập này gắn liền với graph sai, graph thiếu. Giáo viên đưa ra một graph không đúng với bản chất vấn đề (thiếu đỉnh, thiếu ghi chú, thiếu cung hoặc nhầm đỉnh, nhầm cung...), yêu cầu học sinh phát hiện sai và sửa. 2.3. Loại bài tập sáng tạo Ở những bài tập này, giáo viên thường yêu cầu học sinh tự lập graph để giải một bài tập cụ thể, hoặc phát triển tiếp một graph đã cho hay từ một graph đã cho, yêu cầu học sinh lập một graph khác nhưng bản chất graph không thay đổi. 3. Quy trình lập graph luyện tập thực hành tiếng Việt Việc lập graph luyện tập thực hành tiếng Việt trên lớp có thể được tiến hành theo các bước sau: Buớc 1: lựa Phuơng pháp lập graph luyện tập thực hành chọn bài tập và xác định đỉnh graph lư Lụ Buớc 2: Lập Buớc 3: graph giải bài tập Kiểm tra graph đã lập 3.1. Lựa chọn bài tập và xác định đỉnh của graph Việc lựa chọn bài tập để luyện tập bằng graph là khâu quan trọng đầu tiên. Để phương pháp này có hiệu quả, giáo viên phải lựa chọn trước các bài tập để sao cho các bài tập ấy có thể lập graph giải một cách thuận lợi, dễ dàng. Số lượng bài tập tiếng Việt trong SGK Ngữ Văn của cả 3 lớp 10, 11, 12 rất lớn, tuy nhiên không phải bài tập nào cũng cho phép học sinh lập graph một cách thuận lợi, và việc lập graph cũng không phải lúc nào cũng cho một lời giải sáng sủa, rõ ràng. Bài tập cho phép chúng ta lập được graph chính là bài phải đủ điều kiện: số lượng yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Bài tập nào không đủ điều kiện trên, nghĩa là không lập thành nhũng đỉnh khác nhau trong mối quan hệ lẫn nhau, bài tập đố sẽ không được tiến hành luyện tập bằng graph. 3.2. Lập graph giải bài tập: Đây là bước chuyển lời giải bằng ngôn ngữ thông thường thành ngôn ngữ graph. Nếu giải bằng ngôn ngữ thông thường, ta chỉ có kết quả riêng của từng 8 phần hay từng bài tập riêng lẻ và mối quan hệ lẫn nhau giữa các kết quả đó sẽ không được xác lập. Nhưng nếu giải bằng graph, chúng ta được cùng lúc cả kết quả từng phần, từng bài tập lẫn mối quan hệ lẫn nhau giữa các kết quả ấy. Ví dụ 1 : Với bài tập 1 phần luyện tập của bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói của cá nhân T35 ; SGK 11,T1, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định đỉnh xuất phát, các đỉnh chính và lập cung thích hợp cho các đỉnh đó. Việc xác định tên gọi phải căn cứ vào yêu cầu của bài tập. Bài tập này yêu cầu xác định sự sáng tạo riêng của nội dung khi sử dụng từ nách. Như vậy, đỉnh xuất phát sẽ là từ nách. Từ nghĩa gốc của từ là “mặt dưới chỗ cánh tay nối với ngực”, Nguyễn Du đã chuyển nghĩa bằng phương pháp ẩn dụ để chỉ đặc điểm một sự vật hiện tượng. Từ đó, ta có thể xác đỉnh 4 đỉnh chính: Nghĩa gốc; nghĩa chuyển; phương thức chuyển nghĩa của từ; tác dụng. Học sinh cần lập được đỉnh xuất phát, 4 đỉnh chính. Khi đã lập xong được đỉnh, giáo viên hướng dẫn học sinh ghi lời giải vào các đỉnh đó. Mỗi đỉnh như vậy sẽ ứng với nội dung trả lời một yêu cầu của bài tập. Lời giải đó chính là những lời ghi chú cần thiết cho một đỉnh trong graph. Với bài tập trên, cuối cùng các em có thể trình bày lời giải của mình bằng cách lập một graph đầy đủ như sau: Bài tập 1 - Từ “Nách” Ví dụ 2 : Với bài tập 4, T36, SGK 11 T1, giáo viên cũng có thể hướng dẫn học Nghĩahết, giáo viên giúp Phuơng thức sinh Nghĩa cách giải tương tự. Trước các em phân tích bàiTác tậpdụng để tìm gốc chuyển chuyển nghĩa ra các đỉnh cần thiết cho việc lập graph. Dựa vào đề bài và sự và sự gợi ý của giáo viên, các em nhận ra số đỉnh cần thiết để lập graph sẽ như sau: từ mới tạo (đỉnh xuât phát); từ mới; các từ có sẵn; phương thức chọn từ. Các đỉnh trên đã Mặt duới Góc tuờng, Sự vật trong nhómchỗ lạicánh yêu cầu của 3 nơi ý a,b, c. Như vậy, ở bài tập này ta sẽ lập chung giao nhau câu thơđược sinh 1 Ẩn dụ tay nối với giữa 2 bức động, có thần, graph, giáo viên lần lượt cho các em trình bày lời giải của mình tại các đỉnh của Bài ngực tuờngtập 4 - Từ mới tạo có hồn hơn graph, cuối cùng các em có graph sau: Từ mới A, Mọn mằn B, Gửi gắm C, Chuyên dụng Từ có sẵn A, Mọn B, Giỏi C, Chuyên, dụng Phuơng thức cấu tạo từ A, Láy phụ âm m B, Láy phụ âm gi C, Hợp nghĩa thành từ ghép 9 Graph chính là lời giải cô đọng, ngắn gọn cho cho cả 3 ý trong bài tập. Như vậy, chúng ta thấy việc giải các bài tập bằng graph có thể giúp học sinh cùng lúc bao quát được đủ các lời giải, và đặt chúng trong mối quan hệ chung để so sánh, đối chiếu. Việc bao quát như vậy đã thực hiện theo nhiều chiều không gian. Trong khi đó, nếu giải bằng ngôn ngữ thông thường các bài tập này, việc bao quát so sánh, đối chiếu sẽ trở lên khó khăn hơn, hạn chế hơn đối với các em. Bởi lẽ, kết quả đó chỉ được bao quát theo một chiều, mang đặc điểm tuyến tính của ngôn ngữ. 3.3. Kiểm tra graph đã lập Sau khi lập xong graph, việc kiểm tra graph đã lập cũng rất quan trọng. Các em cần xem xét, đối chiếu giữa nội dung yêu cầu đề bài; mục đích bài đặt ra; các lời giải, tính thẩm mỹ của graph...Nếu thấy cần điều chỉnh điểm nào thì sửa lại điểm ấy. Nếu graph không có sai sót gì, việc lập graph cho giải bài tập coi như đã hoàn thành. 4. Cách thức sử dụng graph vào dạy luyện tập thực hành tiếng Việt 4.1. Sử dụng như một phương tiện Trong dạy luyện tập thực hành tiếng Việt cho học sinh, việc tổ chức dạy học thực chất là việc tổ chức thực hiện từng bài tập. Bởi vậy, nó phải đảm bảo các bước, cách thức và yêu cầu chung của việc tổ chức thực hiện bài tập tiếng Việt. Quy trình lập graph tôi đã trình bày ở phần trên. Để có một cái nhìn tổng thể về cách sử dụng graph, tôi xin trình bày quy trình dạy một bài luyện tập thực hành như sau: Bước 1: Giới thiệu nội dung bài thực hành. - Dựa vào nội dung mục đích yêu cầu của bài dạy cụ thể, giáo viên có thể dẫn dắt giới thiệu bài bằng những cách khác nhau sao cho thích hợp. - Hệ thống lại kiến thức cần luyện tập: trước khi luyện tập, giáo viên có thể hệ thống lại kiến thức cơ bản sẽ được vận dụng trong phần luyện tập thực hành, có thể chuẩn bị sẵn graph để hệ thống nội dung kiến thức. Bước 2: Lựa chọn bài tập để giải bằng graph. 10 - Giáo viên nghiên cứu kĩ trước hệ thống bài tập trong SGK hoặc tự soạn ra những bài tập đáp ứng điều kiện để giải bằng graph về số lượng yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố. - Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định những bài tập đủ điều kiện để giải bằng graph. Bước 3: Lập graph giải bài tập. Giáo viên hướng dẫn học sinh giải bài tập bằng graph theo trình tự: + Đọc và xác định yêu cầu của bài tập. + Xác định đỉnh graph; lập cung cho graph. + Ghi lời giải cho graph. Ở bước này, học sinh có thể trao đổi, thảo luận theo cặp, theo nhóm hoặc làm bài cá nhân. Bước 4: Kiểm tra graph đã lập. - Giáo viên cho học sinh trình bày graph đã lập trước lớp, sau đó nhận xét đánh giá graph, bổ sung nếu cần thiết. Giáo viên là người tổng kết lại graph giải bài tập. Ví dụ: Bài tập 1( Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ - SGK Ngữ văn 10, tập 1, trang 20): Phân tích các nhân tố giao tiếp thể hiện trong câu ca dao dưới đây theo câu hỏi: Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá đan sàng nên chăng? a, Nhân vật giao tiếp ở đây là những người như thế nào? (về lứa tuổi, giới tính). b, Hoạt động giao tiếp này diễn ra vào thời điểm nào? Thời điểm đó thường thích hợp với những cuộc trò chuyện như thế nào? c, Nhân vật anh nói về điều gì? Nhằm mục đích gì? d, Cách nói của anh có phù hợp với nội dung và mục đích giao tiếp không. Ở bài tập trên, giáo viên hướng dẫn học sinh nhóm 3 ý a,b, c để giải bằng một graph sau: Bài tập 1 – Nhân tố giao tiếp Nhân vật giao tiếp Chàng trai Thời điểm giao tiếp Cô gái Đêm trăng thanh Nội dung giao tiếp Nói về vấn đề tre non đủ lá và đặt ra vấn đề nên chăng đan sàng Mục đích giao tiếp Ướm hỏi cô gái 2 nguời đã đến tuổi trưởng thành, nên chăng tính đên chuyện kết duyên 11 4.2. Sử dụng graph như một phương pháp Đặc điểm của luyện tập thực hành tiếng Việt là các kiến thức sử dụng để vận dụng, luyện tập cho học sinh đều đã biết, vì vậy graph được sử dụng không phải là một graph lập sẵn mà thường là quá trình giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh lập ngay trên lớp khi giải bài tập. Giáo viên cần nghiên cứu bài tập và lập truớc graph theo trình tự chúng tôi đã trình bày trong phần phương pháp lập graph luyện tập thực hành. Việc triển khai graph luyện tập thực hành có thể tiến hành ở các dạng bài tập luyện tập thực hành riêng và phần luyện tập trong bài học lí thuyết. Quá trình triển khai graph luyện tập thực hành cụ thể như sau: Hoạt động 1. Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tập. Hoạt động 2: Đàm thoại với học sinh để xác định tên gọi từng đỉnh và lập cung cho graph. Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh ghi lời giải vào các đỉnh của graph. Hoạt động 4: Tổ chức cho học sinh làm bài tập theo nhóm hoặc cá nhân, giáo viên phát phiếu bài tập in sẵn có các đỉnh đã xác định ở trên. Hoạt động 5: Học sinh trình bày kết quả, nhận xét. Giáo viên nhận xét. Ví dụ: Bài tập 1, bài Ôn tập tiếng Việt, T138 - SGK Ngữ Văn L10,T2. Hoạt động giao tiếp là gì? Có những nhân tố nào tham gia chi phối hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ? Trong hoạt động giao tiếp có những quy trình nào? Đây là bài ôn tập, vì thế nội dung kiến thức có tính chất khái quát cao. Bài tập này có thể giải bằng graph. Giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành những hoạt động sau: - Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu yêu cầu bài tập. Bài tập có những yêu cầu sau: Nêu khái niệm hoạt động giao tiếp; nêu những nhân tố thời gian chi phối hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ; nêu quá trình của hoạt động giao tiếp. - Giáo viên đàm thoại với học sinh để xác định tên gọi từng đỉnh và lập cung cho graph. Việc đàm thoại được tiến hành bằng hệ thống câu hỏi gợi mở. Câu hỏi 1: Thế nào là hoạt động giao tiếp? Câu hỏi giúp học sinh nhớ lại kiến thức và lấp đầy dẫn vào các khái niệm hoạt động giao tiếp ở đỉnh chính bằng những lời ngắn gọn 12 Câu hỏi 2: Hãy nêu những nhân tố tham gia chi phối hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ? Câu hỏi này tiếp tục giúp học sinh tái hiện kiến thức và lấp đầy đỉnh chính 2; đồng thời triển khai các đỉnh phụ, lập cung cho các đỉnh này. Câu hỏi 3: Hoạt động giao tiếp gồm mấy quá trình, đó là những quá trình nào? Với câu hỏi này, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định đỉnh chính 3; lập cung cho đỉnh quá trình từ đó triển khai 2 đỉnh phụ: quá trình thiết lập văn bản và quá trình lĩnh hội văn bản. Sau khi đàm thoại với học sinh để xác định đỉnh và cung cho graph, giáo viên hướng dẫn học sinh ghi lời giải và các đỉnh của graph. Học sinh có thể làm việc cá nhân hoặc theo nhóm. Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày graph, nhận xét. Giáo viên nhận xét, bổ sung, sửa chữa nếu sai sót. Cuối cùng, ta sẽ đuợc một graph đầy đủ như sau: 13 Bài tập 1 - Hoạt động giao tiếp Nhân tố chi phối hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ Khái niệm Nhân vật giao tiếp Nội dung giao tiếp Hoàn cảnh giao tiếp Mục đích giao tiếp Quá trình Phuơng tiện và cách thức giao tiếp Quá trình tạo lập văn bản Quá trình lĩnh hội văn bản 5. Kết quả thực nghiệm Trong năm học 2010 – 2011, tôi và một số đồng nghiệp đã sử dụng graph vào việc dạy luyện tập thực hành tiếng Việt, cụ thể ở 4 lớp 10 có khả năng nhận thức tương đương nhau, lớp thực nghiệm gồm 10A8, 10G8; lớp đối chứng gồm 10B8, 10D8. Sau đó, chúng tôi đã khảo sát chất lượng học sinh bằng những đề kiểm tra 15 phút. Kết quả thu được như sau : Bảng 2 : Kết quả khảo sát chất lượng học sinh Kết quả Lớp Lớp TN Giỏi Khá T.bình Yếu, Kém ĐC Kết quả Giỏi Khá T.bình Yếu, 10 A8 2 21 20 5 (48) 4,1% 43,7% 41,6% 10,6% 0 10 1 B8 2,0% (48) 17 24 6 35,4% 50,0% 12,6% 10 G8 4 22 17 2 (45) 8.8% 48.9% 37.9% 4.4% 10D8 2 0 (45) 4.4% 19 20 4 42.3% 44.3% 8.8% Kém 0 0 14 Bảng 3: Tổng hợp kết quả thực nghiệm: Tính % trung bình. Lớp TN Số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém Giỏi 93 6 43 6.4% 46.2% 37 37.9% Lớp ĐC Khá TB Yếu Kém 7 0 3 36 44 10 0 7.5% 0% 3.2% 38.7% 47.3% 11,7% 0% Nhận xét : Nhìn vào biểu đồ, ta sẽ thấy ngay tỉ lệ học sinh đạt khá, giỏi ở lớp thực nghiệm cao hơn so với lớp đối chứng. Ngược lại, tỉ lệ học sinh trung bình, yếu ở lớp thực nghiệm thấp hơn so với lớp đối chứng. Qua các giờ thực nghiệm, bản thân tôi và các đồng nghiệp đều có chung một nhận xét, sử dụng graph để luyện tập thực hành tiếng Việt cho học sinh giúp giờ học sinh động, phong phú hấp dẫn hơn. Điều quan trọng hơn cả, đây là con đường ngắn nhất giáo viên có thể dẫn học sinh tới mục tiêu rèn luyện kĩ năng thực hành, phát triển tư duy cho học sinh. Các giờ học thực nghiệm đều cho thấy sử dụng graph trong quá trình luyện tập thực hành tạo nên sự mới lạ, đa dạng, có sức hấp dẫn học sinh, kích thích học sinh sáng tạo. Học sinh không chỉ giải bài tập bằng ngôn ngữ thông thường mà còn tìm ra lời giải bằng sơ đồ. Phương pháp giải mới mẻ này sẽ xóa đi cách nhìn quen thuộc của các em về giờ thực hành tiếng Việt khô, khó, khổ, thắp lên trong các em niềm say mê, hứng thú với môn học. Như vậy, có thể khẳng định rằng khả năng sử dụng graph để dạy luyện tập thực hành tiếng Việt cho học sinh là hoàn toàn khả thi. Tuy nhiên, để làm được 15 điều này một cách hiệu quả, người giáo viên cần phải có lòng say mê, nhiệt huyết, sự tận tâm với công việc, đặc biệt phải tỉ mỉ trong việc nghiên cứu sách giáo khoa vào tài liệu học tập. Đây là hướng đổi mới phương pháp dạy học nói chung và trong hoạt động thực hành tiếng Việt nói riêng. Ngoài ra, để giờ học thực hành tiếng Việt có chất lượng tốt, giáo viên cần linh hoạt trong các tình huống và cách thức sử dụng graph. Giáo viên phải sử dụng graph và kết hợp với các phương pháp khác để tạo nên sự hài hòa, cân đối trong bài học, đó là cơ sở để giúp học sinh đạt được mục tiêu rèn luyện kỹ năng ứng dụng kiến thức vào thực tiễn, thực hành kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy, nhận thức. C. PHẦN KẾT LUẬN Hơn một thập kỷ qua, chúng ta đã kiên trì thực hiện cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học ở các cấp phổ thông. Nhiệm vụ chủ yếu của công cuộc đổi mới phương pháp đó là khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, hiện đại vào dạy học. Sử dụng phương tiện dạy học là một cách thức góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Thời đại công nghệ thông tin, khoa học kĩ thuật bùng nổ nên càng xuất hiện nhiều phương pháp, phương tiện được ứng dụng cho việc dạy học. Tuy nhiên, việc sử dụng nó như thế nào để có hiệu quả, sử dụng như thế nào để không biến giờ học thành giờ trình diễn phương tiện, phương pháp hay sự lắp ghép rời rạc? Đây là một vấn đề mà bất kì người thầy nào cũng phải đặt ra, xem xét một cách nghiêm túc trước khi ứng dụng sự đổi mới nào đó. Qua quá trình nghiên cứu đề tài và những kiểm chứng thực nghiệm, tôi nhận thấy sử dụng graph để dạy luyện tập thực hành tiếng Việt hoàn toàn phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh trung học phổ thông và đặc điểm bài luyện tập thực hành. Graph đã thực sự thổi một luồng gió mới vào những giờ thực hành vốn tẻ nhạt, đơn điệu, giúp học sinh hào hứng hơn với môn học. Quá trình tiến hành giải bài tập cũng là một cách tốt giúp học sinh rèn luyện các thao tác tư duy, phát triển trí tuệ, hình thành các kĩ năng kĩ xảo. Tuy nhiên, việc sử dụng graph trong dạy học nói chung và dạy luyện tập thực hành tiếng Việt nói riêng đặt ra những yêu cầu nhất định. Giáo viên phải công phu, sáng tạo và tận tâm hơn trong công việc chuẩn bị bài dạy. Người học cũng cần tự thoát khỏi sức ì bản thân, chủ động và tích cực trong quá trình học. Việc sử dụng graph cần được tiến hành một cách linh hoạt, hợp lí, kết hợp với 16 các phương pháp dạy học khác một cách nhịp nhàng. Chỉ có như thế, graph mới mang lại ý nghĩa thiết thực cho mỗi giờ học. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán: Phương pháp dạy học tiếng Việt. NXBGD. H, 2001. 2. Nguyễn Thị Ban: Sử dụng graph trong dạy học tiếng Việt như là một phương tiện hay một phương pháp dạy học. Tạp chí giáo dục, 2004. 3. Nguyễn Thị Ban: Graph và việc luyện tập thực hành tiếng việt cho học sinh THCS. Tạp chí giáo dục, số 99/2004. 4. Nguyễn Thị Ban: Sử dụng graph trong dạy học tiếng Việt cho học sinh trung học cơ sở. Luận án tiến sĩ giáo dục học. H, 2004. 5. Nguyễn Phúc Chỉnh: Sử dụng graph nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học sinh thái học. Tạp chí giáo dục, 4/1999. 6. Phạm Bội Chương: Sử dụng graph trong dạy học các môn kĩ thuật tại các trường dạy nghề. Tạp chí giáo dục, 5/2003. 7. Hồ Ngọc Đại: Tâm lí học dạy học. NXBGD. H, 1983. 8. Nguyễn Quang Ninh: 150 bài tập luyện kĩ năng dựng đoạn văn. NXBGD. H, 1998. 9. Nguyễn Quang Ninh: Sử dụng phương pháp graph trong dạy học tiếng Việt - Kỉ yếu hội thảo khoa học toàn quốc “Đổi mới phương pháp dạy học văn và tiếng Việt ở trường THCS”. H, 12/1996. 17 10. Nguyễn Quang Ninh, Nguyễn Thị Ban: Lí thuyết graph và việc dạy học tiếng Việt. tạp chí Giáo dục. 10/1999. 11. Nguyễn Ngọc Quang: Phương pháp graph trong dạy học. Tạp chí NCGD, số 4 và 5/1981. 12. Phạm Văn Tư: Dạy học bằng graph góp phần nâng cao chất lượng giờ giảng. Báo GD&TĐ, số 124/2003. 13. Phạm Văn Tư: Dạy học bằng phương pháp graph góp phần nâng cao chất lượng học tập, tự học.Báo GD&TĐ, số 155/2003. 14. Nguyễn Quuang Uẩn (chủ biên): Giáo trình Tâm lý học đại cương. NXB Đại học Sư phạm, H, 2010. 15. Phạm Viết Vượng: Giáo dục học. NXB Đại học Sư phạm, H, 2008. PHỤ LỤC BÀI KIỂM TRA SỐ 1 (Dùng cho cả lớp thực nghiệm và lớp đối chứng) Bài: Thực hành các phép tu từ phép điệp và phép đối - Ngữ văn 10, tập 2. Thời gian 15 phút 1. Mục đích - Kiểm tra kĩ năng phân tích phép điệp và phép đối. - Kiểm tra kĩ năng sử dụng phép điệp và phép đối sau khi học xong bài thực hành. 2. Đề bài Nêu giá trị của phép điệp trong bài ca dao sau: Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt Mắt thương nhớ ai Mắt ngủ không yên Đêm qua em những lo phiền 18 Lo vì một nỗi chưa yên một bề. BÀI KIỂM TRA SỐ 2 (Dùng cho cả lớp thực nghiệm và lớp đối chứng) Bài: Thực hành về nghĩa của từ trong sử dụng - Ngữ văn 11, tập 1. Thời gian: 15 phút 1. Mục đích - Kiểm tra khả năng nhận thức về nghĩa của từ trong sử dụng. - Kiểm tra kĩ năng chuyển nghĩa của từ, lựa chọn từ trong các từ đồng nghĩa phù hợp với các hoàn cảnh giao tiếp. 2. Đề bài Câu 1. Tìm từ đồng nghĩa với từ gạt trong câu thơ sau, giải thích vì sao tác giả sử dụng từ gạt mà không dùng các từ khác? Anh lên xe, trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ (Trường sơn đông, trường sơn tây - Phạm Tiến Duật) Câu 2. Xác định nghĩa và phương thức chuyển nghĩa của từ chân trong 2 câu thơ sau: Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây, mặt đất một mầu xanh xanh. (Truyện Kiều - Nguyễn Du) 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan