Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn nâng cao chất lượng dạy học môn luyện từ và câu lớp 4...

Tài liệu Skkn nâng cao chất lượng dạy học môn luyện từ và câu lớp 4

.DOC
20
108
80

Mô tả:

A. PHẦN MỞ ĐẦU I.CƠ SỞ LÝ LUẬN. Môn tiếng việt trong chương trình bậc tiểu học nhằm hình thành và phát triển giúp học sinh có các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói,đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có cơ sở tiếp thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn tiếng việt (nghe, đọc, nói, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có cơ sở để tiếp thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn Tiếng Việt phân môn luyện từ và câu có một nhiệm vụ cung cấp nhiều kiến thức sơ giản về viết Tiếng Việt và rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu (nói - viết) kỹ năng đọc cho học sinh. Cụ thể là: 1-Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu. 2- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu. 3-Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của phân môn luyện từ và câu ở lớp 4. Tôi mạnh dạn nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp để ''Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn luyện từ và câu ở lớp 4'' III. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Thuận lợi a. Giáo viên: Nhà trường luôn tạo điều kiện cho khối 4,đội ngũ giáo viên có 2 đ/c thì cả 2 đ/c cả 2 đ/c có trình độ trên chuẩn, có tay nghề vững vàng, đầy đủ SGK, sách hướng dẫn và được học về sử dụng các phương tiện dạy học 1 hiện đại. Đội ngũ giáo viên yêu nghề, có năng lực sư phạm. Phân môn luyện từ và câu của lớp 4 nhìn chung ngắn gọn, cụ thể đã được bớt nhiều so với chương trình Từ ngữ - ngữ pháp của lớp 4 cũ, phân môn chỉ rõ 2 dạng bài: Bài lý thuyết và bài tập thực hành với định hướng rõ ràng. b. Học sinh: - Học sinh đã quen với cách học mới từ lớp 1,2,3 nên các em đã biết các lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên. - Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần nâng cao chất lượng môn học nói riêng và môn tiếng việt nói chung. - Các em học sinh đều được học 2 buổi/ngày. Buổi sáng học lý thuyết và buổi chiều được luyện tập củng cố để khắc sâu kiến thức. Từ đó giúp các em có khả năng sử dụng thành thạo các bài tập thực hành và áp dụng linh hoạt vào các phân môn khác. 2. Khó khăn a. Giáo viên: Do đặc điểm của nhà trường là 100% lớp học 2 buổi 1 ngày nên việc thăm lớp dự giờ học hỏi chuyên môn của mình, của bạn còn hạn chế. Trình độ giáo viên chưa đồng đều đôi lúc còn giảng dạy theo phương pháp cũ. Nên việc phân chia thời lượng lên lớp ở mỗi môn dạy đôi khi còn dàn trải, hoạt động của cô - của trò có lúc thiếu nhịp nhàng. b. Học sinh: Bên cạnh đó là học sinh với lối tư duy cụ thể, một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình còn có quan điểm '' trăm sự nhờ nhà trường, nhờ cô'' cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập bộ môn. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2 I. THỰC TRẠNG DẠY – HỌC CÁC DẠNG BÀI TẬP “LUYỆN TỪ VÀ CÂU”. 1. Đối với chương trình sách giáo khoa. Số tiết Luyện từ và câu của chính sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. Mà việc xác định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành. 2. Đối với giáo viên. Phân môn “Luyện từ và câu” tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần được xem xét của quá trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4, tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau: - Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn. - Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này. - Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh. 3 - Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt. - Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Đồng thời là tiền đề trong việc phát triển bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế. 3. Đối với học sinh. Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này. Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là phân môn vừa “khô” vừa “khó”. Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều. Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài. Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn. II. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 1. Phương pháp vấn đáp Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra những kiến thức đã hoàn chỉnh mà hướng dẫn cho học sinh tư duy từng bước một để các em tự tìm ra kiến thức mới phải học. 4 Phương pháp gợi mở vấn đáp nhằm tăng cường kĩ năng suy nghĩ sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và xác định mức độ hiểu bài cũng như kinh nghiệm đã có của học sinh. Giúp các em hình thành khả năng tự lực tìm tòi kiến thức. Qua đó học sinh ghi nhớ tốt hơn sâu sắc hơn. Yêu cầu khi sử dụng giáo viên phải lựa chọn những câu hỏi theo đúng nội dung bài học, câu hỏi đưa ra phải rõ ràng phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong cùng 1 lớp. Giáo viên dành thời gian cho học sinh suy nghĩ. Sau đó cho học sinh trả lời các em khác nhận xét bổ sung. Phương pháp này phù hợp với cả 2 loại bài lý thuyết, thực hành VD: Khi dạy bài Danh từ (Tuần 5) mục đích của bài là học sinh phải nắm được danh từ gì - Biết tìm danh từ trừu tượng trong đoạn văn và đặt câu với danh từ đó. - Đưa VD: Mang theo truyện cổ tôi đi Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi Đời cha ông với đời tôi Như con sông với chân trời dã xa Chỉ còn truyện cổ thiết tha Cho tôi nhận mặt ông cha của mình. + H: Em tìm những từ chỉ sự vật trong đoạn thơ? Dòng 1: Truyện cổ Dòng 5: Đời, cha ông Dòng 2: Cuộc sống, tiếng xưa Dòng 3: Cơn nắng, cơn mưa Dòng 6: Con sông, chân trời Dòng 7: Truyện cổ 5 Dòng 4: Con sông, rặng dừa. Dòng 8: Ồng cha + H: Sắp xếp các từ vừa được theo nhóm - Từ chỉ người : Ông cha - Cha ông - Từ chỉ vật : sông, dừa, chân trời - Từ chỉ hiện tượng : mưa, nắng - Từ chỉ khái niệm - Từ chỉ đơn vị : Cuộc sống, truyện cổ, tiếng xưa, đời : Cơn, con, rặng. + H: Những từ đó thuộc loại từ gì? (danh từ) + H: Vậy danh từ là gì? (Danh từ là những từ chỉ sự vật: người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn vị) Vậy qua 4 câu hỏi gợi mở cho các em đã kết thúc một khái niệm ngữ pháp mà nội dung của bài đề ra. * Tóm lại phương pháp gợi mở vấn đáp được sử dụng trong tất cả tiết học và phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh. 2. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề là giáo viên đưa ra những tình huống gợi vấn đề điều khiển học sinh phát hiện vấn đề hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo để giải quyết vấn đề thông qua đó mà kiến tạo tri thức, rèn luyện kỹ năng. Tăng thêm sự hiểu biết và khả năng áp dụng lý thuyết vào giải quyết vấn đề của thực tiễn. Nâng cao kỹ năng phân tích và khái quát từ tình huống cụ thể và khả năng độc lập cũng như khả năng hợp tác trong quá trình giải quyết vấn đề. Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần chuẩn bị trước câu hỏi sao cho phù hợp với mục đích, yêu cầu và nội dung của bài đảm bảo tính sư 6 phạm, đáp ứng với các đối tượng học sinh, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức để giải quyết vấn đề mà học sinh đưa ra. VD: Khi dạy bài mở rộng vốn từ ''Đồ chơi - trò chơi'' Giáo viên đưa ra một số thành ngữ - tục ngữ sau: ''Chơi với lửa'', ''Ở chọn nơi, chơi chọn bạn'', thích hợp để khuyên bạn. a. Nếu bạn em chơi với một số bạn hư nên học kém hẳn đi. b. Nếu bạn em thích trèo lên một chỗ cao chênh vênh, rất nguy hiểm để tỏ ra mình gan dạ. Với tình huống (1) các em có thể chọn thành ngữ tục ngữ ''Ở chọn nơi, chơi chọn bạn''. Những với tình huống (2) các em có thể chọn 1 hoặc 2 thành ngữ tục ngữ đều được. * Tóm lại: Với phương pháp này giáo viên nên hiểu rằng trong cùng tình huống sẽ có thể có nhiều cách giải quyết hay nhất để ứng dụng trong học tập, trong cuộc sống. 3. Phương pháp trực quan Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học trong đó giáo viên sử dụng các phương pháp nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về sự vật và thu nhận được kiến thức, rèn luyện kỹ năng theo nội dung bài học một cách thuận lợi. Thu hút sự chú ý và giúp học sinh ghi nhớ bài tốt hơn, học sinh có thể khái quát nội dung bài và phát hiện liên hệ của các đơn vị kiến thức. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát theo nội dung cần truyền đạt. VD: Khi dạy bài ''Đồ chơi - trò chơi'' giáo viên đưa ra 6 bức tranh trong SGK để tìm ra các từ ngữ chỉ tên đồ chơi - trò chơi mà các em được mở rộng trong bài học. Bức tranh 1: học sinh tìm từ đồ chơi: diều -Trò chơi : thả diều 7 Bức tranh 2: từ chỉ đồ chơi: ''dây'', nồi xoong''''búp bê''; ''trò chơi'''' nấu ăn'', ''cho bé ăn bột'',''nhảy dây'' *Tóm lại: Sử dụng phương pháp trực quan giảng dạy phân môn luyện từ và câu là rất quan trọng vì sẽ khai thác triệt để các kênh hình của bài học nhờ đó mà giáo viên giúp học sinh nắm bài tốt hơn. 4. Phương pháp rèn luyện theo mẫu Phương pháp rèn luyện theo mẫu là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra các mẫu cụ thể qua dó hướng dẫn học sinh tìm hiểu các điểm của mẫu, cơ chế tạo mẫu và thực hiện theo mẫu. Giúp học sinh có điểm tựa để làm bài đặc biệt là với học sinh trung bình và yếu còn đối với học sinh khá giỏi không bắt buộc phải theo mẫu để học sinh phát huy tính tích cực chủ động. 5. Phương pháp phân tích Đây là phương pháp dạy học trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn tổ chức của giáo viên tiến hành tìm hiểu các dấu hiệu theo định hướng bài học từ đó rút ra bài học. Giúp học sinh tìm tòi huy động vốn kiến thức cũ của mình để tìm ra kiến thức mới. Tạo điều kiện cho học sinh tự phát hiện kiến thức (về nội dung và hình thức thể hiện) VD: Khi dạy ''Câu hỏi và dấu chấm hỏi'' B1: Cho học sinh tìm các câu hỏi trong bài tập đọc ''Người tìm đường tới các vì sao''. Các em sẽ tìm được 2 câu: 1. Vì sao quả bóng không có cánh mà vẫn bay được? 2. Cậu làm thế nào mà mua được nhiều sách và dụng cụ thí nghiệm như thế? 8 Phân tích: H: Câu hỏi (1) là của ai? (Xi - ôn - cốp - xki tự hỏi mình) H: Câu hỏi (2) là của ai? (Bạn của Xi - ôn - cốp - xki hỏi) H: Dấu hiệu nào giúp em nhận ra đó là câu hỏi (cuối câu có dấu chấm hỏi) giáo viên: Khi đọc câu hỏi phải nhấn mạnh vào ý cần để hỏi. Qua phân tích của giáo viên, học sinh rút ra đựơc bài học: 1. Câu hỏi (còn gọi là câu nghi vấn) dùng để hỏi về những điều chưa biết. VD: Bạn đã đọc bài chưa? VD: Có phải Trái đất quay xung quanh Mặt Trời Không? VD: Chú đất trở thành chú Đất Nung phải không? VD: Bạn Hoa trở thành học sinh giỏi à? 2. Phần lớn câu hỏi là để hỏi người khác những cũng có những câu để tự hỏi mình. VD: Chiếc bút này mình đã mua ở đâu nhỉ? VD: Vì sao trái Đất lại quay nhỉ? VD: Thứ mấy là sinh nhật của mình nhỉ? 3. Câu hỏi thường có các tư nghi vấn (có phải, không; phải không, à,....) Khi viết cuối câu hỏi có dấu chấm hỏi (?) VD: Có phải Trái đất quay xung quanh mặt trời không? VD: Chú đất trở thành chú Đất Nung phải không? VD: Bạn Hoa trở thành học sinh giỏi à? * Tóm lại: Trên đây là một số phương pháp dạy học mà tôi đã áp dụng trong giảng dạy phân môn luyện từ và câu. Tuy nhiên tôi cũng nhận thấy rằng không có 1 phương pháp dạy học nào là tối ưu. Mỗi phương pháp 9 thường có mặt mạnh - mặt yếu của nó mặt mạnh của phương pháp này sẽ hỗ trợ cho mặt yếu của phương pháp kia. Cho nên để tránh nhàn chán cần phối kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh. Có như vậy tiết học mới đạt kết quả cao. III. Biện pháp thực hiện dạy phân môn kuyện từ và câu lớp 4 Để có thể thực hiện các yêu càu về kiến thức, kỹ năng của phân môn luyện từ và câu. Tôi có đề xuất một số biện pháp sau: 1. Nắm vững và phát huy những kiến thức và kĩ năng học sinh đã đạt được ở các lớp 1,2,3. Với mạch kiến thức được sắp xếp theo vòng tròn đồng tâm tuỳ theo ở mỗi lớp mà có những yêu cầu khác nhau. Tuy nhiên nếu các em nắm chắc những kiến thức ở lớp dưới thì lớp 4 các em sẽ nắm kiến thức dễ dàng hơn. VD: Ở lớp 1: Các em được học về âm - vần - học sinh tìm tiếng có âm, có vần, nói câu chứa tiếng có vần vừa học thì lớp 4 các em sẽ được học kỹ hơn về cấu tạo của tiếng: tiếng thường gồm có 3 bộ phận ''âm đầu - vần thanh'' (có tiếng không có âm đầu) Hay chỉ là một khái niệm ''Câu hỏi và dấu chấm hỏi'' ở lớp 2 học sinh mới chỉ cần đạt yêu cầu ''Chọn dấu chấm hay dấu hỏi để điền vào ô trống'' ở lớp 3 các em phải đặt và trả lời câu hỏi. Nhưng đến lớp 4 thì không những phải hiểu khái niệm mà còn phải biết giữ lịch sự khi đặt câu hỏi tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác. VD: Bạn có thể thể chờ hết giờ sinh hoạt, chúng mình cùng nói chuyện được không? Phải biết sử dụng vào câu hỏi với mục đích khác, không chỉ dừng lại ở hỏi những điều muốn biết mà còn phải biết dùng câu hỏi để thể hiện: thái dộ, khen chê, khẳng định, phủ định, yêu cầu mong muốn. 10 VD: Câu hỏi thể hiện thái độ khen chê. - Em gái em học mẫu giáo chiều qua mang về phiếu bé ngoan. Em khen bé ''sao bé ngoan thế nhỉ?'' - Tối qua, bé rất nghịch, bôi mực bẩn hết sách của em. Em tức quá kêu lên. ''sao em hư thế nhỉ? Anh không chơi với em nữa?'' VD: Câu hỏi thể hiện yêu cầu mong muốn: Em trai em nhảy nhót trên giường huỳnh huỵch lúc em đang chăm chú học bài. Em bảo :''Em ra ngoài chơi cho chị học bài được không? VD: Câu hỏi thể hiện sự nhờ cậy, giúp đỡ. - Bà cụ hỏi một người đang đứng vơ vẩn trước bến xe:''Chú có thể xem giúp tôi mấy giờ có xe đi Hà Nội không? 2. Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong cùng một tiết dạy/ Đó là các hình thức tổ chức: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm thoại gây hứng thú cho học sinh tránh nhàm chán đơn điệu. VD: Khi dạy bài:''Mở rộng vốn từ ''Ước mơ'' BT2: Học sinh thảo luận nhóm đôi Tìm thêm những từ cùng nghĩa với ''Ước mơ'' - 1 em tìm từ bắt đầu từ tiếng ''ước'' - 1 em tìm từ bắt đầu từ tiếng ''mơ'' BT3: Nêu yêu cầu chép thêm những từ: đẹp đẽ, viển vông, cao cả, lớn nho nhỏ, kỳ quặc, dại dột, chính đáng. Học sinh thảo luận nhóm 4 - Đánh giá cao: ước mơ cao đẹp, ước mơ chính đáng, ước mơ cao cả, ước mơ lớn. 11 - Đánh giá không cao: ước mơ bình thường, ước mơ nho nhỏ - Đánh giá thấp: ước mơ kỳ quặc, ước mơ dại dột, ước mơ viển vông. BT4: Nêu VD về 1 loại ước mơ nói trên Bài này cho học sinh làm việc cá nhân * Tóm lại: Vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học sẽ làm cho lớp học sôi nổi, gây hứng thứ cho học sinh. 3. Phát huy tính tích cực của học sinh Đổi mới phương pháp dạy học là phải phát huy tính tích cực của học sinh giáo viên cần chú ý đối với mọi đối tượng học sinh phân ra nhiều mức độ (giỏi, khá TB, kém) để có phương phá dạy thích hợp. Muốn phát huy được tính tích cực củ học sinh người giáo viên phải có hệ thống câu hỏi trong mỗi bài thật cụ thể phù hợp với mọi đối tượng học sinh. VD: Khi dạy bài ''Câu kể'' ''Ai làm gì?'' (tuần 17) BT1: Đọc đoạn văn sau:''Trên nương mỗi người một việc. Người lớn thì đánh trâu ra cày. Các cụ già thì nhặt cỏ đốt lá. Mấy chú bé bắc bếp thổi cơm. Các bà mẹ lom khom tra ngô. Các em bé ngủ khì trên lưng mẹ. Lũ chó sủa om cả rừng'' và tìm xem trong mỗi câu trên các từ ngữ chỉ hoạt động. - Chỉ người hoặc vật hoạt động. Thì học sinh có thể tìm được Từ chỉ hoạt động: đánh trâu ra cày, nhặt cỏ đốt lá, nghủ khì trên lưng mẹ, bắc bếp thổi cơm, lom khom tra ngô, sủa om cả rừng. Từ chỉ người hoặc vật hoạt động: Người lớn, các cụ già, mấy chú bé, các em bé, lũ chó. 12 Lúc này giáo viên gạch chân những từ mà các em đã tìm được. Sau đó tiến hành hỏi: Em hãy đặt câu hỏi cho từng ngữ chỉ hoạt động? Thì học sinh nêu: Người lớn làm gì? Các cụ già làm gì? .......... * Chú ý: Đến mọi đối tượng học sinh trong giờ học sinh trong giờ học để cho các em được nói, được làm việc. 4. Phối hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp để tích luỹ vốn hiểu biết, vốn từ ngữ cho học sinh. Phối kết hợp hoạt động ngoài giờ nhằm bồi dưỡng cho học sinh ý thức và thói quen sử dụng tiếng việt văn hoá trong giao tiếp. Cũng như các phân môn khác của Tiếng Việt một trong những nhiệm vụ của phân môn luyện từ và câu là bồi dưỡng ý thức và thói quen sử dụng tiếng việt văn hoá. Để thực hiện nhiệm vụ không chỉ bó gọn trong việc tổ chức cá hoạt động dạy và học trên lớp mà còn cả trong việc học tập của các môn học khác với các hoạt động trong và ngoài nhà trường nữa. * Với các bộ môn của môn Tiếng việt như Tập đọc, Chính tả, TLV, K/C giúp học sinh rất nhiều trong việc mở rộng vốn từ, cách dùng từ để đặt câu khác nhau, từ phải gắn với câu, sắp xếp từ ý cho đúng văn cảnh cụ thể. VD: Khi đọc :''Thưa chuyện với mẹ có các câu hỏi ''Con vừa bảo gì?'' ''Ai xui con thế?'' học sinh thấy ngay ngoài sự nhận biết về câu hỏi qua dấu câu học sinh còn nhận biết câu hỏi qua cách đọc câu hỏi. Thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp như các giờ chơi, chào cờ, các cuộc toạ đàm trao đổi học sinh sẽ tích luỹ được vốn từ cho mình. VD: Qua bài ''Mở rộng vốn từ đố chơi - trò chơi'' các em cũng thấy được những trò chơi nào có lợi - Những trò chơi có hại, cần tránh. Thông qua 13 các cuộc toạ đàm trao đổi, các em biết đặt câu hỏi một cách lịch sử, tránh hỏi trống không hoặc những câu hỏi tò mò thiếu tế nhị. Biết giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu. đề nghị. * Tóm lại: Việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp có tác dụng rất lớn đến việc dạy phân môn luyện từ và câu giúp các em có thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu, biết quý biết giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. 14 C. PHẦN KẾT LUẬN I. KẾT QUẢ Qua quá trình vừa nghiên cứu, vừa áp dụng vào thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng những phương pháp dạy học mà tôi áp dụng đã có những kết quả đáng mừng. Kết quả khảo sát lần thứ nhất: vào cuối tháng 9 với bài ''Từ đơn - từ ghép'' kết quả thu được như sau: Lớp Sĩ số 4A Xếp loại Giỏi Khá TB Yếu 32 5 12 12 3 4B 32 4 10 14 2 Tổng số 64 9 22 26 5 Sau khi KT khảo sát chất lượng học sinh TB và yếu còn nhiều và số học sinh giỏi chưa cao. Tôi đã thảo luận trong tổ nhóm vào những buổi sinh hoạt chuyên môn để tìm ra cách giảng dạy phù hợp với nhận thức của học sinh nhằm giúp học sinh nắm bắt bài tốt hơn, nâng cao chất lượng hiệu quả bộ môn. Sau khi áp dụng các đổi mới phương pháp dạy theo chuyên đề. Tôi đã khảo sát lần 2 vào cuối tháng 11 với bài tập tìm danh từ - Động từ - Tính từ trong đoạn văn. Kết quả cho thấy. Lớp Sĩ số Xếp loại 15 Giỏi Khá TB Yếu 4A 32 8 14 8 2 4B 32 7 13 9 1 Tổng số 64 15 27 17 3 * Kết quả khảo sát cho thấy chất lượng của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Cụ thể trong bài làm của học sinh các em đã hiểu được và phân biệt được từ rõ rệt. Cụ thể trong bài làm của học sinh các em đã hiểu được và phân biệt được từ loại, biết sử dụng từ loại trong đặt câu và viết văn. * Kết quả trên đã chứng minh được một số giải pháp của tôi đã có hiệu quả đi đúng theo sự chỉ đạo của nhà trường và của ngành đề ra. Cho đến nay tôi vẫn tiếp tục thực hiện và phát huy những mặt đã đạt được, khắc phục những mặt còn tồn đọng để nâng cao chất lượng dạy học hơn nữa. 16 II.BÀI HỌC Qua kết quả thu được sau khi triển khai thực hiện các giải pháp trên cho thấy chất lượng dạy học có chuyển biến. Trong quá trình thực hiện ''Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 '' Tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau: 1. Nắm vững nội dung chương trình. mức độ yêu cầu học và các đối tượng học sinh. 2. Lập kế hoạch bài học: Giáo viên cần nắm vứng nội dung cơ bản của từng bài học trong SGK và những hướng dẫn cụ thể về mực tiêu cần đạt. Tuỳ theo đặc điểm của từng bài học mà xây dựng kế hoạch bài giảng cho phù hợp. Song dù thế nào cũng cần có đầy đủ các hoạt động lớp và tổ chức các hoạt động đó. 3. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học: Giáo viên nắm vững các phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học, để lựa chọn phối hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức cho phù hợp với nội dung của bài dạy và chủ điểm của bài học đó. 4. Tổ chức hoạt động lên lớp Giáo viên cần khéo léo sử dụng linh hoạt các phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học. Các hoạt động của tiết dạy không tách rời nhau, mà phải có sự đan xen liên kết và hỗ trợ lẫn nhau. Bên cạnh đó giáo viên cần phải có dự kiến về các câu trả lời của học sinh và các tình huống sư phạm xảy ra trong mỗi hoạt động, có biện pháp giải quyết và điều chỉnh kịp thời. 5. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học: 17 Giáo viên có thể vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học theo nhóm, dạy học cá nhân,.....có thể tổ chức học sinh dưới hình thức trò chơi để kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, nhằm đạt kết quả cao trong giờ học mà học sinh không nhàm chán. IV. NHỮNG ĐỀ XUẤT. Dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu” là nguồn cung cấp vốn từ, lối diễn đạt bồi dưỡng tư duy văn học cho học sinh. Muốn vậy: * Đối với học sinh: Các em cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của môn này. Các em cần được động viên, khích lệ kịp thời, đúng lúc của mọi người để kích thích các em có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập, đó chính là gia đình – nhà trường xã hội. * Đối với giáo viên: Không ngừng học hỏi tìm tòi tích luỹ kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ thông tin, sách vở và từ chính học sinh. + Nắm chắc nội dung chơng trình, ý đồ của sách giáo khoa, dạy sát đối tượng học sinh, lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với mỗi dạng bài. 18 + Cần xác định không phải dạy bài khó, bài nâng cao thì học sinh mới giỏi. + Đặc biệt phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, có trách nhiệm với việc học của học sinh và bài dạy của mình. Động viên gần gũi giúp đỡ học sinh. * Đối với nhà trường và các cấp quản lý: Nhà trường cần tạo điều kiện cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh có thể học tập nâng cao kiến thức. + Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn. + Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều thành tích cao trong giảng dạy và học tập. + Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trong quá trình thực hiện:''Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn luyện từ và câu ở lớp 4” Tôi đã tham khảo các tài liệu dạy học của phân môn cũng như học hỏi kinh nghiệm từ bạn bè đồng nghiệp, sáng kiến đã hoàn thành và đã dạy thực nghiệm ở tất cả khối 4. Những giải pháp của tôi cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí lãnh đạo cũng như các bạn bè đồng nghiệp để chúng ta có hướng giải quyết tiếp theo cho việc nâng cao chất lượng dạy và học phân môn “Luyện từ và câu” nói riêng và phân môn Tiếng Việt nói chung, góp phần giáo dục học sinh trở thành con người phát triển toàn diện. Tôi xin trân trọng cảm ơn! 19 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất