Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn nâng cao chất lượng cho bài nghị luận xã hội của học sinh thpt như thanh 2 ...

Tài liệu Skkn nâng cao chất lượng cho bài nghị luận xã hội của học sinh thpt như thanh 2 qua giờ học tự chọn

.DOC
23
508
118

Mô tả:

Nâng cao chất văn cho bài văn nghị luận xã hội của học sinh Trường THPT Như Thanh 2 qua giờ học tự chọn. A. Đặt vấn đề I. Lí do chọn đề tài. Nghị luận về một vấn đề xã hội đã từng được đề cập đến trong chương trình cải cách giáo dục song chưa được chú trọng, thời lượng dành cho phần học này chỉ rất ít, giáo viên giảng dạy cũng chưa chú ý hướng dẫn học sinh kĩ năng làm kiểu bài này.Hiện nay ngoài tiết học chính khoá, trường THPT Như Thanh 2 còn xếp thêm một số giờ học văn tự chọn. Do đó tôi muốn qua những giờ học tự chọn này để bồi dưỡng các em kĩ năng viết văn nghị luận xã hội. Thực tế hiện nay phần lớn học sinh THPT nói chung và học sinh trường THPT Như Thanh 2 nói riêng viết văn nghị luận xã hội còn khô khan, thiếu chất văn. Bài viết không sinh động, ý còn nghèo nàn, lập luận thiếu lôgíc chặt chẽ. Bài viết không thực sự có hiệu quả, thuyết phục được người đọc. Vì vậy tôi chọn vấn đề này để nghiên cứu nhằm hướng dẫn học sinh viết nghị luận xã hội có hiệu quả. II. Lịch sử vấn đề. Dạng đề văn nghị luận xã hội chiếm một phần quan trọng trong cấu trúc đề văn của học sinh THPT trong các kì thi. Vấn đề này cũng được nhiều giáo viên tâm huyết với nghề quan tâm song chưa có một bài viết hay chuyên đề cụ thể, đầy đủ về việc nâng cao chất văn cho bài văn nghị luận xã hội mà chủ yếu chỉ hướng dẫn học sinh cách xử lí tình huống trong từng đề, giải quyết vấn đề thẳng thắn, đơn giản như một thao tác trả lời câu hỏi dạng vấn đáp thông thường đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin, trình bày quan điểm của người viết. Vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề trên để cùng đồng nghiệp trao đổi nhằm tạo cho bài văn nghị luận xã hội của học sinh thực sự mang chất văn. III. Mục đích nghiên cứu. 1 Trong bộ môn Ngữ văn, ngoài việc hướng dẫn học sinh tiếp nhận kiến thức, người giáo viên văn còn có trách nhiệm giúp học sinh biết cách tạo lập văn bản qua những tiết làm văn. Trong các loại văn bản mà học sinh cần biết tạo lập thì văn bản nghị luận là loại văn bản rất quan trọng vì nó giúp học sinh rèn luyện và phát triển tư duy lôgic, thể hiện trình độ kiến thức và kĩ năng làm văn. Đồng thời, đây cũng là loại văn bản mà người ra đề trong các kì thi quan trọng yêu cầu học sinh thực hiện.Mục đích của đề tài này là nâng cao chất văn cho bài nghị luận xã hội. IV.Đối tượng nghiên cứu. - Dạng bài nghị luận xã hội của phần làm văn trong chương trình ngữ văn THPT. - Hoạt động giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh trong các giờ học tự chọn. V.Phạm vi đề tài. Đề tài được sử dụng trong các giờ học văn tự chọn của giáo viên và học sinh THPT VI.Giá trị sử dụng của đề tài. Đề tài có giá trị tham khảo làm tài liệu giảng dạy và học tập đối với giáo viên và học sinh trong những giờ học tự chọn phần làm văn chương trình THPT. 2 B. Giải quyết vấn đề Chương I : Cơ sở lí luận 1. Chất văn. Hiểu một cách đơn giản chất văn là tính chất tạo nên vẻ đẹp văn chương của một văn bản, nó bao gồm các yếu tố cảm xúc, hình ảnh và chiều sâu suy nghĩ bộc lộ qua cách diễn đạt, trình bày của người viết. Các yếu tố này không tồn tại độc lập mà luôn song hành, hoà quyện vào nhau khi người tạo lập văn bản lựa chọn từ ngữ và các phương thức biểu đạt. Một bài viết được cho là có chất văn khi lời văn được viết từ nhiệt tình sôi nổi và niềm tin vững chắc của người viết vào điều mình định trình bày, khi ngôn ngữ được sử dụng truyền tải một cách tinh tế và sâu sắc những cảm xúc, tình cảm và suy nghĩ trong lòng, khi ý tưởng được thể hiện sinh động bằng thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh và giàu cảm xúc. Nhưng như thế cũng có nghĩa không phải cứ có cảm xúc hoặc hình ảnh là có tính chất văn chương . Cảm xúc ấy, hình ảnh ấy phải nảy nở, sinh sôi trên sự hình thành, tồn tại của chính ý tưởng – mà ý tưởng của người viết phải là ý tưởng được định hình thật rõ ràng bằng các luận điểm xác đáng, có cơ sở khoa học cũng như thực tiễn. 2. Bài văn nghị luận xã hội. Nghị luận xã hội là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề xã hội (Mối quan hệ con người trong xã hội, những đòi hỏi của cuộc sống cũng như yêu cầu của con người, thực trạng xã hội và các hiện tượng đời sống...). Mục đích cuối cùng của nó là thể hiện chính kiến, quan niệm của người viết về vấn đề đặt ra đồng thời tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Yêu cầu đối với bài văn nghị luận xã hội trước hết cũng là đảm bảo kĩ năng nghị luận nói chung. Bên cạnh đó bài văn nghị luận xã hội cũng cần đảm bảo về kiến thức mang màu sắc chính trị - xã hội. Đảm bảo mục đích, tư tưởng: Phải vì con người, vì sự tiến bộ chung của toàn xã hội. 3. Chất văn trong bài văn nghị luận xã hội. 3 Trước hết, một bài văn nghị luận xã hội được xem là có tính chất văn chương khi bên cạnh hệ thống ý mạch lạc, sắc sảo người viết còn thể hiện lòng nhiệt tình trong chính kiến, quan niệm của cá nhân mình về vấn đề đưa ra bàn luận. Lòng nhiệt tình ấy trước hết được bộc lộ ở thái độ nghiêm túc xem xét vấn đề một cách thấu đáo để có thể đi đến cùng trong cắt nghĩa, lí giải và đánh giá. Đồng thời khi có lòng nhiệt tình người viết bao giờ cũng thể hiện một thái độ, lập trường rõ ràng đối với vấn đề bên cạnh đó yếu tố cảm xúc là không thể thiếu : Niềm vui, sự tin tưởng với điều tốt, nỗi đau buồn và khát vọng đổi thay trước những mất mát, băng hoại...Bên cạnh đó ngôn ngữ cần chính xác, truyền cảm, cách diễn đạt giàu hình ảnh, sử dụng hợp lí và sáng tạo những cách liên tưởng, so sánh...là điều cần thiết để góp phần tạo tính chất văn chương cho bài nghị luận xã hội. Chương II. Phương pháp nâng cao chất văn cho bài nghị luận xã hội qua giờ học tự chọn. 1. Hình thành ý tưởng và xác định thái độ. 1.1. Hình thành ý tưởng. Do trong nhà trường phổ thông các bài viết đều triển khai từ yêu cầu của đề bài trong sách giáo khoa hoặc do giáo viên ra đề nên ý tưởng lớn bao trùm toàn bộ bài viết phải là điều mà đề bài yêu cầu bàn luận. Nói cách khác, ý tưởng cần được hình thành trên chính yêu cầu của đề bài. Vì vậy, để hình thành ý tưởng, việc đầu tiên là đọc kĩ và xác định yêu cầu đề. Hãy đọc một số đề bài sau đây: Đề số 1: “ Ta hỏi một con chim : ngươi cần gì ? Chim trả lời : ta cần bay . Một con chim được ăn kê béo trog lồng sẽ trở thành con gà bé bỏng tội nghiệp và vô dụng . Ta hỏi một dòng sông : ngươi cần gì ? Sông trả lời : ta cần chảy . Một dòng sông không chảy sẽ trở thành vũng nước khô cạn dần rồi bíên mất . Ta hỏi một con tàu : ngươi cần gì ? Con tàu trả lời : ta cần được ra khơi . Một con tàu không ra khơi chỉ là vật biết nổi trên mặt nước và sẽ chìm dần theo thời gian . Ta hỏi một con người : ngươi cần gì ? Con người này trả lời : ta cần được lao động trong sáng tạo .” ( Những câu hỏi không lãng mạn – Nguyễn Quang Thiều ) 4 Trình bày suy nghĩ cuả anh ( chị ) về vấn đề được đặt ra trong đọan văn trên. Đề số 2: Đọc truyện “Tấm Cám” anh (chị) có suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa người tốt và kẻ xấu,giữa cái thiện và cái ác trong xã hội thời xưa? Đề số 3: Trong cuốn Chia sẽ tâm hồn và quà tặng cuộc sống của hai tác giả Jack Canfield và Mark Victor Hasen có mẩu chuyện sau: Tại một thị trấn nhỏ ở Tây Ban Nha, có một người đàn ông tên Jorge vừa cãi vã dữ dội với cậu con trai Paco của mình. Ngày hôm sau ông phát hiện giường của Paco trống không – cậu bé đã bỏ nhà đi. Vượt qua cảm giác ăn năn, hối hận về những điều đã xãy đến, Jorge nhìn lại mình và nhận ra rằng, với ông, cậu con trai quan trọng hơn tất cả. Jorge đến một cửa hiệu nổi tiếng ở trung tâm thị trấn và dán một tấm giấy có dòng chữ: “ Paco, con hãy trở về nhà. Bố yêu con. Hãy gặp bố ở đây vào sáng mai con nhé !”. Sáng hôm sau, khi Jorge đến cửa hiệu, thì không chỉ có một, mà đến bảy cậu bé cùng có tên Paco bỏ nhà ra đi đã đứng đợi ở đấy... Đọc mẩu chuyện trên anh (chị) có suy nghĩ gì ? Đề số 4: Suy nghĩ của anh (chị) về sự trở lại của trào lưu sống giản dị trong giới trẻ ngày nay? Đọc kĩ đề, chú ý vào những cụm từ, hình ảnh và cách diễn đạt, học sinh sẽ nhận ra yêu cầu mà người ra đề đặt ra: Đề 1: Đề bài yêu cầu bàn về vấn đề được đặt ra trong đoạn văn của tác giả Nguyễn Quang Thiều: Vai trò của lao động trong sáng tạo. Để thực hiện yêu cầu đề, học sinh cần chú ý tới tương quan giữa hai hệ thống hình ảnh: Con chim và con gà bé bỏng, dòng sông và vũng nước, con tàu và vật biết nổi trên mặt nước. Giữa hai hệ thống ấy có những từ chỉ hoạt động lao động như bay, chảy, ra khơi – những hoạt động để con chim, dòng sông, con tàu được là chính nó và trở nên có giá trị. Từ đó, học sinh sẽ xác định được ẩn ý của tác giả trong đoạn văn như một cơ sở hình thành ý tưởng. Đề 2: Đề bài yêu cầu học sinh trình bày suy nghĩ về cuộc đấu tranh giữa người tốt và kẻ xấu,giữa cái thiện và cái ác trong xã hội thời xưa qua chuyện “Tấm Cám”.Học sinh cần phân tích sơ lược câu chuyện để làm nổi bật vấn đề xã hội đặt ra trong đó qua nhân vật và tình tiết cốt truyện. 5 Đề 3: Đề bài yêu cầu học sinh bày tỏ suy nghĩ về vấn đề được đặt ra từ mẩu chuyện. Trước hết cần xác định chính xác vấn đề đặt ra bằng việc đọc kĩ văn bản được dẫn, tìm những thông tin quan trọng trong đó. Có ba thông tin đặc biệt quan trọng : suy nghĩ của người cha ,lời người cha nhắn nhủ tới cậu con trai và hiệu quả của lời nhắn. Từ việc xác định chính xác vấn đề đặt ra, cần có sự lí giải thích hợp và liên hệ mở rộng để bài viết trở nên thuyết phục. Đề 4: Đề bài yêu cầu học sinh bàn luận về sự trở lại của trào lưu sống giản dị của thanh niên ngày nay.Một bộ phận thanh niên tiến bộ ngày nay không đua đòi tiêu xài hoang phí mà trở lại lối sống giản dị song vẫn giữ được nét đẹp hiện đại trẻ trung.Đó là lối sống tốt,cần phổ biến rộng rãi và kêu gọi mọi người hưởng ứng. 1.2. Xác định thái độ. Để có thể có một thái độ đúng với vấn đề đặt ra, ngoài việc nhận diện chính xác và sâu sắc bản chất vấn đề, cần có những hiểu bíêt nhất định về chuẩn mực đạo đức và các chuẩn đánh giá chung của xã hội. Trên cơ sở hiểu biết chung ấy, người viết cần xem xét vấn đề có những đánh giá chính xác về tính chất của nó: tích cực hay tiêu cực, đúng hay sai, phiến diện hay toàn diện...Sự đánh giá này rất quan trọng vì nó là cơ sở để người viết bộc lộ thái độ của mình: khen hay chê, đồng tình hay phản đối, khâm phục nể trọng hay bất bình phẫn nộ... Khi bộc lộ thái độ, cần rõ ràng, minh bạch song không nên cực đoan vì sẽ gây phản cảm và làn giảm tính nghiêm túc của bài viết. Hãy đọc đoạn trích từ bài làm văn của một em học sinh: Đề bài: Suy nghĩ của em về truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người Việt Nam. “Ngày xưa mới có học trò kính sợ thầy hơn cha bởi quan niệm “quân – sư – phụ”. Còn ngày nay nhiều trò vì bị thầy cô trách phạt mà giở trò du côn hành hung cả thầy cô của mình. Nhưng điều này không thể hoàn toàn quy lỗi cho học sinh. Có những thầy cô không mẫu mực tham gia tệ nạn, suy thoái đạo đức. Thử hỏi làm sao học sinh có thể tôn sư ? Nên ngày nay trò không còn tôn sư, thầy không còn giữ đạo”. Trong bài văn trên, em học sinh đã thể hiện một thái độ rất rõ ràng: gay gắt lên án cái xấu, cái ác và những tiêu cực trong xã hội – điều này tạo cho bài viết một “khẩu 6 khí” mạnh mẽ, rất dễ thuyết phục người khác. Tuy nhiên, sai lầm của em lại là quá cực đoan khi nhìn nhận xã hội: em chỉ nhìn thấy cái xấu mà không thấy cái tốt, chỉ thấy mặt trái mà không có cái nhìn toàn diện về các hiện tượng trong xã hội. Một bài viết mà người viết thiếu thiện chí và bi quan có thể sẽ được tán thưởng bởi những kẻ thiển cận và nông nổi chứ không thể tạo ra hiệu ứng tốt trong xã hội. 2. Xây dựng đề cương (dàn ý). Có thể có người cho rằng dàn ý không liên quan gì tới “tính chất văn chương”. Tuy nhiên, điều tưởng không mấy liên quan ấy lại liên quan mật thiết: bởi dù lời văn có bóng bẩy hoặc chứa chan cảm xúc mà ý tứ không rõ ràng hoặc rối, thiếu thì sức hấp dẫn sẽ giảm đáng kể. Để xây dựng một dàn ý hợp lí, cần bắt đầu từ yêu cầu và cách triển khai ý ở từng dạng bài cụ thể. Trong nhà trường phổ thông, nghị luận xã hội có ba dạng chính như sau: 2.1. Nghị luận về một tư tưởng – đạo lí. Đối với học sinh trong nhà trường phổ thông, do tâm lí, lứa tuổi, tầm nhận thức nên những vấn đề đặt ra để bàn luận không phải là những vấn đề quá phức tạp, lớn lao mà chỉ là những khía cạnh đạo đức, tư tưởng, tình cảm gắn liền với cuộc sống hàng ngày như tình cảm quê hương, gia đình, bạn bè, ý thức trách nhiệm, tinh thần học tập, phương pháp nhận thức... Những vấn đề này có thể đặt ra một cách trực tiếp, nhưng thường là được gợi mở qua một câu danh ngôn (tục ngữ, ca dao, câu nói của các bậc hiền triết, các lãnh tụ, nhà văn nổi tiếng...).Như đề 1 (đã dẫn). Đối với dạng đề này, để giải quyết vấn đề, ta cần lưu ý cách xem xét nó từ nhiều góc độ. Cách đơn giản nhất là thử đặt ra và trả lời những câu hỏi. Sau đây là một số dạng câu hỏi chính: - Vấn đề đó là gì ? - Vấn đề đó như thế nào ? - Vì sao lại như thế ? - Như thế thì có ý nghĩa gì với cuộc sống, với con người, với bản thân ? Từ việc đặt ra và trả lời các câu hỏi, có thể hình dung một bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí cần được triển khai theo bốn bước cơ bản sau: - Giải thích cắt nghĩa; - Lí giải; Cụ thể như sau: - Đánh giá ; - Liên hệ 7 Bước 1: Giải thích cắt nghĩa. Tuỳ theo từng yêu cầu cụ thể mà mức độ và cách giải thích có thể sẽ khac nhau. Có những đề bài khâu giải thích có thể làm rất gọn gàng, đơn giản nhất là khi trong yêu cầu nhận định không có những khái niệm phức tạp. Thế nhưng lại có những đề bài, những khâu giải thích cần làm rất công phu. Chẳng hạn với quan niệm của Viên Mai “Làm người không thể không phân biệt giữa nhu mì và nhu nhược, giữa cứng cỏi và cường bạo,giữa tiết kiệm và keo kiệt, giữa trung hậu và khờ khạo, giữa sáng suốt và cay nghiệt, giữa tự trọng và tự đại, giữa khiêm tốn và hèn hạ. Mấy cái đó hình như giống nhau mà thực khác nhau.” Bước 2: Lí giải. Bản chất của thao tác này là giảng giải cái nghĩa lí của vấn đề được đặt ra để làm sáng tỏ bản chất vấn đề cùng với các khía cạnh, các mối quan hệ của nó. Để làm được việc này, chúng ta cần tách vấn đề thành các khía cạnh nhỏ để xem xét nghiên cứu. Cách đơn giản nhất là đặt ra các câu hỏi để khảo sát, tìm hiểu. Chẳng hạn với vấn đề nhận thức đặt ra trong quan niệm của J.Houston “chúng ta sẽ nắm được 10% những gì đọc được, 15% những gì nghe thấy và 80% những gì từ trải nghiệm” . Ta có thể đặt ra những câu hỏi sau: - Vì sao chúng ta chỉ tiếp thu được một phần nhỏ những gì đọc được, nghe thấy ? - Vì sao chúng ta sẽ nắm được phần lớn những gì từ trải nghiệm ? Việc suy nghĩ tìm câu trả lời sẽ giúp ta tháo gỡ dần để tiếp cận và nắm vững bản chất vấn đề. Bước 3. Đánh giá. Đây là phần việc để học sinh bộc lộ nhận thức về vấn đề ở mức độ cao nhất, cũng là phần việc gây khó khăn cho học sinh nhiều nhất. Vì vậy, trước hết chúng ta cần đánh giá vấn đề ở các bình diện, khía cạnh khác nhau : ý nghĩa tư tưởng, ý nghĩa thực tế, mức độ đúng – sai, đóng góp – hạn chế... Từ sự đánh giá trên các bình diện, ta cần nhìn nhận giá trị của vấn đề như một bài học kinh nghiệm trong cuộc sống cũng như trong học tập, trong nhận thức cũng như 8 trong tình cảm, tư tưởng để tự mình bồi đắp, nâng cao kinh ngiệm sống, ứng xử trong đời sống. Bước 4 Liên hệ. Ta có thể tuỳ theo yêu cầu và tính chất cụ thể của từng vấn đề mà liên hệ - mở rộng. Song phải đảm bảo phần liên hệ gần gũi với thực tế và bản thân. 2.2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống. Khác với dạng đề bàn về một tư tưởng đạo lí, dạng đề này thường nêu lên một hiện tượng có thật trong đời sống. Đó có thể là một hiện tượng tích cực nhưng cũng có thể là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội hoặc có cả hai mặt. Như thế đòi hỏi người viết bằng nhận thức của bản thân phải thể hiện được chủ kiến của mình. Bằng phân tích và lập luận ca ngợi biểu dương cái chân, thiện, mĩ và lên án vạch trần cái xấu, cái ác. Tất nhiên những hiện tượng đời sống nêu trong các đề văn này vừa phải gần gũi với tuổi trẻ học đường vừa có ý nghĩa lớn lao đối với cả cộng đồng dân tộc và thế giới.Như đề 4 (đã dẫn). Đề luyện tập viết các bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống cần trải qua bốn bước cơ bản sau: Bước 1: Nêu thực trạng. Khi phản ánh thực trạng ta cần đưa ra những con số, những thông tin cụ thể tránh lối nói chung chung mơ hồ. Chẳng hạn muốn bàn về tình trạng ô nhiễm nguồn nước, cần tìm về con sông đang bị ô nhiễm nặng nhất, mức độ ô nhiễm cụ thể, các loại chất gây ô nhiễm hiện có mặt trong nguồn nước sông... Bước 2: Phân tích nguyên nhân Khi phân tích nguyên nhân nên chú ý tới các mặt khách quan và chủ quan. Chẳng hạn với hiện tượng tai nạn giao thông thì nguyên nhân khách quan là hệ thống giao thông còn nhiều bất cập từ việc phân luồng, biển báo, chất lượng phương tiện... Nguyên nhân chủ quan là do người tham gia giao thông chưa ý thức về trách nhiệm, luật pháp... Bước 3: Nêu hậu quả 9 Khi đánh giá hậu quả cần xem xét ở các phạm vi cá nhân-cộng đồng, hiện tại-tương lai...Ví dụ nạn bạo hành phụ nữ không chỉ gây hậu quả nghiêm trọng với chính người bị bạo hành về sức khoẻ, tâm lí ... mà còn ảnh hưởng tới toàn xã hội trong quá trình phát triển. Bước 4: Nêu giải pháp. Khi tìm giải pháp ta cần xem lại nguyên nhân vì chính nó là gợi ý tốt nhất. Xuất phát từ đó ta sẽ có những giải pháp hiệu quả để khắc phục những tồn tại trên. Về cơ bản, bài nghị luận về hiện tượng đời sống cần sự bộc lộ vốn hiểu biết và lập trường, thái độ của người viết về hiện tượng được nêu. Vì vậy ngoài việc nắm vững các bước cơ bản trong quá trình làm bài, người viết còn cần thể hiện tiếng nói cá nhân và quan điểm đánh giá thật rõ ràng, sắc sảo bài viết mới có sức thuyết phục. 2.3.Nghị luận về vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học. Đây là dạng đề tổng hợp đòi hỏi học sinh kiến thức về cả hai mảng văn học và đời sống cũng đòi hỏi cả kĩ năng phân tích văn học và kĩ năng phân tích, đánh giá các vấn đề xã hội. Nghĩa là có thể kiểm tra được người viết về cả kiến thức văn học và kiến thức đời sống. Đề thường xuất phát từ một vấn đề xã hội giàu ý nghĩa có trong một tác phẩm văn học nào đó để yêu cầu hs bàn bạc rộng ra vấn đề xã hội đó. Vấn đề xã hội được bàn bạc có thể rút ra từ một tác phẩm văn học hoặc một câu chuyện ngắn nào đó.Như đề 2,3 đã dẫn Để làm dạng bài này, người viết trước hết phải phân tích tác phẩm theo hướng làm rõ vấn đề xã hội cùng với các khía cạnh các phương diện biểu hiện của nó. Nếu vấn đề đặt ra mang màu sắc tư tưởng - đạo lí thì cần trở lại mô hình cắt nghĩa – lí giải - đánh giá – liên hệ. Nếu vấn đề đặt ra là một hiện tượng đời sống cần trở lại mô hình thực trạng- nguyên nhân - kết quả - đề xuất ý kiến. Cần lưu ý là dạng bài này rất dễ lẫn với bài nghị luận văn học vì buộc phải có khâu phân tích tác phẩm để xác định vấn đề cần nghị luận. Để tránh nhầm lẫn, cần xác định và phân biệt rõ sự khác biệt về mục đích và cách thức tiến hành. Mục đích của nghị luận văn học là bàn bạc, phân tích để đánh giá chất lượng về nội dung - nghệ thuật của văn bản tác phẩm. Còn mục đích của nghị luận xã hội là phân tích, đánh giá để đưa ra ý kiến về vấn đề 10 xã hội được đặt ra ở văn bản tác phẩm đó. Trên cơ sở hiểu biết chung về cách làm bài, học sinh cần vận dụng để lập dàn ý cho những đề bài cụ thể. Dàn ý càng rõ ràng, mạch lạc, bài viết càng dễ triển khai và có sức thuyết phục cao. 3.Tổ chức điểm nhìn và sử dụng lời văn. 3.1. Tổ chức điểm nhìn. Điểm nhìn trong bài văn nghị luận tất nhiên không thể phong phú đa dạng như điểm nhìn trong tác phẩm văn chương. Việc lựa chọn điểm nhìn có liên quan tới việc thể hiện thái độ, bày tỏ cảm xúc làm nên sức hấp dẫn cho bài văn, thậm chí tạo nên cái gọi là “ đẳng cấp” cho bài văn.Trong văn nghị luận, thường thì người viết luôn kết hợp điểm nhìn bên ngoài (để tạo tính chất khách quan, khoa học) với điểm nhìn bên trong (để thể hiện sự đồng cảm và sự tâm huyết, say mê) đối với vấn đề cần bàn luận. Điểm nhìn bên ngoài thường được lựa chọn khi lí giải, phát biểu cảm xúc, suy nghĩ về vấn đề. Khi thể hiện điểm nhìn bên ngoài, người viết là người đi tìm hiểu, khi thể hiện điểm nhìn bên trong, người viết là người cảm nhận như một người trong cuộc. Chẳng hạn, trong bài viết về tình mẫu tử qua tiếng hát ru, viết như thế này là viết với điểm nhìn bên trong – người viết như một người đang cảm nhận lời ru: “Tiếng ru à ơi vẳng lại từ cuối làng, xa xa...Giọng người mẹ ấm lên trong làn gió đầu đông lạnh lẽo. Có lẽ trái tim sắt đá nhất cũng phải chảy mềm ra khi nghe tiếng à ơi...à ơi...đang vang lên từ trong trái tim người mẹ ấy. Tôi như được trở về với sự bình lặng đầu tiên trong cõi đời người, hoà mình vào tình yêu thương đang thấm nhuần trong từng mạch máu. Có lẽ chính cái ngọt ngào, ấm áp ấy đã nuôi dưỡng bao tâm hồn con người, từ khi chỉ là một sinh linh bé bỏng cho đến lúc trưởng thành. Phải chăng, đó cũng chính là nguyên cớ để Nguyễn Duy cảm ra cái hồn của tiếng hát ru ? Ta đi trọn kiếp con người Vẫn không đi hết mấy lời mẹ ru” Còn viết như thế này là viết với điểm nhìn bên ngoài – người viết như một người đang tìm hiểu để phân tích, đánh giá: “Lời ru mang tình cảm mẹ dành cho con. Đó là tình yêu thương, niềm hy vọng, sự tự hào cảu mẹ gửi gắm qua giai điệu êm đềm. Tuy nhiên, không đơn thuần chỉ là tình 11 yêu mà ẩn sâu trong tình yêu ấy là những bài học về cuộc đời. Lời hát ru cũng là lời răn dặy con về cách sống, cách yêu thương: Con ơi con ngủ cho say Để mẹ đi cấy đồng sâu mẹ về Bắt được con trắm, con trê Túm cổ lôi về nấu nướng con ăn Miếng nạc thì để phần chồng Miếng xương mẹ gặm, miếng lòng phần con”. Một bài văn nếu chỉ toàn phát biểu cảm xúc suy nghĩ sẽ mang năng màu sắc cảm tính, còn nếu chỉ phân tích, đánh giá khách quan thì trở nên khô khan. Sự kết hợp chủ quan và khách quan, cảm xúc và tư duy luôn là điều cần thiết trog bài văn nghị luận. Khi tổ chức được một cách hợp lí điểm nhìn, lời văn sẽ có được cái “khẩu khí”, cái “giọng” riêng không thể lẫn. 3.2. Sử dụng lời văn. Lời văn trong bất kì trường hợp nào cũng cần phải hướng tới những chuẩn mực về tư tưởng và thẫm mĩ. Nghĩa là bên cạnh việc thể hiện những nhận thức đúng, quan niệm đúng, đánh giá đúng... thì còn phải hay, phải đẹp trong cách diễn đạt nữa. - Khi cần tăng sức thuyết phục cho những phán đoán, nhận xét, lối câu trùng điệp tỏ ra rất có hiệu quả. Người xưa từng nói: “giấy không giữ được lửa”, kẻ làm việc ác có thể giấu mặt với vài người, không thể giấu mặt với tất cả, có thể khống chế tình thế trong một lúc, không thể khống chế tình thế trong cả đời nên khó tránh việc bị quay lưng nghoảnh mặt, bị đấu tranh phê phán. (Trích bài làm của học sinh) - Bên cạnh lối câu trùng điệp, hình thức câu hỏi phản biện cũng tạo ra sự thú vị cho người đọc khi bị thu hút mạnh mẽ trước một vấn đề được xoáy sâu, nhấn mạnh. Đây không phải là lần đầu tiên hình ảnh nữ sinh bị đánh hội đồng được tung lên mạng, điều đó cho thấy đây thực sự là một vấn nạn cần phải được ngăn chặn kịp thời. Là những người lớn, là những bậc làm cha, làm mẹ, chúng ta có cảm thấy đau 12 lòng trước những hình ảnh này ? Nhà trường và các thầy cô giáo nghĩ gì khi nhìn những học sinh thân yêu của mình hành xử nhau giữa đường như những băng nhóm côn đồ ?Vậy trách nhiệm thuộc về ai? (Trích người trẻ đánh nhau và bài học cho người lớn – Nguyễn Vũ Lam) - Khi cần biểu hiện thái độ, cảm xúc, ngoài cách diễn đạt trực tiếp bằng những từ ngữ, câu văn biểu cảm, việc sử dụng cách nói hình ảnh cũng là một lựa chọn thông minh: Bạn đã từng nghe cậu chuyện về một chú chim? Bị một vết thương rất nặng, chú chim ấy phải nằm lại giữa một đống lá rừng. Từng ngày, từng ngày trôi qua, cái chết đối với nó chỉ còn là tương lai gần mà thôi. Một buổi sáng, nó cố nhìn lên cao, nhìn màu xanh mỡ màng của lá rừng nối tiếp màu xanh da trời bất tận. Đột ngột, nó đập cánh vụt bay. Đôi cánh loạng choạng... sinh linh nhỏ bé ấy vẫn muốn sống tiếp cuộc đời bay liệng.Con người là “sinh linh bậc cao” của tạo hoá, lẽ nào không hiểu nổi cái đập cánh của một chú chim ? (Trích bài làm của học sinh) Tất nhiên, sử dụng biện pháp nào, “liều lượng” ra sao cũng là một vấn đề cần cân nhắc trên yêu cầu của đề bài và mục đích biểu hiện của chính người viết. III. Hướng dẫn luyện tập. * Đề bài: Đề số 1 đã dẫn ở phần trên. 1. Hướng dẫn hình thành ý tưởng. 1.1. Câu hỏi hướng dẫn: - Đoạn văn trong đề bài đặt ra vấn đề gì ? Vấn đề ấy bao gồm những khía cạnh nào? - Quan điểm của anh (chị) về vấn đề đó ? - Hướng giải quyết vấn đề của anh (chị) ? - Mục đích của anh (chị) đặt ra khi giải quyết vấn đề là gì ? 1.2. Gợi ý trả lời: - Vấn đề đặt ra ở đây là vai trò của lao động trong sáng tạo – tức là lao động với một tinh thần tự do để có thể phát huy tối đa khả năng sáng tạo của bản thân. Vấn đề này bao gồm cả bản chất của lao động và môi trường để lao động thực sự là hoạt động sáng tạo. 13 - Đây là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong xã hội hiện nay, cần được quan tâm bởi cả cộng đồng và bản thân từng cá nhân. - Cần cắt nghĩa đoạn văn để xác định chính xác vấn đề, lí giải cơ sở tồn tại và đánh giá phạm vi ý nghĩa của nó. Từ đó liên hệ bản thân và xã hội hiện tại để đề xuất ý kiến. - Mục đích quan trọng nhất là thể hiện nhận thức và chứng kiến của mình về vấn đề. 2. Hướng dẫn xác định thái độ. 2.1. Câu hỏi hướng dẫn. - Anh (chị) thấy vấn đề này có thực sự có ích với mình không ? Vì sao ? - Cách nêu vấn đề gợi cho anh (chị) cảm nhận gì về thái độ của tác giả ? - Thái độ của anh (chị) với vấn đề và cách nêu vấn đề ? 2.2. Gợi ý trả lời. - Đây thực sự là một vấn đề thú vị và rất có ích vì con người để sống không thể không lao động tạo ra đóng góp bằng bất kì hình thức nào. - Cách nêu vấn đề của tác giả rất thú vị và có tính gợi mở. Thú vị bởi cách nói hình ảnh, cách tạo ra mối liên hệ giữa các hình ảnh. - Thái độ nên có là tán đồng với vấn đề và tán thưởng cách nêu vấn đề. 3.Hướng dẫn xây dựng đề cương. 3.1.Câu hỏi gợi mở. - Để giải quyết vấn đề, anh (chị) sẽ hình thành những phần việc nào? - Trong những phần việc đó, anh(chị) dự định sẽ triển khai những nội dung nào? Nội dung nào là trọng tâm cần nhấn mạnh? - Hãy lập một dàn ý chi tiết để thể hiện những điều mình đã xác định. 3.2. Dàn ý đề xuất 3.2.1. Giới thiệu vấn đề và đoạn trích 3.2.2. Triển khai - Cắt nghĩa đoạn trích để xác định vấn đề + Cần: không thể không làm, không thể không có vì nếu không làm, không có thì sẽ có hại. 14 + Bay đối với con chim, chảy đối với sông, ra khơi đối với con tàu và lao động trong sáng tạo đối với con người đều là để khẳng định sự tồn tại và ý nghĩa tồn tại của nó. +Như vậy, tác giả đã đề cao lao động, sáng tạo như một cơ sở tạo nên giá trị và ý nghĩa tồn tại của con người. - Lí giải cơ sở của quan niệm +Vai trò của lao động: là nhân tố kích thích chủ yếu để thúc đẩy quá trình phát triển của con người, làm cho con người trở thành người. +Vai trò của sự sáng tạo: ”sáng tạo” là tạo ra những giá trị mới cả về vật chất và tinh thần, là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới không phụ thuộc, gò bó vào cái cũ. Để có thể sáng tạo, con người cần trí tuệ, cần năng động và một môi trường tự do để khám phá, thể nghiệm và rút ra kinh nghiệm, củng cố năng lực và cống hiến những đóng góp thực sự có giá trị. +Lao động trong sáng tạo không chỉ giúp con người tạo ra những giá trị mới cho mình và cho xã hội mà còn kích thích tạo sự phát triển của óc tư duy, khả năng phán đoán, hoàn thiện và phát triển kĩ năng lao động cho con người. -Đánh giá: +Về nội dung quan niệm:rất thiết thực và có liên quan tới ý nghĩa tồn tại của cá nhân trong xã hội. +Về cách trình bày vấn đề: hấp dẫn bởi cách nói hình ảnh, bởi những tương quan thi vị của những sự vật, hiện tượng trong đời sống. - Đề xuất ý kiến +Trách nhiệm của xã hội: cần tạo ra một môi trường tự do cho hoạt động lao động sáng tạo, cần tạo điều kiện về vị trí cũng như những đãi ngộ xứng đáng với những người có năng lực để kích thích sự phát triển năng lực của họ. +Ý thức cần có ở con người: không nên trông chờ,ỷ lại vào sự hỗ trợ, giúp đỡ từ bên ngoài mà trước hết cần năng động tự tìm kiếm cơ hội và tận dụng tối đa những điều kiện sẵn có để tự phát triển và khẳng định mình. 3.2.3. Kết luận 15 - Lao động trong sáng tạo là nguyện vọng chính đáng của ngững con người có ý thức về tồn tại và khát khao khẳng định giá trị bản thân.Nguyện vọng ấy cần được trân trọng và tạo điều kiện để trở thành hiện thực.Đây là việc cần thiết trong chiến lược phát triển con người trong mỗi quốc gia. - Thế hệ trẻ nên có những sự chuẩn bị cần thiết và tích cực để đáp ứng những yêu cầu của lao động trong sáng tạo. 4. Hướng dẫn tổ chức điểm nhìn . 4.1. Câu hỏi gợi mở. - Trong hệ thống ý đã xác định, ý nào cần thể hiện như những đánh giá khách quan, ý nào cần trình bày như những tư tưởng, quan niệm, cảm nhận chủ quan ? - Cách phối hợp điểm nhìn khách quan, với điểm nhìn chủ quan như thế nào là hợp lí 4.2. Hướng dẫn trả lời. - Các ý ở phần cắt nghĩa xem xét vấn đề từ bên ngoài một cách khách quan. - Các ý ở phần lí giải có thể xem xét cở sở khách quan và suy tưởng, chủ quan. - Trong phần đánh giá, ý trên là đánh giá khách quan song ý dưới có thể nghiêng về cảm nhận chủ quan. - Khi đề xuất ý kiến cần nhìn nhận khách quan,chỉ có suy nghĩ cá nhân mới trình bày theo ý chủ quan. 5. Hướng dẫn sử dụng lời văn. 5.1. Phần cắt nghĩa: để đảm bảo tính khoa học, khách quan, phần này chỉ nên trình bày ngắn gọn. Điều cốt yếu thứ nhất là đảm bảo sự rõ ràng, chính xác để nêu bật được vấn đề. 5.2. Phần lí giải: để tạo sự kết hợp hợp lí giữa màu sắc chủ quan và tính chất khách quan tạo tính thuyết phục và sức biểu cảm cho phần lí giải, cần xem xét cụ thể tính chất của ý cần trình bày. Tuy nhiên, cần tránh lối thuyết minh khô khan, nêu lí lẽ một cách quá lí trí. 5.3. Phần đánh giá: Vì trong phần này bao gồm cả đánh giá về nội dung và hình thức thể hiện của ý kiến nên người viết có thể kết hợp nhận xét khách quan về ý nghĩa tư tưởng và nêu cảm nhận về những hình ảnh được sử dụng. 16 5.4. Phần đề xuất ý kiến: cần thể hiện nhiệt tình, tâm huyết trong lời lẽ, giọng văn để tăng sức truyết phục cho ý kiến của mình. 6. Bài văn hoàn chỉnh. Nhà văn Nam Cao từng trăn trở với kiếp “Sống mòn”, với kiếp “Đời thừa” của người tri thức nghèo của năm trước cách mạng vì ông cho rằng con người cần được sống có ý nghĩa – tức là cần được phát huy tận độ những năng lực và phẩm chất để khẳng định giá trị của tồn tại bản thân. Cùng một ý tưởng này, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều lại có “Những câu hỏi không lãng mạn”. Không phải ngẫu nhiên khi từ “cần” được lặp đi lặp lại trong những câu trả lời. Hiểu một cách đơn giản thì “cần” nghĩa là không thể không làm, không thể không có vì nếu không làm, không có thì sẽ có hại. Cái “cần” ở đây là “bay” đối với con chim, “chảy” đối với dòng sông, “ra khơi” đối với con tàu và “ lao động trong sáng tạo” đối với con người. Đó là những hoạt động thuộc về bản năng và khả năng để mỗi cá thể khẳng định sự tồn tại và ý nghĩa tồn tại của nó. Như vậy, tác giả đã đề cao lao động sáng tạo như một cơ sở tạo nên giá trị và ý nghĩa tồn tại của mình. Nhìn lại lịch sử tiến hoá của xã hội loài người, ta sẽ không phải phân vân vì sao Nguyễn Quang Thiều lại đề cao lao động sáng tạo đến như vậy. Bàn tay săn bắn, hái lượm sẽ dần trở nên khéo léo, sự di chuyển bằng đôi chân trên mặt đất tạo cho con người dáng đứng thẳng...Không khó để nhận thấy vai trò của lao động đối với cuộc sống con người: là nhân tố kích thích chủ yếu để thúc đẩy quá trình phát triển của con người, làm cho con người trở thành người.Bởi một lẽ đơn giản là khi sáng tạo, mọi khả năng, phẩm chất của con người có dịp được thăng hoa. Khi ấy, cái mới sẽ được hình thành thay thế cho cái cũ. Hãy thử hình dung nếu những người thợ may chỉ cắt may một kiểu quần áo thì cả cộng đồng sẽ mặc đồng phục ; nếu các nhạc sĩ chỉ tạo ra một giai điệu duy nhất cho mọi bài hát, ta sẽ phải nghe một điệp khúc tẻ nhạt; nếu người giáo viên chỉ dùng một phương pháp duy nhất cho mọi bài học, mọi đối tượng học, may lắm chỉ vài học sinh tiếp tục ở lại nghe, số còn laị nếu không la ó phản đối thì cũng sẽ lẳng lặng bỏ về...Còn khi có tinh thần sáng tạo, người lao động dù làm việc trong lĩnh vực sản xuất vật chất hay lao động tinh thần cũng sẽ tạo ra được dấu 17 ấn riêng cho giá trị lao động và thu hút sự quan tâm của cả cộng đồng. Để sáng tạo, con người cần nhận thức đúng và đánh giá đúng về năng lực, sở trường và được đứng ở vị trí thích hợp. Lao động trong sáng tạo không chỉ giúp con người tạo ra những giá trị mới cho mình và cho xã hội mà còn kích thích tạo sự phát triển của óc tư duy, khả năng phán đoán, hoàn thiện và phát triển kĩ năng lao động cho con người. Thiếu tinh thần và ý thức sáng tạo, ta sẽ trở nên trì trệ, cùn mòn. Tựa như cái lưỡi cày nằm một chỗ sẽ han rỉ dần và không còn khả năng lật những đường cày trên thửa ruộng. Tựa như cây cổ cầm trong tay kẻ vụng về chỉ vang lên những tiếng bật bông... Sáng tạo thuộc về khả năng của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, để khả năng ấy có thể nảy nở tốt nhất lại rất cần một vị trí thích hợp, một sự đãi ngộ xứng đáng và nhất là một môi trường có sự tự do và sự tôn trọng tối đa. Về điểm này, tầm nhìn và tấm lòng của người lãnh đạo là vấn đề rất đáng được quan tâm. Trương Phi hữu dũng vô mưu, Quan Công trượng nghĩa với cả đối thủ của mình, Gia Cát Khổng Minh kì tài mưu lược có thể cùng hội tụ dưới một ngọn cờ chính là bởi có cái tâm và cái tầm của Lưu Bị. Hãy thử cho Trương Phi bày mưu tính kế, Gia Cát Khổng Minh vác bát xà mâu, cấm đoán Quan Công lối sống trượng nghĩa của mình...Khi ấy, có lẽ cả đất trời sẽ đảo lộn và lòng người sẽ rối loạn, chẳng sự nghiệp nào có thể hoàn thành. Ngược lại, để tự khẳng định bản thân mình, mỗi cá nhân cũng không nên trông chờ vào sự ủng hộ, giúp đỡ từ phía bên ngoài. Ý thức sáng tạo phải đồng hành với ý thức tìm đường, tìm cơ hội để tự khẳng định. Phải như con sóng tự tìm đường ra biển lớn. Bởi vì ở phía xa kia, chân trời vẫn luôn rộng mở cho tất cả ! Bạn là một người trẻ, bạn không thể dừng lại để làm một hòn sỏi ở ven đường... 18 C. Kết luận I. Kết quả đạt được Trong quá trình hướng dẫn học sinh nâng cao chất văn cho bài văn nghị luận về vấn đề xã hội qua các giờ dạy học tự chọn như trên đã trình bày, tôi nhận thấy chất lượng bài viết của các em được nâng lên rõ rệt. Cụ thể trong các kì thi tốt nghiệp PTTH điểm môn Văn được nâng lên do bài nghị luận xã hội. Nhiều học sinh đậu Đại học, Cao đẳng với số điểm cao như em Lô Thị Kiên, em Lô Thị Đào lớp 12 A6.Em Đào Thị Dịu lớp 12A4 đạt học sinh giỏi cấp tỉnh môn Văn.Trong đó cá em đều tâm sự đã làm rất tốt dạng đề nghị luân xã hội và hầu như không gặp vướng mắc nào. II.Những kiến nghị, đề xuất Trong quá trình thực hiện đề tài cũng như thực tế giảng dạy ở trường PTTH Như Thanh 2 tôi thấy không thể ép buộc học sinh viết ngay được bài nghị luận xã hội có chất văn mà cần phải có thời gian rèn luyện. Vì vậy tôi xin có một số đề xuất như sau: - Đối với giáo viên : Cần lên kế hoạch bồi dưỡng cụ thể các dạng đề nghị luận xã hội trong những tiết học tự chọn và cần thiết cho triển khai cho học sinh làm quen ngay từ năm học lớp 10. Ra đề cho học sinh viết thành thạo ở cả ba dạng đề trên. - Đối với học sinh: Cần chú ý rèn luyện kĩ năng hành văn. Bởi vì làm một đề văn không đơn thuần chỉ là trả lời đúng câu hỏi mà còn phải trả lời hay. Phải tập viết nhiều theo tư duy khoa học kết hợp với mạch cảm xúc của bản thân. III. Hướng phát triển của đề tài -Với học sinh học theo khối C : đề tài này là hướng đi tốt cho các em học tập giúp nâng cao kĩ năng hành văn cho học sinh tạo nên những bài văn ấn tượng, có chất văn đảm bảo “lời hay ý đẹp”. Bởi vì nó không chỉ đúng về tư tưởng, tư duy khoa học mà còn để lại dư âm tốt trong lòng người đọc. -Với học sinh học Văn để vượt qua các kì thi khảo sát chất lượng cơ bản thông thường : đề tài này như là một công thức dễ học, dễ nhớ, dễ ứng dụng mà hiệu quả lại 19 rất cao.Điều này sẽ giúp các em mất ít thời gian ôn tập mà vẫn dễ dàng vượt qua các kì thi ở mức đạt yêu cầu. Tuy nhiên, kinh nghiệm này còn phiến diện cả về nội dung và hình thức. Vì vậy cần có sự trao đổi của đồng nghiệp giúp làm sáng tỏ lí luận và thực tiễn để chúng ta có thể vận dụng phương pháp tốt nhất trong giảng dạy trước mắt và lâu dài mảng nghị luận xã hội trong bộ môn Ngữ văn ở nhà trường THPT . Rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp. Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép của người khác. Xác nhận của thủ trưởng cơ quan Thanh Hoá, ngày 8 tháng 4 năm 2013 Người viết Quách Thị Thảo 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan