Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Lớp 1 Skkn một vài biện pháp dạy tăng cường tiếng việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiể...

Tài liệu Skkn một vài biện pháp dạy tăng cường tiếng việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số ở trường tiểu học võ thị sáu

.PDF
25
213
109

Mô tả:

Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu I. Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài Mục tiêu hàng đầu của giáo dục chính là đào tạo con người phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ và các kỹ năng cơ bản để các em tiếp tục học lên trung học cơ sở, các cấp học khác và áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống lao động nhằm đáp ứng với thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực tế hiện nay ngành giáo dục đào tạo luôn được nhà nước và cả xã hội quan tâm đưa lên quốc sách hàng đầu. Tiểu học là bậc học nền tảng, việc dạy chữ có tầm quan trọng vì nó đồng nghĩa với việc chúng ta đã trao cho các em chìa khóa để mở ra những cánh cửa bước vào tương lai. Tiếng Việt là tiếng phổ thông đóng vai trò quan trọng góp phần hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt để học và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của trẻ. Nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt là công cụ để học học tập các môn học. Có nghe được mới nói được, có đọc được mới viết được. Chính vì thế nên Tiếng Việt là môn học đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình học tập và trong cuộc sống của con người. Thực tế cho thấy học sinh dân tộc thiểu số gặp không ít khó khăn vì hầu hết các em luôn có thói quen nói tiếng mẹ đẻ và phát triển khả năng tư duy của các em cũng bằng chính ngôn ngữ đó; điều kiện sử dụng giao tiếp bằng tiếng Việt trong cuộc sống hàng ngày còn hạn chế; bản thân các em và cha mẹ các em chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc nắm vững tiếng Việt. Với một trường có trên 97% học sinh dân tộc thiểu số, tôi nhận thấy rằng khả năng nhận diện và ghi nhớ con chữ chậm dẫn đến khả năng đọc, viết chậm. Việc đọc liền mạch từ, câu gặp nhiều khó khăn, chưa có khả năng đọc biểu cảm. Hầu hết các em còn hạn chế về ngôn ngữ nói, như nói chưa chuẩn, nói chưa đúng mà chủ yếu là nói câu chưa đầy đủ, nói thừa, nói thiếu dấu thanh và lẫn lộn giữa dấu thanh nặng với dấu thanh sắc, … Rất ít em biết tiếp nhận thông tin, tư duy để xử lý, tái tạo nội dung thông tin. Trong công cuộc đổi mới mạnh mẽ về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, việc dạy tăng cường tiếng Việt đã được vận dụng linh hoạt trong các tiết học nhằm nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng Việt và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tăng cường tiếng Việt giúp các em học sinh có cơ hội được thực hành nghe, đọc, nói, viết thành thạo, mạnh dạn tự tin trong giao tiếp. Tuy nhiên, trong thực tế việc dạy tăng cường tiếng Việt vẫn chưa được sử dụng đúng mực và chưa phát huy hết hiệu quả. Vì vậy các em còn chưa hứng thú với môn học. Đổi mới phương pháp dạy học mà đặc biệt là tìm ra các giải pháp để tăng cường tiếng Việt giúp giáo viên và học sinh giảm bớt đi những khó khăn, rào cản về ngôn ngữ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Khi các em có được vốn tiếng Việt đủ để nghe, hiểu thì việc giao tiếp hàng ngày đặc biệt là quá trình tiếp thu bài của các em trở nên dễ dàng hơn. Sau nhiều năm nghiên cứu và áp dụng một số giải pháp cụ thể về tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 1 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu tôi thấy chất lượng giáo dục ở trường đã được dần dần nâng lên. Với tầm quan trọng và cần thiết của việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số thiểu số nói chung và học sinh dân tộc trường Tiểu học Võ Thị Sáu nói riêng chính là lí do tôi chọn đề tài “Một vài biện pháp dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số”. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu: Thực hiện đề tài này với mục đích nâng cao kỹ năng đọc, viết, hiểu nghĩa của tiếng Việt, kỹ năng giao tiếp và tìm ra biện pháp khắc phục những yếu kém mà học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số thường mắc phải. Thức đẩy tinh thần tự học và tìm kiếm tri thức; mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Qua đó góp phần nâng cao năng lực chuyên môn cho bản thân, nâng cao chất lượng giáo dục, kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu giáo dục ngày một đi lên. Nhiệm vụ của đề tài: Thống kê, tổng hợp những thuận lợi, khó khăn về học tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Tìm ra biện pháp để khắc phục những nhược điểm và đề xuất một số giải pháp tăng cường, nâng cao tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số trong quá trình giảng dạy và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. 3. Đối tượng nghiên cứu Một vài biện pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. 4. Giới hạn của đề tài Học sinh khối 1, Trường Tiểu học Võ Thị Sáu, xã Ea Bông, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk năm học 2016 – 2017, năm học 2017 – 2018. 5. Phương pháp nghiên cứu a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu b. Phương pháp ngiên cứu thực tế Tổng hợp số liệu về thực trạng tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số ở trường tiểu học Võ Thị Sáu. C. Phương pháp phân tích, so sánh chất lượng, hiệu quả đào tạo trước khi chưa thực hiện giái pháp và sau khi áp dụng những giải pháp. Phỏng vấn giáo viên, học sinh về những thuận lợi, khó khăn, hiệu quả đạt được, những hạn chế khi thực hiện những giải pháp hỗ trợ, tăng cường tiếng Việt. II. Phần nội dung 1. Cơ sở lí luận Tiếng Việt có vị trí hàng đầu ở trường phổ thông, đặc biệt là ở cấp Tiểu học. Tiếng Việt vừa là một môn học độc lập, lại vừa là một thứ công cụ hỗ trợ cho khả năng diễn đạt và tư duy tất cả các môn học khác. Tiếng Việt thể hiện GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 2 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu tính liên quan dạy- học với các môn học khác. Mục tiêu của chương trình “hình thành và phát triển” ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt đó là: Nghe, nói, đọc, viết. Học sinh học Tiếng Việt bằng tư duy trực tiếp, thông qua sự tiếp cận ngôn ngữ tự nhiên từ việc sử dụng ngôn ngữ hàng ngày một cách tự phát đến việc nắm ngôn ngữ một cách hệ thống qua các bài học. Từ đó học sinh có tâm lý tự tin trong học tập. Bằng hiểu biết qua nghe, nói khi học đọc và viết học sinh có thể dễ dàng nhận ra mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết, giữa âm thanh và ngữ nghĩa, ngữ pháp qua đó các em có thể học đọc, học viết dễ dàng. Nghị quyết 40/2002/NQ- QH của quốc Hội khóa IX về đổi mới giáo dục phổ thông đã khẳng định: Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông được đưa vào dạy học thống nhất trong hệ thống quốc dân. Tiếng Việt trong nhà trường tồn tại với hai tư cách: vừa là môn học vừa là công cụ giao tiếp, học tập của học sinh. Thực tế cho thấy vốn tiếng Việt của học sinh còn hạn chế đặc biệt là học sinh lớp Một. Việc nghe, nói, đọc, viết và kĩ năng giao tiếp của các em học sinh dân tộc thiểu số lại càng khó khăn. Một mặt do điều kiện kinh tế, điều kiện học tập, trình độ nhận thức trong đó sự thiếu hụt về vốn sống, vốn ngôn ngữ là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của tình trạng trên. Học tốt môn Tiếng Việt trở thành điều kiện thuận lợi cho việc học các môn học khác. Do đó, ngay từ khi bước vào ngưỡng cửa của lớp Một, việc hình thành nên một tư duy ngôn ngữ cho các em là hết sức cần thiết. Tiếng Việt là tiền đề cho quá trình học tập của các em sau này. Tập nói tiếng Việt là nhiệm vụ đầu tiên với các em. Học sinh dân tộc cần có vốn tiếng Việt trước để học chữ. Bộ giáo dục đã có nhiều văn bản chỉ đạo như công văn 9832/ BGD&ĐT - GDTH ngày 1 tháng 9 năm 2006; công văn 9890/ BGD&ĐT – GDTH ngày 17 tháng 9 năm 2007 về việc hướng dẫn nội dung, phương pháp giáo dục cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn; công văn số 8114/ BGD&ĐT- GDTH V/v nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh dân tộc thiểu số ban hành ngày 15 tháng 9 năm 2009; công văn 5842/BGD&ĐT- VP ngày 01 tháng 09 năm 2011 hướng dẫn điều chính nội dung dạy học. Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức hội nghị "Triển khai các phương án tăng cường tiếng Việt (lớp 1) cho học sinh dân tộc thiểu số ". Tại hội nghị, xuất phát từ những quan điểm, lý luận giáo dục và cách tiếp cận gắn với đặc điểm học sinh dân tộc các vùng miền, năm phương án về chủ đề này đã được trình bày, và trao đổi ý kiến rộng rãi. Đó là: 1) Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo trước tuổi đến trường (Vụ GD Mầm non). 2) Dạy tiếng Việt trên cơ sở tiếng mẹ đẻ trong chương trình song ngữ Ê- đê- Việt (Vụ GD Dân tộc). 3) Nghiên cứu thử nghiệm giáo dục song ngữ dựa trên tiếng mẹ đẻ (Trung tâm Nghiên cứu GD dân tộc). 4) Dạy học tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 1(Nhóm tăng cường năng lực dạy và học- Dự án PEDC). 5) Dạy học lớp 1 cho học sinh dân tộc chưa biết nói tiếng Việt (Trung tâm Công nghệ GD). GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 3 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Trường Tiểu học Võ Thị Sáu là một trường thuộc vùng khó khăn. Toàn trường có 542 học sinh, trong đó có 515 em dân tộc thiểu số chủ yếu là dân tộc Ê – đê chiếm trên 95%. Trình độ dân trí còn thấp, cuộc sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ giáo viên trong tổ chưa đồng đều, số giáo viên người dân tộc thiểu số chiếm 31,1% kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế. Chất lượng giáo dục hàng năm còn thấp, tỉ lệ học sinh thành thạo bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết chưa cao. Năm học 2017 – 2018, khối 1 có 110 em, trong đó học sinh dân tộc thiểu số là 104 em chiếm 94,5%, số em người Kinh cũng gặp không ít khó khăn. Mặc dù hằng năm đã được nghiệm thu lớp Mẫu giáo 5 tuổi, nhưng trong thực tế có một số em đến ngày nghiệm thu mới ra lớp vì vậy vốn tiếng Việt của các em còn nghèo nàn nên việc giao tiếp của các em gặp nhiều khó khăn. Mặt khác qua 3 tháng nghỉ hè các em không có cơ hội giao tiếp bằng tiếng phổ thông. Đây là một trong những khó khăn lớn nhất cho giáo viên dạy lớp Một. Những em này hầu như chưa biết tiếng Việt và chưa biết giao tiếp bằng tiếng Việt. Tỉ lệ học sinh có thể hỏi, trả lời và hiểu được yêu cầu của giáo viên chỉ chiếm tỉ lệ một phần nhỏ. Các em chỉ nghe và hiểu được những câu lệnh đơn giản như “trật tự”, “ra chơi”, “vào lớp”, “ra về”. Khi bước vào lớp Một, kiến thức về tiếng Việt của các em như một trang giấy trắng. Giáo viên rất vất vả trong quá trình truyền thụ kiến thức cho các em vì người giáo viên vừa phải dạy tiếng kết hợp dạy chữ, dạy kỹ năng sống. Qua thực tế giảng dạy, tôi luôn trăn trở tìm nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục như đổi mới phương pháp dạy học, tăng thời lượng môn tiếng Việt theo chương trình 300 tiết lên 500 tiết, tăng cường phụ đạo học sinh còn khó khăn trong học tập, tổ chức các hình thức học tập theo nhóm, đôi bạn cùng tiến, nhiều tiết học kéo dài 60 – 65 phút song chất lượng vẫn chưa được như mong muốn. Có khi một câu hỏi giáo viên đưa ra đến ba lần nhưng các em vẫn không hiểu, không trả lời được. Cũng có khi các em chỉ trả lời trống không, không có đầu câu và cuối câu. Một vài em sau khi lên lớp mới chỉ biết đánh vần, chưa có khả năng đọc thông viết thạo, một số em không thích đi học vì không tiếp thu được bài. Xảy ra tình trạng này không phải là do giáo viên cho học sinh lên lớp khi chưa đủ điều kiện lên lớp mà do các em còn ít vốn tiếng Việt nên các em tiếp thu kiến thức một cách thụ động rất dễ quên. Lại thêm 3 tháng nghỉ hè các em đã quên khá nhiều kiến thức trong đó đặc biệt quan trọng là quên việc đọc, viết là làm toán dẫn đến tình trạng nhiều học sinh ngồi nhầm lớp. Việc tạo thói quen và bồi dưỡng tiếng Việt của các em ở gia đình và cộng đồng cũng gặp khó khăn vì người dân thường sống theo buôn làng, ít giao tiếp với người Kinh, không có điều kiện giao tiếp bằng tiếng phổ thông. Nhiều người trong gia đình không nói được tiếng Việt hoặc ít sử dụng tiếng Việt nên việc sinh hoạt giao tiếp trong gia đình hầu như bằng tiếng mẹ đẻ. Vì vậy, khi trẻ ra lớp thường chưa nói và hiểu được tiếng Việt. GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 4 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu Bên cạnh đó, trình độ dân trí vẫn còn thấp, các gia đình chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của con em. Nhiều em học sinh vì hoàn cảnh khó khăn của gia đình nên thường xuyên phải nghỉ học. Nhiều gia đình không có bàn ghế, không có góc học tập để các em học ở nhà. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a. Mục tiêu của giải pháp Nghiên cứu lựa chọn giải pháp phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiếu số nhằm tăng cường tiếng Việt một cách hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng giáo dục giảm tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ học. Tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp Một, giúp các em tự tin mạnh dạn trong giao tiếp, tiếp thu các môn học có hiệu quả là cơ sở để các em học tốt ở các lớp trên. b. Nội dung và cách thức thực hiện của giải pháp Biện pháp thứ nhất: Phối hợp và đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với tình hình thực tế của lớp học Đổi mới phướng pháp dạy - học và đánh giá đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đây là việc làm thường xuyên, liên tục của người giáo viên nhằm đem đến cho người học sự hứng thú trong học tập và hiệu quả cao nhất. Đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá nhằm giúp học sinh chủ động trong việc học, chống lại thói quen học tập thụ động. Rèn luyện cho học sinh cách học theo nhóm, phát huy tính sáng tạo, năng động, cách trình bày một vấn đề, cách thuyết trình trước đám đông, cách trả lời câu hỏi nhanh và đúng. Loại bỏ dần thói quen thu nhận thông tin một cách thụ động của người học để hoạt động học thực sự là một quá trình kiến tạo. Một tiết học thành công phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố không thể thiếu đó là sự phối hợp linh hoạt các phương pháp dạy học, và đối tượng học sinh. Mỗi phương pháp có một ưu thế riêng không có phương pháp nào là vạn năng. Vì vậy, người giáo viên phải biết vận dụng, lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh vừa truyền đạt kiến thức của bài học đồng thời tăng cường tiếng Việt bằng những phương pháp như sau: Phương pháp 1: Phương pháp quan sát, động viên, khen thưởng học sinh. Trong mỗi tiết dạy, người giáo viên thường quan sát, nắm bắt kịp thời từng đối tượng học sinh. Đối với những em năng khiếu thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn với học sinh khó khăn trong học tập phải nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Em đã có tiến bộ, nếu em đọc không sai dấu thanh sắc thì em đọc hay hơn”. Chỉ bằng những lời động viên, khích lệ nhỏ cũng tạo cho các em có sự hứng thú học tập. Không chỉ động viên khen khen ngợi mà còn giành nhiều thời gian để giúp đỡ các em. Trong giờ ra chơi giáo viên nên trò chuyện, chỉ bảo cho các em những chỗ các em chưa biết. Với phần quà nhỏ như cuốn vở, viên phấn, cây bút... cũng làm cho các em phấn khởi và cố gắng hơn. . Ví dụ: Em H’Sê Na Bkrông lúc đầu em đọc rất yếu lại đọc sai dấu thanh sắc với dấu thanh nặng. Thấy vậy, tôi thường xuyên gọi em đọc bài. Tôi phân GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 5 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu tích lại cấu tạo của tiếng em đọc sai gồm có âm, vần, dấu thanh sau đó hướng dẫn cách phát âm thật kĩ lưỡng. Đối với tiếng có dấu thanh sắc khi phát âm chú ý cao độ tức là phải đọc lên giọng, còn tiếng có thanh nặng cao độ thấp nên đọc xuống giọng. Sau đó phát âm mẫu rồi yêu cầu em phát âm lại. Mặc dù em phát âm chưa chuẩn nhưng vẫn động viên và khen ngợi. Vì thế dần dần em mạnh dạn, tự tin hơn khi tham gia hoạt động học và một thời gian sau em đã phát âm đúng. Phương pháp 2: Phương pháp hỏi đáp Đây là phương pháp mà giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện những cái mới từ đó tự chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động. Ví dụ: Khi dạy bài 8: l – h, sau khi cho học sinh tìm ghép trên bảng gài âm mới, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi hướng các em suy nghĩ trả lời phát hiện cái mới như sau: - Đây là âm gì? - Tiếng lê gồm có mấy âm tạo thành? Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên dùng ngôn ngữ ngắn gọn, dễ nghe, dễ hiểu tránh những câu hỏi dài dòng, câu hỏi có hoặc không. Lời nói của giáo viên khi đưa ra câu hỏi phải nhẹ nhàng, tuyệt đối không la mắng khi học sinh trả lời sai. Phương pháp 3: Phương pháp tổ chức học nhóm Học tập theo nhóm là một hình thức tổ chức dạy học mà trong đó học sinh của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ. Là phương pháp có sự tham gia tích cực của học sinh. Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề khó khăn.. Kết quả làm việc của nhóm được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Phương pháp dạy học theo nhóm được đánh giá là một phương pháp tích cực, hướng vào học sinh, phát huy cao độ khả năng hợp tác, giúp đỡ học tập lẫn nhau. Vì vậy trong mỗi tiết dạy giáo viên thường chia nhóm cho các em học tập đảm bảo nhóm nào cũng có em năng khiếu, em còn khó khăn trong học tập. Qua hoạt động tổ chức học theo nhóm các em được học tập lẫn nhau, từ đó các em sẽ mạnh dạn và tự tin hơn trong giao tiếp. Tuy vậy giáo viên không nên lạm dụng phương pháp dạy học theo nhóm quá nhiều. Ví dụ: Khi dạy bài 17: U, Ư, sau khi cho các em nhận biết âm u và âm ư, tôi tổ chức cho các em tìm tiếng, từ có chứa âm vừa học. Giáo viên chia lớp thành các nhóm, mỗi nhóm có 4 em trong đó một em làm nhóm trưởng. Sau đó giao việc và thời gian cho các em thảo luận tìm ra những tiếng từ có chứa vần vừa học. Trong quá trình thảo luận, các em trao đổi tìm ghép vào bảng gài những tiếng từ theo yêu cầu. Hết thời gian, các em tự phân công nhau báo cáo GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 6 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu kết quả làm việc của nhóm mình. Các bạn khác nghe để bổ sung ý kiến nếu thấy còn thiếu. Qua hình thức tổ chức này giúp các em mạnh dạn, tính thi đua, học hỏi lẫn nhau, được nói một cách tự nhiên dù kết quả thảo luận chưa cao. Khi dạy phần luyện nói bài tập đọc Bàn tay mẹ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 2 trang 56, giáo viên chia nhóm, giao việc, quy định thời gian cho các em thảo luận sau đó tổ chức cho các em thực hành hỏi đáp theo nhóm đôi, một em hỏi một em trả lời. - Ai nấu cơm cho bạn ăn? Mẹ tôi nấu cơm cho tôi ăn. - Ai chăm sóc khi bạn ốm? Mẹ tôi chăm sóc khi tôi ốm. - Ai mua quần áo mới cho bạn? Mẹ tôi mua quần áo mới cho tôi. - Ai vui khi bạn học tốt? Mẹ vui khi tôi học tốt. Khi học sinh thực hành hỏi đáp, giáo viên theo dõi, sửa chữa kịp thời nếu các em nói câu ngược hoặc nói câu thiếu thành phần. Với những kết quả đạt được trong quá trình sử dụng phương pháp thảo luận nhóm đã giúp học sinh trở nên mạnh dạn, tự tin, vốn tiếng Việt của các em đã được cải thiện rất đáng mừng. Các em đã có khả năng tự đặt ra những câu hỏi, biết diễn đạt bằng lời những ý kiến của mình trước tập thế. Việc giao tiếp của các em cũng tốt hơn. Không khí lớp học sôi động, hấp dẫn, các em tiếp thu bài cũng dễ dàng hơn, đặc biệt tạo điều kiện để các em bổ sung vốn tiếng Việt một cách hiệu quả. Phương pháp 4: Phương pháp tổ chức các trò chơi Trò chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi ''Học mà chơi, chơi mà học '' tạo ra sự hứng thú và niềm tin trong học tập, duy trì được khả năng chú ý của các em trong tiết học. Trò chơi học tập không chỉ nhằm giải trí, củng cố, hệ thống hoá kiến thức được học, mở rộng vốn từ, khắc sâu kiến thức, nắm chắc âm vần vừa học, biết vận dụng vào từng trường hợp cụ thể. Trò chơi giúp các em phát triển cả về năng khiếu lẫn tư duy. Tạo môi trường để rèn luyện sự linh hoạt, nhạy bén, có thói quen phản ứng nhanh giúp các em có tính mạnh dạn, tính hợp tác, tính thi đua, tính kỉ luật khi thể hiện mình trước tập thể. Thông qua trò chơi tạo không khí thi đua sôi nổi trong mỗi tiết học, làm cho tiết học trở nên nhẹ nhàng hơn, sinh động và hiệu quả hơn. Vì vậy cần xác định rõ mục đích của mỗi trò chơi, tuân thủ các nguyên tắc và thay đổi các hình thức tổ chức cho học sinh chơi. Có thể tổ chức trò chơi khi thì vào bài, có khi để dẫn dắt các em chiếm lĩnh kiến thức mới cần đạt, có lúc để củng cố, hệ thống hoá kiến thức trong một bài hay trong một chương. Khi tổ chức trò chơi, cần phổ biến tên trò chơi, nội dung chơi, vật dụng phục vụ cho trò chơi, luật chơi và trước khi tổ chức chơi cho các em chơi thử để các em tự tin hơn. Một trong những trò chơi phát huy tính tích cực thể hiện kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp là phương pháp đóng vai. Đóng vai là một trong những phương pháp gây được hứng thú trong học tập cho học sinh học mà chơi, chơi mà học, rèn tính tự tin, tinh thần đoàn kết đặc GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 7 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu biệt đây là điều kiện tốt để tăng cường tiếng Việt cho học sinh song để mang lại hiệu quả, giáo viên và học sinh phải đầu tư nhiều thời gian. Ví dụ khi dạy bài tập đọc Vẽ ngựa, sau khi hướng dẫn đọc và tìm hiểu bài, giáo viên cho các em xác định bài có mấy nhân vật? Đó là nhân vật nào? Cho các em phân vai và đọc theo vai nhân vật mình yêu thích. Đến phần luyện nói, các em hỏi đáp. Một bạn vai người hỏi, một bạn vai người trả lời. Bạn có thích vẽ không? Tôi rất thích vẽ. Bạn thường vẽ vào lúc nào? Ở đâu? Tôi thường vẽ vào giờ học Mĩ thuật. Tôi vẽ trong vở tập vẽ. Đối với hình thức tổ chức dạy học này, các em hào hứng tham gia, mạnh dạn, tự tin trình bày những suy nghĩ, việc làm của bản thân. Tiết học trở nên sôi động và hấp dẫn, hiệu quả của tiết dạỵ khá thành công. Qua đó vốn tiếng Việt của các em cũng được cải thiện đáng kể. Bước đầu các em có kĩ năng đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi có đủ thành phần. Phương pháp 5: Phương pháp kiểm tra, đánh giá Thực hiện thông tư 22/2016/TT – BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TT- BGD ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo. Kiểm tra, đánh giá phải được thực hiện thường xuyên trong mỗi tiết dạy, theo định kì. Kiểm tra, đánh giá là một việc làm nhằm động viên khuyến khích và chỉ ra những thiếu sót của học sinh giúp học sinh có hướng khắc phục. Từ đó giúp giáo viên và học sinh có kế hoạch dạy – học phù hợp. Qua kết quả kiểm tra sẽ đánh giá hiệu quả của việc nghiên cứu phối hợp một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao kĩ năng nghe, nói, đọc, viết và sự tự tin trong giao tiếp từ đó nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số. Biện pháp thứ hai: Bồi dưỡng những học sinh thành thạo tiếng Việt để làm trợ giảng cho giáo viên Những năm trước đây, dự án PEDC đã hỗ trợ kinh phí để hợp đồng mỗi điểm trường một nhân viên là người dân tộc thiểu số để hỗ trợ, giúp đỡ giáo viên trong việc “ phiên dịch ” hướng dẫn, làm quen với giáo viên. Giúp cho học sinh hiểu được những yêu cầu của giáo viên và ngược lại nhằm nâng cao chất lượng trong quá trình giảng dạy. Song việc thực hiện gặp nhiều khó khăn nên hiệu quả mang lại không được như mong muốn. Từ năm 2010, dự án PEDC kết thúc, giáo viên người Kinh không biết tiếng dân tộc nên gặp khó khăn trong quá trình giảng dạy nhất là đối với học sinh lớp Một. Vì vậy nhiều giáo viên vào đầu năm học đã nhờ vài em có vốn tiếng Việt nổi trội trong lớp làm “ phiên dịch” trong quá trình tổ chức lớp học. GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 8 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu Sau đó, giáo viên bồi dưỡng, hướng dẫn những em học sinh này giống như một “ trợ giảng” đắc lực cho giáo viên nhằm thực hiện phương pháp hỏi đáp trong quá trình dạy học. Biện pháp này rất gần gũi và nhẹ nhàng giúp giáo viên và học sinh cảm thấy thoải mái, không còn sự ngăn cách mà không tốn nhiều thời gian. Không nhất thiết trong suốt tiết học chỉ có giáo viên hỏi - học sinh trả lời. Để phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập, giáo viên định hướng cho học sinh kĩ năng hỏi, đáp thông qua người học với người học. Trong mỗi tiết học, giáo viên thường xuyên phát hiện, bồi dưỡng học sinh năng khiếu để các em có thêm kĩ năng đặt câu hỏi. Những em năng khiếu trong lớp “thay mặt” giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi để bạn mình suy nghĩ và trả lời. Cũng có lúc nhiều bạn chưa hiểu nên phải hỏi thêm bằng tiếng dân tộc. Hình thức này nhằm khuyến khích học sinh mạnh dạn và hình thành kỹ năng đặt câu hỏi, trả lời trước đám đông, giúp các em có động lực tìm tòi, học hỏi để tự nâng cao vốn tiếng Việt của mình khi được thầy cô tin tưởng giao nhiệm vụ. Những em học sinh khác cũng có động lực cố gắng có được vốn tiếng Việt để trả lời được những câu hỏi do chính bạn mình đặt ra bằng tiếng Việt. Qua thời gian thực hiện giải pháp này, cho ta thấy kết quả đem lại rất khả quan. Tiết học nhẹ nhàng, các em rất hứng thú vì được tham gia vào các hoạt động học tập chủ động. Nhiều em học sinh được giáo viên bồi dưỡng đã trở thành những học sinh năng khiếu có kỹ năng điều hành hoạt động học trong lớp, có kĩ năng nghe và diễn đạt tiếng Việt rất tốt. Biện pháp thứ ba: Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh thông qua dạy Môn Tiếng Việt Dạy học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số quả là khó khăn bởi đây là ngôn ngữ thứ hai các em. Vào lớp Một, các em bắt đầu tiếp cận với vốn tiếng Việt không chỉ học chữ mà còn học nói. Tồn tại khó sửa nhất đối với các em học sinh dân tộc thiểu số là nói, viết thừa hoặc thiếu dấu thanh, nói câu thừa hoặc nói câu thiếu thành phần, nói ngược. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập, giao tiếp. Nó có thể làm ta hiểu sai nghĩa của từ, của nội dung câu nói. Vì thế việc dạy tăng cường tiếng Việt trong môn Tiếng việt có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng môn học. Do vậy, khi giảng từ, giải nghĩa từ, hướng dẫn phát âm giáo viên hướng dẫn kỹ, phát âm mẫu nhiều lần, sửa sai cụ thể cho các em. Thực hiện việc tăng thời lượng môn tiếng Việt theo chương trình 300 tiết lên 500 tiết cũng là một thuận lợi, học sinh có nhiều thời gian để luyện tập. Trên thực tế việc thực hiện tăng thời lượng môn Tiếng Việt từ 2 tiết thành 3 tiết nên thời gian các em thực hành đọc, nói nhiều hơn. Tạo cơ hội cho các em phát huy tính tự tin, mạnh dạn trong hoạt động học. Vậy để nâng cao có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, mạnh dạn trong giao tiếp, việc đầu tiên giáo viên phải giúp các em biết đọc, biết viết. Có đọc được mới viết được, có nghe được mới nói được. Đọc đúng mới viết đúng. Vì vậy để các em phát âm đúng, khi dạy phát âm giáo viên cần phát âm mẫu vài ba lần một từ nào đó rồi yêu cầu các em quan sát khẩu hình và lắng nghe cô phát âm sau đó yêu cầu học sinh nhắc lại (cá nhân, GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 9 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu đồng thanh). Làm sao em nào cũng được đọc. Giáo viên theo dõi và sửa lỗi phát âm cho học sinh. Với những âm, tiếng khó khi phát âm giáo viên có thể mô tả bằng cách nêu rõ vị trí của cách đặt lưỡi, vị trí của lưỡi với răng, độ mở của môi... Giáo viên lưu ý cần sử dụng các từ ngữ mô tả dễ hiểu kết hợp với việc cho học sinh quan sát giáo viên phát âm. Việc phát âm được tiến hành với các mức độ khác nhau: âm, vần, tiếng chứa vần và dấu thanh, từ, câu, bài. Từ đó học sinh phát âm một cách chính xác hơn. Để thay đổi không khí và thu hút học sinh học tập trong tiết học giáo viên có thể thay đổi hình thức dạy học bằng cách tổ chức các trò chơi học tập. Ví dụ : Dạy bài 94: oang, oăng trang 24 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 2. Để phát huy tính tích cực chủ động trong học tập, cần khuyến khích học sinh năng khiếu đọc mẫu, sau đó gọi nhiều em đọc lại. Nhưng với bài này các em thường nhầm lẫn giữa oang/ oan, oăng/ oăn; từ ngữ ứng dụng có dấu thanh sắc. Nên giáo viên hướng dẫn thật kĩ lưỡng độ mở của môi rồi thực hiện mẫu cho các em quan sát. Nếu thấy học sinh chưa phát âm đúng, giáo viên phát âm cả hai vần oang và oan để các em phân biệt độ mở môi vần oan – oang. Khi đọc thành thạo vần, tiếp tục cho các em đọc tiếng, từ rồi so sánh hai vần vừa học rút ra điểm giống nhau và khác nhau của hai vần. Cuối tiết học, tổ chức cho các em thi nhận biết vần trong tiếng, từ và đọc lại bằng cách thi tìm tiếng, từ có chứa vần vừa học. Sang phần luyện tập đọc đoạn ứng dụng lắng nghe các em thường hay đọc sai tiếng nào thì dừng lại phân tích, hướng dẫn cách đọc ngay như tiếng nắng – năng; thoảng – thoãng; tập - tấp - tấc;....Rõ ràng khi được quan sát thực tế và thực hành đọc nhiều lần các em đọc đúng, rõ ràng hơn. Nghe và nói tiếng Việt có liên quan mật thiết với nhau. Có nghe được mới nói được, nghe đúng mới nói đúng. Do vậy, giáo viên phải nói rõ ràng, nói đúng, đồng thời phải nói chậm rãi để học sinh dễ tiếp thu và hướng dẫn cách phát âm, cách nói để học sinh nói theo. Khả năng nói tiếng Việt của học sinh được xác định là khả năng phát âm chuẩn, khả năng sử dụng tiếng từ đúng và phong phú trong khi nói, khi tham gia giao tiếp với người khác. Khả năng nói tiếng Việt là nền tảng ban đầu quan trọng nhất để hình thành các kỹ năng khác của môn Tiếng Việt. Đặc biệt đối với học sinh dân tộc Ê - đê các em nói thế nào viết thế ấy thì việc tập cho các em nói đúng lại càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thực tế trong giảng dạy cho thấy khả năng nói tiếng Việt của các em là rất yếu, nói lẫn lộn giữa tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt. Đó là do vốn từ về tiếng Việt của các em còn quá ít, các em không diễn đạt được khi nói khi giao tiếp, còn rụt rè trong giao tiếp... Để tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc mỗi giáo viên cần quan tâm đến kỹ năng dạy phát triển lời nói trong các bài học âm vần cũng như kỹ năng nghe, nói trong tiếng Việt. Để thực hiện tốt được nội dung này giáo viên cần dùng tranh ảnh vật thật, điệu bộ, cử chỉ.. và lời nói tiếng Việt để hướng dẫn, gợi ý trao đổi trực tiếp với học sinh trong quá trình lên lớp. Giáo viên cần tổ chức cho học sinh thực hành nhiều lần theo mẫu( hỏi - trả lời) hoặc giao tiếp trực tiếp tại lớp bằng các hình thức như: cá nhân nói trước lớp, nói theo cặp, trò GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 10 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu chơi học tập. Qua các hoạt động đó tạo điều kiện cho học sinh tập nói tiếng Việt một cách hứng thú, tự giác. Ví dụ dạy phần luyện nói bài 13: N, M Giáo viên tổ chức cho các em luyện nói theo hình thức hỏi - trả lời như sau: Lần lượt đưa ra các câu hỏi, nhiệm vụ của các em quan sát bức tranh trang 29 nói lại những hiểu biết của mình. - Chủ đề luyện nói là gì? Thưa cô chủ đề luyện nói hôm nay là ba má, bố mẹ. - Quê em gọi người sinh ra mình là gì ? Quê em gọi người sinh ra em là bố mẹ, ma mí, ba má. Mỗi địa phương có cách gọi khác nhau. Giáo viên chú ý giảng cho học sinh hiểu rõ cách gọi của từng địa phương cụ thể: Có nơi gọi là bố mẹ, có nơi gọi là ba má. Còn đối với các em đồng bào thường gọi là ma, mí. Tất các các cách gọi trên đều chỉ người sinh ra chúng ta. - Nhà em có mấy anh em, em là con thứ mấy? Có nhiều câu trả lời khác nhau Nhà em có 2 anh em, em và em của em. Nhà em có 3 anh em: chị em, em và em của em. Nhà em có 2 chị em: em và em của em. - Em thường làm gì để bố mẹ luôn vui lòng? Để bố mẹ vui lòng em phải ngoan ngoãn, vâng lời bố mẹ, chăm học, giúp mẹ những việc vừa sức mình, không nghịch, không đánh nhau,... Căn cứ vào khả năng nói của học sinh giáo viên sửa chữa, uốn nắn kịp thời cách nói, nói phải đủ câu, không nói câu cụt thiếu thành phần, không nói câu ngược. Đồng thời giáo dục các em biết yêu quý bố mẹ - người sinh thành ra mình, biết tuyên truyền với mọi người cần thực hiện kế hoạch hóa gia đình tức là không nên sinh nhiều con. Có như vậy mới nuôi con khỏe dạy con ngoan. Cũng có thể tổ chức cho các em luyện nói theo cặp một em hỏi, một em trả lời. Như vậy sẽ tạo tính mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp cho các em. Trong giờ dạy, giáo viên chú ý tạo điều kiện cho tất cả các em đều được tham gia trả lời, giao tiếp tuỳ thuộc vào khả năng của từng đối tượng. Và dành nhiều thời gian tập và hướng dẫn thật kĩ nên hiệu quả nâng cao. Mặt khác, việc tập nói tiếng Việt cho học sinh phải được thực hiện dưới nhiều hình thức và phương pháp dạy học khác nhau như: dạy trong tiết dạy tăng cường tập nói tiếng Việt, thông qua trò chơi, nói chuyện.....với các phương pháp trực quan, phương pháp thực hành luyện tập theo mẫu, phương pháp giao tiếp, phương pháp đàm thoại. Việc phối hợp hệ thống các phương pháp dạy tập nói tiếng Việt giúp các em dễ hiểu dễ nhớ về nghĩa của từ thông qua các hình ảnh trực quan, nói đúng cấu trúc câu theo mẫu, hạn chế cách nói ngược theo tiếng địa phương. Tập cho học sinh khả năng diễn đạt theo tình huống, tự tin trong học tập, giao tiếp với GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 11 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu bạn bè với thầy cô giáo bằng tiếng Việt. Tuy vậy, cần phải có sự linh hoạt sáng tạo, không rập khuôn máy móc, mà phải tuỳ theo từng mức độ của đối tượng để lựa chọn nội dung và phương pháp cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả theo các việc như lựa chọn tiếng, từ để tập nói cho phù hợp. Luyện nói theo câu hỏi, câu trả lời có chứa tiếng, từ mới cung cấp cho học sinh. Tạo tình huống cho học sinh đối thoại được giao tiếp trong đó chú ý tạo môi trường giao tiếp học sinh với học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Bên cạnh đó việc sửa lỗi phát âm cho học sinh không kém phần quan trọng. Học sinh phát âm chưa chuẩn thường do nguyên nhân sinh lý, do những khiếm khuyết nào đó trong bộ máy phát âm. Do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ nên các em học sinh dân tộc thiểu số thường mắc phải đó là phát âm không chuẩn ở dấu thanh, tiếng có dấu thanh thì phát âm không có dấu thanh, tiếng không dấu thanh lại phát âm có dấu thanh, tiếng có thanh nặng thành tiếng có thanh sắc. Bên cạnh đó do cách phát âm của một bộ phận nhỏ giáo viên phát âm chưa chuẩn vẫn còn mang bản sắc của địa phương, phát âm còn lẫn ở một số phụ âm: l/n; ch/tr; s/x; chưa phát âm rung r/s. Chính vì vậy để sửa chữa được lỗi phát âm cho học sinh giáo viên cần phải có ý thức rèn luyện cho mình cách phát âm chuẩn vì có phát âm chuẩn thì giáo viên mới có thể nhận ra được lỗi phát âm sai của học sinh. Giáo viên chỉ ra chỗ sai trong phát âm của học sinh có thể so sánh với phát âm đúng. Giáo viên phát âm mẫu thật chuẩn xác, chậm, rõ ràng để học sinh theo dõi. Phát âm chuẩn không để tiếng địa phương ảnh hưởng tới phát âm mẫu của mình. Hướng dẫn học sinh phát âm. Cho học sinh phát âm nhiều lần. Để thay đổi hình thức học tập giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi học tập để rèn cách phát âm cho các em. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh đọc bài Bàn tay mẹ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 2, trang 55. Giáo viên yêu cầu học sinh lắng nghe bạn đọc, nêu lỗi bạn mắc phải khi đọc. Cụ thể các em thường đọc sai các từ yêu nhất - yếu nhât, nấu cơm – nâu cớm, rám nắng – ram nặng, tã lót - tả lọt. Lỗi sai chủ yếu là tiếng có dấu thanh đọc không có dấu thanh, tiếng không dấu thanh đọc có dấu thanh, tiếng có thanh huyền thành tiếng có dấu thanh sắc, tiếng có thanh nặng thành tiếng có thanh sắc. Lúc này giáo viên gợi mở hướng dẫn các em phân tích lại cấu tạo từ, tiếng, hướng dẫn cách mở môi, cao độ của từng dấu thanh rồi phát âm mẫu hoặc cho học sinh năng khiếu phát âm sau đó yêu cầu học sinh phát âm lại. Qua hoạt động này học sinh vừa được luyện phát âm vừa được mở rộng thêm vốn từ qua các từ ngữ mà các bạn tìm và giới thiệu trong nhóm vừa chủ động tự tin, mạnh dạn. Việc sửa lỗi phát âm không chỉ thực hiện trong giờ Tiếng Việt mà còn ở tất cả các môn học khác. Đối với những học sinh thường xuyên phát âm sai giáo viên quan tâm và sửa chữa kịp thời. Việc luyện tập thường xuyên sẽ tạo kỹ năng bền vững cho học sinh. Mặt khác giáo viên thường xuyên khuyến khích học sinh tự sửa chữa lỗi cho nhau bằng hoạt động thi đua như đôi bạn cùng tiến... ( thực hiện thông tư 22/2016/TT – BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TT- BGD ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 12 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu Biện pháp thứ tư: Tăng cường Tiếng Việt trong các môn học khác Tiếng Việt là tiếng phổ thông nên tất cả mọi người đến trường đều phải học. Đây là ngôn ngữ bắt buộc trong giảng dạy nên để cung cấp kiến thức các môn học khác tất yếu cần dùng Tiếng Việt. Vậy tăng cường tiếng Việt trong các môn học khác như thế nào có hiệu quả để các em nắm được các thuật ngữ đặc trưng của bộ môn, các câu lệnh, giáo viên cần chú ý: Lời giới thiệu hay mô tả, hướng dẫn cần diễn giải chậm rãi, nhấn giọng vào các từ khó, từ ngữ chính, vừa diễn giải vừa sử dụng các động tác, tranh mih họa, vật thật để các em có thể hiểu được lời nói của thầy cô. Gặp các từ trìu tượng, khó hiểu thì phải vận dụng phương pháp giải nghĩa từ trong Tiếng Việt. Dạy tăng cường Tiếng Việt trong môn Tự nhiên – Xã hội Khi tìm hiểu nội dung một bài học đòi hỏi phải có sự tương tác giữa người dạy và người học, giữa người học với người học. Từ đó sẽ chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động. sự tương tác đó chính là lời đối thoại, hỏi đáp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh. Trong các tình huống dạy học trong môn Tự nhiên – Xã hội, giáo viên cần hướng dẫn học sinh vận dụng các từ ngữ, mẫu câu đã học và hội thoại, hỏi – đáp hoặc trình bày những hiểu biết, suy nghĩ của mình về vấn đề đang tìm hiểu. Giáo viên chủ động nêu vấn đề bằng cách đặt câu hỏi để học sinh thảo luận, trao đổi và trình bày hiểu biết của mình bằng lời. Luyện nói qua trao đổi, thảo luận nhóm. Giáo viên nêu nhiệm vụ cho từng nhóm, gợi ý các nhóm nêu vấn đề, thắc mắc và thảo luận giải quyết. Luyện nói trong trò chơi học tập. Khi tổ chức các trò chơi học tập giáo viên cần thiết kế trò chơi phù hợp với khả năng, trình độ tiếng Việt và đối tượng học sinh của lớp mình, động viên, khuyến khích mọi học sinh cùng tham gia. Ví dụ: Dạy bài Gia đình – sách giáo khoa Tự nhiên – Xã hội lớp 1 trang .. Chia nhóm và giao cho các nhóm quan sát bức tranh thứ nhất, nói cho nhau nghe về nội dung của bức tranh theo hệ thống câu hỏi như sau: Bức tranh vẽ gì? Gia đình bạn Lan có mấy người? Gồm những ai ? Mọi người trong gia đình Lan đang làm gì? Sau thời gian thảo luận, từng nhóm báo cáo kết quả nhóm mình thảo luận theo mẫu câu mà giáo viên đã yêu cầu như: Bức tranh vẽ gia đình bạn Lan. Gia đình bạn Lan có 3 người: Bố, mẹ và Lan. Gia đình Lan đang đi dạo chơi. Nếu em nào nói chưa đủ câu hoặc nói câu ngược, giáo viên uốn nắn kịp thời và cho nói lại ngay. Sau khi tìm hiểu nội dung các bức tranh rút ra nội dung cần ghi nhớ, tiếp tục cho các em giới thiệu cho nhau nghe về gia đình mình theo cặp đôi. Gia đình bạn có mấy người? Gia đình tôi có 5 người đó là ông nội, bố, mẹ, anh tôi và tôi. GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 13 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu Ông nội bạn tên là gì? Làm ở đâu? Ông nội tôi tên là Y Hiêu Adrơng, ông làm việc ở ủy ban nhân dân xã Ea Bông. Bố bạn tên gì? Bố bạn làm nghề gì? Bố tôi tên là Y Đan Bkrông, bố làm giáo viên. Thế còn mẹ bạn? Mẹ tôi tên là H’ My Lan Hmõk, mẹ tôi làm nông. Anh bạn thì sao? Anh tôi tên là Y Yô Ên Hmõk, học sinh lớp 8 trường Trung học cơ sở Tô Hiệu. Còn tôi tên là H’ Roen Hmõk đang học lớp 1A trường Tiểu học Võ Thị Sáu. Vì thông thường các em chỉ nói nửa vời phần đầu câu hoặc phần cuối câu nên giáo viên chú ý sửa chữa cách nói cho các em ngay. Có như vậy mới tạo thói quen khi giao tiếp cho các em. Dạy tăng cường tiếng Việt trong môn Toán Khi dạy tăng cường tiếng Việt trong môn Toán phải rèn khả năng nghe nhìn, nhận biết. Để giúp học sinh nghe, hiểu, giáo viêni dùng mẫu câu đơn giản, dễ hiểu thông qua việc hướng dẫn bằng tiếng Việt có thể kết hợp với tiếng mẹ đẻ( đối với những em chưa biết tiếng Việt). Việc đầu tiên phải hướng dẫn các em quan sát bằng đồ dùng trực quan kết hợp mô tả bằng động tác, hình ảnh. Trong quá trình quan sát hướng dẫn các em tự phát hiện và giải quyết vấn đề. Sau đó rèn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết ngôn ngữ Toán bằng Tiếng Việt. Tạo điều kiện cho học sinh nói thành tiếng những điều nghe thấy, nhìn thấy. Gợi ý cho các em nêu thắc mắc hoặc phát hiện vấn đề bằng tiếng Việt, giúp học sinh nói được tên bài học, dùng lời trao đổi với bạn bè và giáo viên. Trong tiết Toán cần tổ chức cho học sinh thực hành như: Đọc thành tiếng các số, quan hệ số, thao tác đếm, phép tính, dãy tính, bài toán có lời văn. Đọc thầm lệnh, câu hỏi, bài toán, đếm, tính nhẩm, thao tác tính, bảng cộng trừ. Đọc hiểu lệnh, câu hỏi, phép tính, câu trong toán có lời văn, thứ tự số, các kí hiệu. Viết số và biểu thức toán, phép tính, đơn vị; viết phép tính hàng ngang, hàng dọc, tập viết câu trong giải toán có lời văn; lời giải, phép tính, đáp số. Đặc biệt chú ý hướng dẫn chọn từ, câu để trình bày. Gợi ý các từ, câu mẫu để học sinh áp dụng trong quá trình thực hành. Yêu cầu các em trả lời miệng trước khi viết câu trả lời trong một số bài tập. Khuyến khích học sinh tự kiểm tra lẫn nhau và đánh giá trong nhóm tạo cơ hội để học sinh trao đổi cách làm bài, cuối cùng giáo viên đánh giá chung. Qua đánh giá giáo viên nắm được mức độ kiến thức, kỹ năng đạt được sau mỗi giờ học của các em từ đó điều chỉnh phương pháp dạy học phù hợp để đảm bảo mỗi học sinh đều đạt được chuẩn kiến thức kỹ năng. Môn toán cần xác định thuật ngữ toán học, mẫu câu, ký hiệu toán học để cung cấp cho học sinh như số; chữ số; hàng:... Ví dụ : Đối với các bài học các số 1;2;3, mục tiêu của bài học các em phải hiểu được nghĩa các từ một - số một; hai - số hai; ba - số ba. Thực hiện được các GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 14 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu lệnh Đọc, viết các số 1;2;3 khi thực hiện lệnh này tôi gắn các mô hình lên bảng yêu cầu các em trả lời câu hỏi và viết số thích hợp vào ô trống dưới hình. Trên bảng có mấy bông hoa? Em thưa cô trên bảng có ba bông hoa. Học sinh lên bảng viết số 3 vào ô trống phía dưới mô hình 3 bông hoa. Khi dạy phép cộng, trừ giáo viên hướng dẫn cách đặt tính và thứ tự thực hiện, cách thực hiện ở một ví dụ cụ thể rồi cho nhiều em nêu lại cách thực hiện của phép tính. Trong khi bạn nêu lại các em trong lớp nhìn, nghe, đọc nhẩm theo bạn qua đó không chỉ khắc sâu kiến thức bài học mà còn rèn cho các em kỹ năng đọc thầm, nghe tiếng Việt qua đó các em sẽ nắm chắc cách thực hiện và vận dụng vào để giải các bài tập thực hành. * Dạy tăng cường Tiếng Việt trong môn Đạo đức Rèn luyện kỹ năng nói Tiếng Việt thông qua các nội dung dạy học như: Tự giới thiệu về bản thân và gia đình, trường, lớp; nói lời chào hỏi, tạm biệt; nói lời cảm ơn xin lỗi, nói lời yêu cầu, đề nghị, bày tỏ ý kiến của bản thân. Thông qua phương pháp dạy học và hình thức dạy học như: Thảo luận nhóm nhỏ (nhóm bàn, nhóm đôi), lớp, báo cáo kết quả thảo luận, trình bày giới thiệu sản phẩm sưu tầm của cá nhân, nhóm. Nhận xét bổ sung ý kiến cho câu trả lời của bạn. Đóng vai, kể chuyện tấm gương đạo đức. Rèn kỹ năng đọc tiếng Việt thông qua việc xem tranh, các bài tập về chuẩn mực hành vi đạo đức, các tài liệu liên quan đến bài học. Rèn kỹ năng nghe Tiếng Việt thông qua các hoạt động trao đổi, giao tiếp trong môi trường học tập và sinh hoạt hàng ngày có các chuẩn mực và hành vi đạo đức. Rèn kỹ năng viết Tiếng Việt thông qua các hoạt động ghi chép nội dung học tập, ý kiến cá nhân hoặc ý kiến thảo luận trong nhóm. Biện pháp thứ năm: Tăng cường tiếng Việt trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp Hoạt động ngoài giờ lên lớp là cơ hội cho học sinh được giao tiếp bằng tiếng Việt với nhau, giao tiếp giữa học sinh với học sinh, của nhóm học sinh này với nhóm học sinh khác hoặc tập thể của lớp này với lớp khác dưới sự hướng dẫn tích cực của giáo viên phụ trách và anh Tổng phụ trách Đội. Từ các hoạt động này làm cho học sinh tự tin trong giao tiếp. Đặc biệt với các em học sinh dân tộc thiểu số hoạt động ngoài giờ lên lớp được xem là điều kiện thuận lợi để các em có được những khoảng thời gian hoạt động vui chơi tập thể giúp các em mạnh dạn, tự tin và có cơ hội để bồi dưỡng tiếng Việt một cách hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Do đó, hàng tuần giáo viên chủ nhiệm phối hợp với Tổng phụ trách lập kế hoạch tổ chức các hoạt động phù hợp với chủ điểm của tháng, phù hợp với lớp mình phụ trách và tiến hành vào các tiết sinh hoạt tập thể đầu tuần. Nội dung các hoạt động chủ yếu là các trò chơi dân gian có liên quan đến việc hình thành và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh dân tộc. Trong tất cả các trò chơi đều bắt buộc học sinh sử dụng ngôn ngữ tiếng phổ thông. Mỗi nhóm sao nhi đồng phải có một bạn có kỹ năng tiếng Việt tốt phụ trách. Trong khi học sinh tham gia chơi, giáo viên là người hỗ trợ kịp thời. Có như vậy mới tăng cường tiếng Việt cho các em một cách hiệu quả. GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 15 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu Qua việc sinh hoạt với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, tạo cho các em một sân chơi bổ ích, các em được tham gia rất nhiều trò chơi hấp dẫn nên đã lôi cuốn được các em, giúp các em thêm ham muốn được đến trường và tạo điều kiện để bổ sung thêm vốn tiếng Việt cho mình. Bên cạnh việc tổ chức các trò chơi, sinh hoạt sao nhi đồng ở các tiết sinh hoạt tập thể đầu tuần, giáo viên còn tổ chức cho các em giao lưu tiếng Việt giữa các tổ trong lớp vào tiết sinh hoạt lớp cuối tháng. Chương trình “ Giao lưu tiếng việt của chúng em” là hoạt động với ý nghĩa nhằm khơi dậy ở các em học sinh dân tộc thiểu số lòng ham thích tiếng Việt, yêu quý trân trọng bản sắc văn hóa dân tộc, tạo không khí vui tươi “ Học mà chơi, chơi mà học” góp phần xây dựng các tiêu chí trường học thân thiện, đồng thời phát hiện năng khiếu, khả năng nghe, nói, đọc, viết, khả năng diễn thuyết của học sinh dân tộc thiểu số. Qua hoạt động giao lưu tiếng Việt của chúng em giúp các em học sinh dân tộc thiểu số hình thành kĩ năng sử dụng tiếng Việt và tình yêu tiếng Việt. Dựa vào những yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng đối với lớp học, dựa trên kế hoạch của nhà trường, giáo viên xây dựng kế hoạch bồi dưỡng tập luyện cho các em những kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Qua chương trình này, các em có nhiều cơ hội giao lưu, tiếp xúc và bổ sung vốn tiếng Việt giúp cho các em rất nhiều trong học tập. Biện pháp thứ sáu: Phối hợp giữa ba môi trường giáo dục nhà trường- gia đình- xã hội tạo thói quen sử dụng tiếng phổ thông cho học sinh. Gia đình- xã hội- nhà trường là ba môi trường giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau. Gia đình là trường học đầu tiên và vô cùng qua trọng đối với mỗi đứa trẻ đặc biệt là việc hình thành ngôn ngữ cho trẻ. Thực tế toàn khối có trên 95% học sinh là dân tộc thiểu số. Các em sống với gia đình, ít có điều kiện gặp gỡ, giao lưu với người Kinh nên vốn tiếng Việt của các em khi vào lớp Một rất hạn chế. Trong khi đó những người trong gia đình ít sử dụng tiếng phổ thông. Hiểu được tầm quan trọng của tiếng Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số trước khi vào lớp Một nên khi tham gia sinh hoạt tại địa phương giáo viên thường đề xuất với chi bộ, ban tự quản, các đoàn thể thôn buôn lồng ghép nhắc nhở cha mẹ học sinh trong các cuộc họp, sinh hoạt thôn buôn quan tâm đến việc bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình và tầm quan trọng của tiếng Việt trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Từ đó có thói quen sử dụng tiếng phổ thông trong sinh hoạt hàng ngày. Trong các buổi họp phụ huynh, giáo viên khuyến khích cha mẹ các em nên nói tiếng phổ thông ở nhà để các em có cơ hội tiếp cận. Mặt khác giáo viên xây dựng kế hoạch phối hợp với phụ huynh quan tâm đến việc sử dụng tiếng phổ thông khi ở nhà. Đến nay nhiều gia đình học sinh đã có thói quen dùng tiếng phổ thông trong sinh hoạt gia đình. Bên cạnh đó, trong thời gian nghỉ hè, các em lại được tham gia sân chơi do anh chị đoàn viên tình nguyện tổ chức nên các em được tiếp xúc với tiếng Việt ngay tại gia đình và cộng đồng, vốn tiếng Việt của GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 16 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu các em cũng được nâng lên rất nhiều góp phần thuận lợi cho việc tiếp thu kiến thức ở trường. Biện pháp thứ bảy: Giáo viên tự học nâng cao hiểu biết tiếng dân tộc Tiếng Việt lại là ngôn ngữ thứ hai của các em học sinh dân tộc thiểu số. Trong giảng dạy thực tế cho thấy các em học sinh lớp Một dân tộc thiểu số rất rụt rè, nhút nhát. Nguyên nhân chính là do vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế, thậm chí có em chưa biết và chưa biết hết 29 chữ cái nên không hiểu gì khi nghe thầy cô nói. Nhiều em chưa được giúp đỡ khi học ở nhà vì cha mẹ không biết tiếng Việt. Bên cạnh đó bản thân giáo viên lại chưa có vốn tiếng dân tộc. Bởi vậy cả giáo viên và học sinh đều gặp không ít khó khăn. Nếu giáo viên có hiểu biết tiếng dân tộc góp phần làm bớt đi phần nào khó khăn trong giảng dạy. Biết tiếng dân tộc là điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi trò chuyện với cha mẹ học sinh. Là phương tiện hỗ trợ quan trọng trong giảng dạy. Nó góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục. Có những lúc không chỉ đơn thuần chỉ nói tiếng Việt mà phải kết hợp cả tiếng dân tộc mới mang lại hiệu quả. Chẳng hạn như khi giao tiếp với cha mẹ học sinh; khi giải thích từ ngữ, câu khó; có khi hướng dẫn cho các em phát âm tiếng Việt một cách chính xác. Xác định rõ tầm quan trọng của việc hiểu biết tiếng dân tộc, mỗi giáo viên tự tham gia học tập để nâng cao hiểu biết cho bản thân. Làm thế nào để có hiểu biết về tiếng dân tộc? Đây quả là một việc làm không phải một sớm một chiều mà nó đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng linh hoạt trong quá trình giảng dạy vừa giảng lại phải vừa học, học từ học sinh và cha mẹ các em qua những lần gặp gỡ trò chuyện. Tham khảo tài liệu hướng dẫn học tiếng Ê-đê. Tham gia học tập ở các lớp học do cấp trên tổ chức. Chẳng hạn vào năm mới có em khóc, không muốn cho mẹ ra về, cô hỏi cũng không trả lời bởi vì chưa quen bạn, chưa quen cô và chưa có khả năng nhận biết tiếng Việt. Làm thế nào để các em nhanh chóng hòa nhập với môi trường học tập mới, đòi hỏi giáo viên dành thời gian gần gũi, quan tâm hướng các em tự tin hơn khi đến lớp. Đối với những em này giáo viên không chỉ nói bằng tiếng Việt mà phải hỗ trợ thêm bằng tiếng mẹ đẻ cụ thể như sau: + Tên em là gì? - Si anăn ӗ ? + Em nói cô biết, em tên là gì? - Ĕ lač kơ nai thâo, si anăn ӗ ? + Nhà em ở đâu? - Ti anôk sang ӗ ? + Em ở buôn nào? - Ti buôn ӗ ? + Nhà em có xa không? - Sang ӗ kbưi mơh? + Sở thích của em là gì? - Ya dŏ ӗ khắp čiăng? + Em có thích đi học không? - Ĕ khăp nao sang hră mơh? + Đi học em thấy có vui không? - Ĕ hơk mơh nao sang hră? + Ai thường đưa em đến trường? - Hlei pô khăng atăt ӗ nao sang hră? GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 17 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu Trong giờ học, khi gọi các em đọc mà thấy các em không trả lời có thể hỏi: + Em biết đọc chữ không? boh hră mơh? Ĕ thâo dlăng boh hră mơh? Hay Ĕ thâo đoc Nếu sau một thời gian mà học sinh không muốn nói chuyện với cô, có thể hỏi: + Em có thích học với cô không? - Ĕ khăp hriăm hǒng nai mơh? Những lúc các em chưa hiểu quy định của lớp học, nói chuyện nhiều trong lớp, giáo viên nhắc lại quy định bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng dân tộc. Ví dụ Hãy giữ trật tự - Dôk bi hiêt hoặc Jih jang dôk kriêp Nếu HS nói chuyện hoặc trêu chọc nhau trong lớp thì nói: Jih jang dôk jăk Trong giờ học có em thường nói leo, ra vào lớp tự do. Để giúp các em thực hiện tốt nội quy lớp học, giáo viên nhắc lại quy định trong giờ học bằng tiếng Việt và tiếng dân tộc. Ví dụ: Muốn trả lời câu hỏi của của cô các em phải giơ tay - Čiăng wῐt lač klei êmuh di ih yơr kngan. Muốn vào lớp phải xin phép cô cho em vào lớp - K’kâo kơ nai brei ӗ mǔt adǔ. Muốn ra ngoài phải xin phép cô cho em ra ngoài - K’kâo kơ nai brei ӗ kbiă kơ tač. Tuy nhiên không nên lạm dụng việc dùng tiếng dân tộc quá nhiều trong giảng dạy mà chỉ sử dụng khi thật cần thiết. Giáo viên hướng học sinh trả lời bằng tiếng Việt chứ không trả lời bằng tiếng dân tộc. Ví dụ Khi dạy bài 18: x, ch sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 1, trang 38. Sau khi nhận biết âm ch, giáo viên yêu cầu học phân tích tiếng chó, trong tiếng chó có âm và dấu thanh gì đã học? Bằng tất các các cách gợi ý nhưng học sinh vẫn không phân tích được, lúc này giáo viên đặt câu hỏi hỗ trợ bằng tiếng dân tộc Hlăm boh pia asâo nơng boh hră leh anăn yǎo drei tuôm hriăm leh? Hoặc nếu yêu cầu học sinh quan sát tranh mà thấy các em không hiểu cô yêu cầu mình làm gì? Giáo viên nêu lại câu hỏi theo hai cách: + Tranh vẽ con gì? + Dǒ arăng wӗ hlăm rǔp? Sau mỗi câu trả lời của học sinh, giáo viên uốn nắn sửa chữa cách nói câu trả lời phải đầy đủ thành phần, không nói thiếu, không nói thừa, không nói câu ngược. Câu trả lời phải kèm lời thưa gửi. Không nói trống không. Với những từ ngữ khó hiểu ngoài việc sử dụng tranh ảnh để giải thích, giáo viên có thể hỗ trợ bằng tiếng dân tộc. GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 18 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu Ví dụ: Để các em hiểu được từ thợ xẻ, giáo viên cho học sinh xem tranh kết hợp nói tiếng dân tộc mnuih ǔa kyâo hoặc mnuih čar kyâo - thợ xẻ Hoặc với từ thân thiết - Sῐt suôr Như vậy khi được hỗ trợ thêm bằng tiếng dân tộc các em sẽ nhận ra và nhớ từ ngữ mới nhanh hơn, lâu hơn. c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp, biện pháp có quan hệ chặt chẽ với nhau, giải pháp này thúc đẩy sự phát triển của giải pháp kia và ngược lại. Chúng là cầu nối tạo nên thành công trong việc dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, giúp các em có kỹ năng nghe, nói, đọc, viết đúng Tiếng Việt; kỹ năng diễn đạt lời nói trong giao tiếp. Việc lựa chọn, phối hợp và đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh hỗ trợ trực tiếp đến việc dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số trong môn tiếng Việt, các môn học khác. Không chỉ tăng cường tiếng Việt trong các môn học mà các hoạt hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cũng là điều kiện để học sinh nâng cao vốn tiếng Việt, kĩ năng giao tiếp, phát huy tính mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Gia đình – xã hội - nhà trường là ba môi trường giáo dục quyết định chất lượng giáo dục. Làm tốt công tác phối hợp giữa ba môi trường giáo dục sẽ tránh được tình trạng học sinh bỏ học. Giáo viên tự học nâng cao vốn kiến thức cũng góp phần không nhỏ trong công tác giáo dục. Chính vì thế các biện pháp luôn hỗ trợ cho nhau. d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và ứng dụng Với các biện pháp trên kết quả giáo dục được nâng cao dần theo thời gian. Khả năng nghe, nói, đọc, viết và kỹ năng giao tiếp của các em tốt hơn. Tình trạng học sinh phát âm sai dấu thanh, nói câu nửa vời thiếu thành phần hạn chế. Khả năng diễn đạt bằng lời ngày một tốt hơn. Các em tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, chủ động trong học tập. Đi học chuyên cần hơn. Tỉ lệ học sinh bỏ học giảm. Kết quả cụ thể như sau: Năm học Trước khi áp dụng TS HS Phát âm sai 20162017 132 T3/ 2017- 110 2018 Sau khi áp dụng Phát âm Khả năng Nghe- Viết Phát âm sai đúng diễn đạt bằng lời Phát âm đúng Khả năng diễn đạt bằng lời SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 87 65.9 45 34,1 68 51.5 66 50.0 18 13,6 114 86,4 120 70 63,6 40 36,4 66 60,0 65 59,1 13 11,8 97 88,2 100 GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 19 Nghe- Viết SL % 90,1 121 91,7 90,1 101 91,8 Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu Thành tích đạt được trong các hội thi như sau: Năm học 2016 – 2017 Năm học 2017- 2018 - Thi chữ viết đẹp cấp trường đạt 5/5 - Thi chữ viết đẹp cấp trường đạt 6/6 em tham gia trong đó 01 giải nhất, 01 em tham gia trong đó 01giải nhất, 01 giải nhỉ, 01 giải ba. giải nhì, 02 giải ba. - Thi chữ viết đẹp cấp huyện được - Giải nhì Hội thi trang trí lớp học thân công nhận 4 em. thiện. - Giải nhì Hội thi kéo co. - Giải nhất Hội thi trò chơi dân gian. Những giải pháp trên tiếp tục vận dụng trong những năm học 2017 – 2018 và thu được kết quả đáng mừng, được vận dụng tại các trường Tiểu học có học sinh dân tộc thiểu số. Giá trị khoa học: Với mục tiêu tăng cường tiếng Việt, nâng cao khả năng phát âm và kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số ở trường tiểu học Võ Thị Sáu nhằm khắc phục những khó khăn trong giảng dạy, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh. Sau khi nghiên cứu và thực hiện các giải pháp trên cho thấy kỹ năng phát âm đúng, kỹ năng nghe - viết, kỹ năng diễn đạt bằng lời trong giao tiếp ngày một cao hơn, giảm tỉ lệ học sinh bỏ học. Phát huy tích cực, tự tin, chủ động, mạnh dạn, hứng thú học tập và giao tiếp. Biết sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt và kĩ năng sống vào cuộc sống hàng ngày. Phát huy được tính năng động sáng tạo của giáo viên. Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả giáo dục của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt. Tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình trong học tập, trong cuộc sống. III. Phần kết luận, kiến nghị 1. Kết luận Nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo con người cho ngày hôm nay và cho mai sau là làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại có tư duy sáng tạo và thực hành giỏi, muốn thực hiện được yêu cầu này đòi hỏi người giáo viên trong nhà trường phải chú trọng đặc biệt ngay ở khối lớp Một bởi vì lớp Một là lớp quan trọng nhất ở khối tiểu học. Việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số là một yếu tố hết sức quan trọng. Tuy nhiên, việc tăng cường tiếng Việt không phải một sớm một chiều mà phải kiên trì thực hiện từng bước để tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao việc dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số trong nhà trường. Vì vậy, giáo viên lựa chọn, vận dụng linh hoạt các phương pháp tăng cường tiếng Việt phù hợp với đối tượng học sinh trong tất cả các môn học và hoạt động giáo dục. Phải coi trọng việc tăng cường tiếng Việt trong mọi thời điểm, mọi nơi, giữa gia đình, nhà trường và xã hội. GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan