Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Skkn một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho ...

Tài liệu Skkn một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn sinh học 8

.DOC
29
3757
115

Mô tả:

Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra phương hướng: Đầu tư phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển nhân lực và phẩm chất người học, phát triển giáo dục đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong đó, phát triển giáo dục và đào tạo phải tuân theo nguyên lý: Học đi đôi với hành, giáo dục phải kết hợp với lao động sản xuất, lí luận phải gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường phải kết hợp với giáo dục xã hội. Sinh học là một bộ môn khoa học tự nhiên có nhiệm vụ nghiên cứu các đặc điểm cấu tạo, hoạt động sống và các điều kiện sống của sinh vật cũng như các mối quan hệ giữa các sinh vật với nhau và với môi trường. Ở Sinh học 8 các em được tìm hiểu sâu về đặc điểm cấu tạo và sinh lí của con người, về những điều bí ẩn trong chính bản thân các em. Trong thực tế giảng dạy bộ môn Sinh học cấp trung học cơ sở, tôi nhận thấy phần lớn học sinh đều không thích học bộ môn Sinh học vì cho rằng môn học này thường khô khan, khó hiểu. Nên dẫn đến nhiều em còn có thái độ chưa quan tâm, chưa chú ý vào bài học. Điều này đã gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn. Mặt khác, ở lứa tuổi học sinh lớp 8 các em đang bước vào giai đoạn dậy thì nên cơ thể phát triển mạnh. Tuy nhiên, mức độ phát triển của hệ thần kinh chưa đạt đến độ hoàn thiện, do đó các em chóng mệt mỏi, dễ hưng phấn song cũng dễ chuyển sang trạng thái ức chế khi phải tiếp thu bài một cách thụ động, kém hào hứng. Vấn đề đặt ra là bản thân mỗi giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tìm tòi các phương pháp cũng như cách thức giảng dạy để có thể khơi dậy sự hứng thú cũng như sự chủ động trong học tập của học sinh, nếu không sẽ dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán, khó thành công. Các tình huống có trong thực tiễn rất gần gũi và thân quen đối với chúng ta cũng như đối với các em học sinh. Việc vận dụng các tình huống thực tiễn vào trong giảng dạy bộ môn tạo cho các em cảm thấy môn Sinh học trở nên gần gũi và thiết thực. Đặc biệt trong phần vào bài trước khi học bài mới giáo viên sử dụng những tình huống thực tiễn, những câu chuyện ngắn có ý nghĩa giáo dục, các câu ca dao, tục ngữ ... sẽ tạo cho các em một tâm thế học tập tốt, sự thích thú, muốn khám phá ra những kiến thức để lí giải những vấn đề đó. Từ đó các em yêu thích môn học hơn, đồng thời chất lượng bộ môn được nâng cao hơn. Từ những lí do trên cùng với kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được qua nhiều năm giảng dạy tại trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi, Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm mà mình đã tích lũy được trong quá trình giảng dạy và tôi chọn đề tài “ Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8”. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè đồng nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 1 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 Tìm ra những giải pháp hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập đối với bộ môn, giúp học sinh chủ động, tích cực, tự giác trong học tập, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Tìm hiểu các thông tin từ các nguồn tư liệu về những vấn đề thực tiễn liên quan đến bộ môn, để lựa chọn và đưa ra các tình huống vào bài phù hợp với nội dung bài học nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, từ đó vận dụng vào giảng dạy đạt hiệu quả cao nhất. Đưa ra được các giải pháp, biện pháp cần thiết và hiệu quả cho việc áp dụng nhằm nâng cao chất lượng học tập đối với bộ môn Sinh học 8. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Tại Đại hội Đảng lần thứ XII Đảng ta đã xác định đổi mới giáo dục và đào tạo theo hướng phải phù hợp, thiết thực với từng cấp học, từng đối tượng, đảm bảo tính khoa học, cơ bản, hiện đại; lựa chọn những kiến thức có tính ứng dụng cao. Chuyển từ nặng về trang bị kiến thức lí thuyết trừu tượng sang nội dung gắn với thực tiễn đời sống, chú trọng vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống trong học tập và cuộc sống….nội dung các môn học cần lựa chọn những gì cần thiết cho việc phát triển phẩm chất năng lực người học, những tri thức thiết thực, gần gũi, gắn với đời sống có thể vận dụng tốt trong thực tế. Trong công văn hướng dẫn nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện trong năm học 20182019 của Phòng giáo dục và đào tạo huyện Krông Ana đã chỉ rỏ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh. Đẩy mạnh việc vận dụng dạy học giải quyết vấn đề, các phương pháp thực hành, dạy học theo dự án trong các môn học; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với nội dung bài học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; tập trung dạy cách học, cách nghĩ, phương pháp tự học; đảm bảo cân đối giữa trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ năng và định hướng thái độ, hành vi cho học sinh…”. Theo các chuyên gia tâm lí học thì cùng với sự tự giác thì hứng thú học tập tạo nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy được sự sáng tạo, là động lực để người học có thể say mê, tự giác nghiên cứu và đạt được hiệu quả cao trong chương trình giáo dục. Ở lứa tuổi trung học cơ sở, các em có sự phát triển mạnh mẽ về tâm sinh lí, các em rất tò mò, muốn tìm hiểu cũng như giải đáp được những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên còn quá coi trọng các kiến thức lí thuyết nên tổ chức các hoạt động học còn thiên về cung cấp kiến thức trong sách giáo khoa, ít chú trọng đến việc đưa các vấn đề thực tế vào giảng dạy. Điều này làm cho các em cảm thấy kiến thức của các môn học trở nên xa lạ và khô khan, từ đó các em ít hứng thú đối với môn học hơn. Qua thực tế giảng dạy tại trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi, tôi nhận thấy rằng trong mỗi tiết học mà giáo viên chỉ đưa ra những câu hỏi, những kiến thức đơn thuần có trong sách giáo khoa thì tiết học sẽ trở nên khô khan, nhàm chán, không tạo được tâm thế học tập tốt cho các em, các em không hứng thú với học tập, tiếp thu bài một cách bị động, nên dẫn các em học Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 2 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 mang tính chất học vẹt, không nắm được kiến thức trọng tâm, khả năng tổng hợp cũng như vận dụng kiến thức vào thực tiễn còn hạn chế đã dẫn đến kết quả học tập bộ môn còn thấp. Điều này đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều, làm thế nào để có tạo được hứng thú học tập cho các em? Làm thế nào để các em có thể chủ động trong học tập? Làm thế nào để có thể các em yêu thích môn Sinh học hơn? Làm thế nào để các em có thể vận dụng những kiến thức môn học vào xử lí các tình huống có trong thực tiễn?.... Từ những suy nghĩ này, tôi đã tìm tòi, sưu tầm những tình huống thực tế, các câu chuyện ngắn, các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ.… liên quan đến kiến thức bộ môn để áp dụng tổ chức các tình huống vào bài ở một số tiết dạy và tôi tự nhận thấy rằng nếu giáo viên biết cách tổ chức các tình huống vào bài đặc biệt là các tình huống có trong thực tế vào giảng dạy sẽ tạo cho học sinh một tâm thế tốt, kích thích được hứng thú học tập của các em, làm nảy sinh trong các em suy nghĩ muốn khám phá ra những kiến thức và có thể áp dụng những kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề trong thực tiễn, từ đó các em yêu thích môn học hơn, chất lượng bộ môn cũng được nâng cao. 2. Thực trạng Hiện nay, để đáp ứng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, ngành giáo dục đã và đang thực hiện đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện với mục tiêu đào tạo nên những con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa phát triển một cách toàn diện về “ đạo đức- trí tuệ - thẩm mỹ”. Để làm được điều này cần phải đổi mới một cách mạnh mẽ các phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; tăng cường rèn luyện các kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Vậy vấn đề đặt ra là giáo viên phải có biện pháp gì để góp phần giáo dục nên những thế hệ trẻ vừa chủ động, vừa sáng tạo,vừa có kỹ năng thực hành tốt, biết vận dụng những kiến thức môn học vào giải quyết các tình huống thực tiễn. Trong thực tế, tôi thấy rằng đa số giáo viên thường hay sử dụng Phương pháp dạy học truyền thống trong giảng dạy. Ở phương pháp này chủ yếu là hoạt động của giáo viên nhằm truyền đạt các kiến thức có trong sách giáo khoa cho học sinh. Phương pháp này có ưu điểm là học sinh nắm được nội dung kiến thức của bài ngay trong tiết học, các em có thể trả lời được những câu hỏi liên quan có trong sách giáo khoa. Tuy nhiên, khi dạy học theo phương pháp này vẫn còn nhiều hạn chế như: Học sinh học bài còn mang tính chất học vẹt, tiếp thu bài một cách thụ động, không nắm được kiến thức trọng tâm nên dẫn đến rất nhanh quên, khả năng tư duy còn hạn chế, khả năng vận dụng kiến thức bộ môn vào giải quyết các vấn đề thực tiễn còn kém…điều này thể hiện qua kết quả ở các bài kiểm tra của các em còn thấp, khi gặp các vấn đề thực tiễn có liên quan đến kiến thức bộ môn các em còn lúng túng hoặc không giải đáp được. Ở lứa tuổi trung học cơ sở đặc biệt là học sinh lớp 8, các em đang bước vào giai đoạn dậy thì nên cơ thể có sự phát triển mạnh về kích thước và thể lực. Đồng thời các em có sự phát triển mạnh mẽ về tâm sinh lí, các em rất tò mò, ham hiểu biết, muốn tìm hiểu cũng như giải đáp được những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. Những câu hỏi: “Tại sao?” Hay “Do đâu?” thường xuất hiện trong đầu các em. Các em tự cho mình là người lớn và cũng muốn được coi là người lớn, muốn được tham gia học tập một cách độc lập, muốn thử sức mình… Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên chưa lựa chọn được các phương pháp dạy học phù hợp nên chưa tích cực hóa được hoạt động học tập của học sinh, ít chú trọng đến việc Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 3 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 đưa các vấn đề thực tế vào trong giảng dạy. Điều này đã làm cho các em cảm thấy các kiến thức của môn học trở nên khô khan, xa lạ …từ đó các em ít hứng thú hơn đối với môn học. Mặt khác, cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin các em có rất nhiều sân chơi khác như: Facebook, Zing me, Game online, Zalo…điều này đã làm phân tán sự tập trung của các em, hứng thú học tập của các em ngày càng giảm sút, các em tiếp thu bài một cách thụ động nên không nắm được kiến thức trọng tâm. Do đó, chất lượng học tập bộ môn chưa cao. Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh còn có tư tưởng phó mặc việc giáo dục con em họ cho nhà trường, nên bỏ bê việc quan tâm đến học tập của con cái. Ngoài ra, kinh tế của một số gia đình học sinh còn nhiều khó khăn, bố mẹ mãi lo làm ăn kinh tế nên ít quan tâm đến việc học tập, không giám sát việc học ở nhà của con em mình, đến lớp các em lại không chú ý nghe giảng, không nắm được kiến thức trọng tâm của bài nên dần dần sinh ra tâm lí chán nản, không thích học, không tập trung trong học tập…dẫn đến chất lượng học tập không cao. Kết quả bài kiểm tra định kì lần 1 học kì I môn Sinh học lớp 8 trường THCS Nguyễn Trãi khi chưa thực hiện đề tài trong 2 năm học 2017 – 2018 và năm học 2018- 2019 như sau: Năm học 2017 – 2018 Lớp Tổng số Giỏi Khá Trung bình 8A3 28 0 6 14 7 1 8a4 30 2 6 15 6 1 8a5 28 3 5 12 7 1 8a6 32 4 7 13 8 0 Tổng cộng 118 9 24 54 28 3 7,6% 20,3% 45,8% 23,7% 2,6% Tỉ lệ 2018 – 2019 Yếu Kém 8A1 30 0 7 15 8 0 8a2 34 3 8 14 8 1 8a3 27 2 5 12 7 1 8a5 28 3 6 11 7 1 Tổng cộng 119 8 26 52 30 3 6,7% 21,8% 43,8% 25,2% 2,5% Tỉ lệ Qua kết quả kiểm tra trên, tôi thấy rằng kết quả học tập môn Sinh học 8 của các em còn thấp, tỉ lệ bài kiểm tra bị điểm yếu và kém vẫn còn cao, tỉ lệ các bài đạt loại khá và giỏi còn ít. Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 4 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 Trong thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng nếu trong quá trình dạy hocjgiaos viên tổ chức các tình huống vào bài trước khi học bài mới, đặc biệt là sử dụng các tình huống có liên quan đến các vấn đề có trong thực tế hoặc một tình huống giả định, các câu chuyện ngắn hay các câu ca dao, tục ngữ mang tính chất giáo dục… và yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu và giải thích qua bài học, sẽ tạo cho các em một tâm thế học tập tốt, các em sẽ chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức. Từ đó, kích thích được hứng thú học tập của học sinh, chất lượng bộ môn cũng được nâng cao. Ngoài ra, thông qua các tình huống vào bài giáo viên còn có thể lồng ghép các nội dung khác nhau chẳng hạn như: giáo dục ý thức bảo vệ cơ thể, biết chăm sóc, giữ gìn sức khỏe và giáo dục đạo đức lối sống cho các em. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp Trước những thực trạng trên, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, biện pháp mà tôi đã đúc rút được qua nhiều năm giảng dạy tại trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi. Nhằm mục đích trao đổi với các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường để cùng nhau tháo gỡ những khó khăn, hạn chế của công tác giảng dạy bộ môn Sinh học nói chung và môn Sinh học 8 nói riêng trong nhà trường. Từng bước nâng cao chất lượng bộ môn. Trong quá trình giảng dạy môn Sinh học 8 ở trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi tôi đã tìm tòi, sưu tầm và đúc kết được một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài và đã sử dụng, trải nghiệm trong quá trình giảng dạy môn Sinh học 8 và bước đầu đã mang lại hiệu quả. Tôi xin mạnh dạn đưa ra đây để cùng trao đổi với thầy cô và bạn bè đồng nghiệp. - Giải pháp 1: Sử dụng các câu chuyện ngắn có trong thực tế vào giảng dạy Các câu chuyện ngắn có nội dung liên quan đến thực tế là những câu chuyện kể về những sự việc diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, mang tính chất thời sự, làm cho các em cảm thấy môn Sinh học trở nên gần gũi và thiết thực. Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các câu chuyện ngắn vào giảng dạy giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương; bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể; bài 18: Vận chuyển máu qua hệ mạch. Vệ sinh hệ tuần hoàn; bài 22: Vệ sinh hô hấp; bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày; bài 34: Vitamin và muối khoáng; bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện…. Một số ví dụ cụ thể: Khi dạy bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương Trước khi vào học bài mới giáo viên kể cho lớp nghe một câu truyện ngắn về tập tục chữa bệnh lạc hậu ở một số vùng nông thôn. “Thầy mo” chữa bệnh…. Ở một bản làng nọ, có một thầy lang nổi tiếng là chữa bệnh giỏi, bất cứ ai bị bệnh gì đến gặp, thầy đều chữa khỏi. Một hôm bà Na có người con trai 10 tuổi chẳng may bị ngã nên gãy chân. Bà liền mang con trai đến gặp thầy, ông liền lấy hai thanh gỗ nẹp chân cậu con trai lại rồi đưa cho bà mẹ ba mươi tờ tiền vàng mà thầy đã làm phép. Thầy căn dặn mỗi ngày bà hãy đốt một tờ tiền vàng và hòa với nước cho con trai uống, ắt sẽ khỏi bệnh. Quả Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 5 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 thật sau ba mươi ngày, chân cậu con trai này đã lành. Em nghĩ sao về cách chữa bệnh của ‘thầy mo” này? Có phải thuốc của thầy quá hay nên chân cậu con trai đã lành? Sau khi học xong phần II- Sự to ra và dài ra của xương, giáo viên nhắc lại câu chuyện ở đầu bài và yêu cầu học sinh nói ra quan điểm của mình. Sau khi học sinh phát biểu giáo viên chốt kiến thức: Ở xương có lớp màng xương gồm những tế bào có khả năng phân chia tạo ra những tế bào mới, đẩy vào trong và hóa xương. Do đó khi bị gãy xương chỉ cần cố định xương sau một thời gian lớp màng xương sẽ sinh ra lớp xương mới hàn gắn lại chỗ xương bị gãy nên xương sẽ lành lại. Qua đây giáo viên chỉ ra cho học sinh thấy việc “thầy mo” sử dụng tiền vàng làm thuốc chữa bệnh là sai khoa học, qua đó giáo dục ý thức bảo vệ cơ thể cho các em tránh các tập tục chữa bệnh lạc hậu. Khi dạy bài 18: Vận chuyển máu qua hệ mạch. Vệ sinh hệ tuần hoàn. Cuộc thi chạy Maratông Để tạo hứng thú trước khi vào bài giáo viên kể cho các em một câu chuyện: “Nguồn gốc cuộc thi chạy Maratông” Năm 490 trước công nguyên, tại làng Maratông trong vùng Attic, quân đội Hi Lạp đã đánh tan quân xâm lược Ba Tư, một người lính nhận lệnh chạy từ làng Maratông về thủ đô Aten để báo tin chiến thắng. Anh đã chạy một mạch 42,195 km và chết ngay sau khi báo tin chiến thắng. Để kỉ niệm sự kiện đáng nhớ đó, từ 1896 người ta đã tổ chức cuộc thi chạy hằng năm từ Maratông đến Aten và vô số vận động viên đã vượt qua quảng đường này an toàn với thời gian ngày càng rút ngắn. Tại sao các vận động viên có thể chạy một quảng đường dài như vậy nhưng vẫn an toàn? Qua câu chuyện này sẽ tạo cho các em sự tò mò, muốn tìm hiểu kiến thức để có thể giải thích được sự phi thường mà các vận động viên đã làm được khi phải chạy qua một quảng đường rất dài như vậy. Qua đó giáo dục cho các em ý thức tự giác rèn luyện để có một cơ thể khỏe mạnh. Khi dạy bài 22: Vệ sinh hô hấp Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 6 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 Trước khi học bài mới, giáo viên có thể mở bài bằng một câu chuyện “Đốt than để sưởi ấm…” Ngày 27 tháng 11 năm 2018 do thời tiết quá lạnh nên một gia đình ở thành phố Vinh thuộc tỉnh Nghệ An đã đốt than trong nhà để sưởi ấm. Cả gia đình đã phải nhập viên cấp cứu trong tình trạng khó thở, tức ngực và 1 người đã bị tử vong. Vậy tại sao lại có hiện tượng này? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu qua bài 22: Vệ sinh hô hấp. Khi học phần I- Cần bảo vệ hệ hô hấp khỏi các tác nhân có hại, giáo viên nhắc lại câu chuyện và yêu cầu học sinh lí giải hiện tượng đó. Qua việc chủ động tìm hiểu kiến thức học sinh chỉ ra được: Đốt than sưởi ấm trong nhà đã thải ra khí cacbon ôxit, khí cacbon ôxit này sẽ chiếm chỗ của ôxi trong máu, làm giảm hiệu quả hô hấp, có thể dẫn đến tử vong. Khi dạy bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, trước khi học bài mới giáo viên kể cho các em một câu chuyện “Dạ dày biết nói…” Một vụ án mạng xảy ra tại một khu trung cư, nạn nhân là một cô gái khoảng 25 tuổi. Sau khi tiếp nhận vụ án, bác sĩ pháp y tiến hành lấy dịch của dạ dày rồi phân tích chúng và đã xác định được giờ chết của nạn nhân. Từ đặc điểm này các chiến sĩ công an đã lần ra các đầu mối và tìm ra được thủ phạm. Vậy tại sao khi kiểm tra dịch ở dạ dày bác sĩ pháp y có thể xác định được giờ chết của nạn nhân? Liệu có phải chính dạ dày đã nói lên điều gì với bác sĩ pháp y? Để giải đáp được câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu qua bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày. Khi học phần II- Tiêu hóa ở dạ dày, giáo viên yêu cầu học sinh giải thích câu hỏi trong tình huống ở đầu bài. Sau khi các em trình bày suy nghĩ của mình, giáo viên chốt kiến thức và cung cấp thêm một số thông tin cho học sinh: Dạ dày giữ thức ăn một thời gian, dài hay ngắn tùy thuộc vào bản chất và trạng thái thức ăn. Đối với thức ăn lỏng như cháo hoặc sữa qua dạ dày và được đẩy xuống ruột ngay. Thức ăn gluxit như cơm tẻ lưu lại khoảng 2 giờ, cơm nếp khoảng 4 giờ. Thức ăn chứa nhiều mỡ như thịt chiên, cá chiên…lưu lại trong dạ dày rất lâu khoảng 9 giờ hoặc hơn một chút… Bác sĩ pháp y dựa vào đặc điểm này để xác địnhgiờ chết của nạn nhân. Chẳng hạn, tử thi được phát hiện lúc 5 giờ sáng. Bác sĩ mổ khám nghiệm và phát hiện cơm đang rời dạ dày qua ruột thì ngừng lại. Như vậy nạn nhân chết khoảng 2 giờ sau khi ăn. Lúc này chỉ cần điều tra xem nạn nhân ăn tối lúc mấy giờ thì sẽ xác định được giờ chết của nạn nhân. * Khi dạy bài 34: Vitamin và muối khoáng Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 7 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 Giáo viên có thể mở bài bằng một câu chuyện ngắn: “Chuyến thám hiểm của tàu Cartier” Năm 1536, các thủy thủ và đoàn viên tàu Cartier tiến hành chuyến thám hiểm đi Canađa, chuyến đi kéo dài mấy tháng trời, lượng thức ăn rau, củ, quả tươi mang từ đất liền đã hết, mọi người trong đoàn chủ yếu ăn thịt cá suốt một thời gian dài. Nhiều thủy thủ và đoàn viên trên tàu đã mắc một căn bệnh nghiêm trọng, đó là bệnh Xcorbut, người bệnh bị chảy máu lợi, chảy máu dưới da, viêm khớp, đau cơ….và nhiều người đã bị chết. Vậy tại sao họ lại bị mắc căn bệnh này? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 34: Vitamin và muối khoáng. Điều này sẽ tạo cho học sinh sự tò mò, muốn tìm hiểu kiến thức để lí giải được nguyên nhân gây bệnh trên. Sau khi tìm hiểu phần I- Vitamin, giáo viên nhắc lại tình huống vào bài và yêu cầu học sinh trình bày quan điểm của mình. Học sinh sẽ chỉ ra được nguyên nhân chính của căn bệnh này là do trong khẩu phần ăn thiếu rau, củ, quả tươi nên cơ thể bị thiếu vitamin C làm cho mạch máu giòn, dễ vỡ, gây chảy máu. Đồng thời qua đây giáo dục các em kỹ năng thiết lập khẩu phần ăn chứa đầy đủ các chất, đặc biệt phải đủ các loại vitamin và muối khoáng. Khi dạy bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện Để tạo hứng thú học tập cho học sinh giáo viên mở bài bằng câu chuyện “ Tào tháo với rừng mơ” Trong một lần hành quân qua một chặng đường dài, trời vừa nắng và nóng, quân sĩ của Tào Tháo vừa đói lại vừa khát, mọi người đều mệt lã tưởng chừng không thể đi nổi nữa. Tình hình khá là nguy cấp vì còn phải hành quân qua một đoạn đường rất dài nữa mới đến nơi đóng quân. Thấy vậy, Tào Tháo liền thông báo cho quân sĩ rằng: Các quân sĩ hãy cố gắng lên một chút nữa, ở phía trước có một khu rừng mơ chín mọng, mọi người tha hồ mà ăn. Cuối cùng quân sĩ của Tào Tháo cũng đến được nơi đóng quân. Vậy tại sao quân sĩ lại hết khát ? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Khi học phần II- Sự hình thành phản xạ có điều kiện, giáo viên nhắc lại câu hỏi ở đầu bài và yêu cầu học sinh đưa ra quan điểm của mình, sau khi học Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 8 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 sinh đưa ra các ý kiến, giáo viên chốt kiến thức, từ đó giúp các em khắc sâu kiến thức về sự hình thành phản xạ có điều kiện. Cũng trong bài này giáo viên có thể sử dụng một câu chuyện khác vào phần mở bài như câu chuyện “ Mèo của Trạng Quỳnh ” Một vị chúa nọ có một con mèo rất đẹp, chúa rất yêu quý con mèo. Suốt ngày chúa chăm bẵm, chơi đùa với mèo mà không quan tâm gì đến việc triều chính. Thấy vậy, Trạng Quỳnh liền bắt trộm mèo của chúa và mang về nhà nuôi. Chúa cho quân lính tìm kiếm khắp nơi, mãi một thời gian sau chúa thấy nhà Trạng Quỳnh có một con mèo giống của mình liền đến đòi mèo lại. Trạng quỳnh liền nói: Đây là mèo của thần và để chứng minh là mèo của mình, Trạng Quỳnh liền mang ra hai bát cơm, một bát bỏ đầy thịt, cá còn một bát chỉ có cơm chan nước canh. Con mèo liền tiến lại gần bát cơm chan nước canh và ăn một cách ngon lành. Lúc này, Trạng Quỳnh liền nói: Chúa thấy đấy, nhà thần nghèo, không có tiền mua cá, thịt nên chỉ toàn ăn cơm chan với canh nên mèo nhà thần chỉ quen ăn món này mà thôi. Mèo nhà chúa sống sung sướng , chỉ quen ăn cơm với cá và thịt, nên đây chính là mèo của thần. Lúc này chúa đành mất mèo và ấm ức đi về. Vậy tại sao chúa chịu mất mèo? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Qua tìm hiểu kiến thức để giải đáp câu hỏi này học sinh chỉ ra được: Chính Trạng Quỳnh đã tập cho mèo một thói quen mới, đó là chỉ được ăn cơm chan với nước canh mà thôi. Từ đó, học sinh sẽ khắc sâu được kiến thức về sự hình thành phản xạ có điều kiện. Đồng thời qua đây giáo viên lồng ghép giáo dục học sinh rèn luyện các thói quen học tập tốt, các nếp sống văn minh…. - Giải pháp 2: Sử dụng các tình huống có trong thực tế vào giảng dạy. Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều những tình huống nảy sinh làm xuất hiện trong đầu các em rất nhiều thắc mắc, các em rất muốn tìm ra lời giải đáp cho những thắc mắc đó. Trong giảng dạy, giáo viên sử dụng những tình huống có thể là những tình huống có sẵn trong thực tế hoặc là những tình huống giả định mà giáo viên tạo ra có nội dung liên quan đến bài học, nhằm mục đích yêu cầu học sinh hãy suy nghĩ và tìm ra cách xử lí tình huống đó, điều này đã đặt ra cho các em một câu hỏi lớn buộc các em phải huy động trí não, sự tập trung trí tuệ để giải quyết vấn đề, từ đó tạo cho các em tâm thế học tập tốt, chủ động trong việc tìm tòi và lĩnh hội kiến thức, nâng cao chất lượng bộ môn. + Biện pháp 1: Sử dụng các tình huống có sẵn Các tình huống có sẵn là những tình huống nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày, rất quen thuộc với học sinh. Việc sử dụng các tình huống này trong giảng dạy, tạo cho học sinh sự hứng thú, muốn tìm hiểu kiến thức để có thể giải quyết các tình huống đó. Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các tình huống có trong thực tế vào giảng dạy giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 6: Phản xạ; bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể; bài 14: Bạch cầu- miễn dịch; bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu; bài 16: Tuần Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 9 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 hoàn máu và lưu thông bạch huyết; bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp; bài 21: Hoạt động hô hấp…. Một số ví dụ cụ thể: Khi dạy bài 6: Phản xạ Giáo viên có thể mở bài bằng một tình huống: Khi tay ta chạm phải vật nóng, liền rụt tay lại. Tại sao lại có hiện tượng này? Để giải đáp câu hỏi nàychúng ta cùng tìm hiểu trong bài 6: Phản xạ. Từ tình huống này, sẽ tạo cho các em sự tò mò, muốn tìm ra kiến thức để lí giải hiện tượng trên. Qua tìm hiểu kiến thức các em sẽ chỉ ra được đây chính là một phản xạ của cơ thể để trả lời kích thích từ môi trường. Đồng thời các em cũng giải thích được cơ chế của phản xạ trên. Từ đó các em có thể giải thích được các hiện tương tự mà các em gặp trong cuộc sống hằng ngày. Khi dạy bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể Khi vào phần mở bài giáo viên đưa ra một tình huống có trong thực tế : Gia đình bác Nam ở thôn Tân Lập có cô con gái đang bị bệnh tiêu chảy, sau khi lấy thuốc về cho con uống, bác còn bắt con gái phải uống nhiều nước, bác bảo: phải uống nhiều nước để bổ sung lượng nước bị thiếu. Theo em việc bắt con gái uống nhiều nước khi bị bệnh tiêu chảy của bác Nam như vậy có đúng không? Tại sao? Từ câu chuyện này sẽ tạo cho các em hứng thú muốn tìm hiểu những kiến thức để lí giải cho các dự đoán của mình …sau khi học phần IMáu. Giáo viên yêu cầu học sinh nói ra quan điểm của mình. Sau đó giáo viên chốt kiến thức: 90% huyết tương là nước nên khi bị tiêu chảy hay bị sốt cơ thể mất nước nhiều, máu trở nên đặc và khó lưu thông trong hệ mạch. Vì vậy người bệnh cần phải uống nhiều nước để bổ sung lượng nước bị hao hụt. Từ đó giáo viên giáo dục kỹ năng sống cho các em, để các em có thể xử lí được khi gặp các tình huống tương tự trong cuộc sống. Khi dạy bài 14: Bạch cầu- miễn dịch Giáo viên mở bài bằng cách đưa ra một tình huống: Khi em dẫm phải gai, tại vết trầy xước mới đầu bị tấy đỏ, sưng đau thậm chí có thể bị cống mủ, sau vài hôm thì khỏi. Vậy chân khỏi là do đâu? Cơ thể đã tự bảo vệ mình như thế nào? Để giải đáp những câu hỏi này các em cùng tìm hiểu qua bài 14: Bạch cầu – miễn dịch. Sau khi học xong phần I- Các hoạt động chủ yếu của bạch cầu. Giáo viên nhắc lại câu hỏi trong tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh nói lên suy nghĩ của mình. Sau đó giáo viên chốt lại kiến thức: Tại vết trầy xước bị tấy đỏ, sưng đau là do các vi khuẩn tập trung tấn công tạo thành ổ sưng viêm. Sau vài hôm chân khỏi là do hoạt động của các bạch cầu đã tiêu diệt được vi khuẩn, bảo vệ cơ thể. Cũng trong bài này giáo viên có thể sử dụng một tình huống vào bài khác như: Có người nói rằng: “Tiêm vacxin là tiêm vi khuẩn đã được làm yếu vào cơ thể, giúp cơ thể không bị mắc bệnh” Theo em điều này có đúng hay không? Tại sao? Sau khi học xong phần II. Miễn dịch. Giáo viên nhắc lại câu hỏi trong tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh trả lời, sau đó chốt kiến thức: Thực tế tiêm vacxin chính là tiêm các vi khuẩn đã được làm yếu, không còn khả năng gây bệnh vào cơ thể, để cơ thể tiết ra kháng thể chống lại căn bệnh. Do đó sau khi tiêm vacxin một bệnh nào đó, cơ thể sẽ cơ thể sẽ không mắc bệnh đó nữa. Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 10 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 Khi dạy bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu Trước khi vào bài mới giáo viên có đưa ra tình huống: Ở người bình thường, khi làm việc chẳng may bị đứt tay, mới đầu tại vết đứt máu chảy nhiều, sau đó ít lại và không chảy nữa. Nhưng ở một số người khác chỉ cần một vết thương nhỏ, máu cứ chảy miết, chảy miết…nếu không cấp cứu kịp thời có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Tại sao lại có những hiện tượng trên? Để giải đáp những câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu. Từ tình huống này sẽ tạo động lực cho các em tìm hiểu kiến thức để giải đáp thắc mắc của mình. Sau khi học xong phần I- Đông máu, giáo viên nhắc lại tình huống vào bài và yêu cầu học sinh giải thích các hiện tượng trên. Sau khi học sinh trình bày suy nghĩ của mình giáo viên chốt kiến thức và mở rộng thêm kiến thức liên quan cho các em. Ở người bình thường, khi bị đứt tay các tế bào tiểu cầu va chạm với vết rách của thành mạch máu ở vết thương nên bị vỡ và giải phóng enzim. Enzim này kết hợp với chất sinh tơ máu có trong huyết tương tạo thành các tơ máu, các tơ máu này ôm giữ các tế bào máu làm thành khối máu đông bịt kín vết thương nên máu không chảy nữa. Đối với những người bị bệnh máu khó đông do số lượng tế bào tiểu cầu trong máu quá ít nên chỉ cần một vết thương nhỏ, máu cứ thế chảy miết, chảy miết… thậm chí người bị bệnh nặng, mặc dù không bị trầy xước cũng có thể bị chảy máu trong các khớp chân, tay. Nếu không cấp cứu kịp thời có thể dẫn đến phải tháo các khớp ở chân hoặc tay, gây nguy hiểm đến tính mạng. Khi dạy bài 16: Tuần hoàn máu và lưu thông bạch huyết Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 11 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 Để tạo hứng thú cho học sinh trước khi vào học bài mới giáo viên đưa ra tình huống: Có người nói rằng “Trong khẩu phần ăn mà thức ăn chứa nhiều chất côlesterôn (có trong thịt, cá, trứng, sữa…) có nguy cơ bị mắc bệnh sơ vữa động mạch” Em có suy nghĩ gì về câu nói này? Bệnh sơ vữa động mạch gây ra tác hại gì? Sau khi học phần I- Tuần hoàn máu, giáo viên yêu cầu học sinh nói lên quan điểm của mình về tình huống ở đầu bài. Qua tìm hiểu kiến thức bài học kết hợp với hiểu biết về thực tế học sinh có thể đưa ra câu suy nghĩ của mình, giáo viên nhận xét và chốt kiến thức: Trong khẩu phần ăn mà chứa nhiều chất côlesterôn sẽ có nguy cơ bị bệnh xơ vữa động mạch. Ở bệnh này, côlesterôn ngấm vào thành mạch kèm theo sự ngấm các ion canxi làm cho mạch bị hẹp lại, không còn nhẵn như trước, gây xơ vữa. Động mạch xơ vữa làm cho sự vận chuyển máu trong mạch gặp khó khăn, tiểu cầu dễ bị vỡ và hình thành cục máu đông gây tắc mạch. Đặc biệt nguy hiểm ở động mạch vành nuôi tim gây các cơn đau tim, ở động mạch não gây đột quỵ. Bên cạnh đó động mạch xơ vữa gây ra các tai biến trầm trọng như xuất huyết dạ dày, xuất huyết não, thậm chí gây tử vong. Qua tình huống này, giáo viên định hướng cho các em biết cách xây dựng một khẩu phần ăn hợp lí, tốt cho sức khỏe. Khi dạy bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp Giáo viên có thể mở bài bằng một tin tức có trên thời sự: Một em bé ở Gia Lai đã tử vong do bị nghẹt thở sau khi ăn thạch rau câu. Vậy tại sao lại có hiện tượng này? Để giải đáp câu hỏi này, chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp. Khi học phần II- Các cơ quan trong hệ hô hấp của người và chức năng của chúng, giáo viên nhắc lại tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh giải thích. Sau đó giáo viên chốt kiến thức: Ở thanh quản có nắp thanh quản có thể cử động để đậy kín đường hô hấp khi chúng ta nuốt thức ăn. Trong trường hợp trên khi em bé khi ăn thạch rau câu đã mút mạnh để lấy thạch vào miệng. Khi mút mạnh thì nắp thanh quản sẽ mở to, cùng với độ trơn của miếng thạch đã chạy tọt vào Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 12 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 cổ và lọt vào đường thở, chắn ngang gây nghẹt thở và tử vong. Qua tình huống giáo viên có thể lồng ghép cách sơ cứu khi trẻ bị hóc dị vật hoặc khi ăn không nên cười đùa có thể dẫn đến bị sặc… Khi dạy bài 21: Hoạt động hô hấp Để kích thích sự tò mò, hứng thú học tập của học sinh, giáo viên có đưa ra một tình huống: Khi phát hiện một em bé mới sinh bị chết, làm thế nào để biết được chính xác em bé đó chết trước hay sau khi lọt lòng? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu bài 21: Hoạt động hô hấp. Khi học phần I- Thông khí ở phổi, giáo viên nhắc lại tình huống vào bài và yêu cầu học sinh đưa ra suy nghĩ của mình, sau đó giáo viên chốt lại kiến thức: Trẻ mới sinh đã cắt rốn mà vẫn còn sống sẽ có động tác hít vào thở ra lần đầu làm bật tiếng khóc chào đời. Trước khi có tiếng khóc chào đời phổi trẻ chưa hề có không khí. Nên nếu trẻ chết từ trong bụng mẹ thì mô phổi còn đặc do đó nặng hơn nước, còn nếu trẻ lọt lòng mà còn sống dù chỉ cất tiếng khóc một lần thôi, khi không khí tràn vào phổi có một phần sẽ ở lại mãi trong đó nên mô phổi trở nên xốp và nhẹ hơn nước. Vì vậy trong pháp y, khi cần xác định một trẻ sơ sinh chết từ khi còn nằm trong bụng mẹ hay sau khi lọt lòng, chỉ cần cắt một miếng phổi, bỏ vào một cốc nước rồi theo dõi xem nó chìm hay nổi. Nếu phổi chìm thì em bé đó bị chết trong bụng mẹ, còn nếu phổi nổi thì em bé đó chết sau khi lọt lòng. Cũng trong bài này giáo có thể đặt ra câu hỏi “ Vì sao có tiếng khóc chào đời” trước khi vào bài mới. + Biện pháp 2: Tạo ra các tình huống giả định Bên cạnh các tình huống có sẵn trong thực tế, giáo viên có thể sáng tạo ra các tình huống giả định để kích thích hứng thú học tập cho học sinh. Từ các tình huống đó buộc học sinh phải tự tìm hiểu kiến thức nền và đưa ra cách giải quyết tình huống đó, giúp các em khắc sâu kiến thức. Cách thức thực hiện: Giáo viên có thể áp dụng biện pháp này vào các bài cụ thể như: bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương; bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể; bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu; bài 38: Bài tiết và cấu tạo hệ bài tiết nước tiểu; bài 40: Vệ sinh hệ bài tiết nước tiểu Một số ví dụ cụ thể: Khi dạy bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương Khi vào phần mở bài giáo viên đưa ra tình huống: Bạn Nam và bạn Hải đang tranh luận với nhau về một vấn đề như sau: Bạn Nam: Theo tớ thì xương của người già sẽ cứng và chắc nên sẽ ít bị gãy hơn so với trẻ em. Bạn Hải: Tớ lại nghĩ xương của trẻ em sẽ ít bị gãy hơn so với xương của người già vì xương trẻ em có sự dẻo dai hơn. Theo em ý kiến của bạn nào đúng? Tại sao? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương. Từ tình huống này sẽ tạo cho các em hứng thú muốn tìm hiểu những kiến thức để lí giải cho các dự đoán của mình …Sau khi học xong phần Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 13 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 III- Thành phần hóa học và tính chất của xương. Giáo viên nhắc lại tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh trình bày và giải thích quan điểm của mình. Sau khi học sinh phát biểu giáo viên chốt kiến thức: Tỉ lệ cốt giao và muối khoáng trong xương thay đổi theo lứa tuổi, ở trẻ em thành phần cốt giao chiếm tỉ lệ cao hơn, nên xương trẻ em sẽ dẻo dai và ít bị gãy hơn. Còn ở người già tỉ lệ cốt giao giảm vì vậy xương xốp, giòn và dễ gãy, khi bị gãy lại lâu hồi phục hơn so với xương trẻ em. Khi dạy bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể Trước khi vào học bài mới giáo viên có thể đưa ra một tình huống : Bạn Hà và bạn Hải đang tranh luận với nhau về bệnh thiếu máu. Bạn Hà: Theo tớ nghĩ người bị bệnh thiếu máu là do thiếu số lượng máu trong cơ thể nên mới hay bị mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt. Bạn Hải: Tớ lại nghĩ khác, người bị thiếu máu có thể do thiếu ôxi trong máu. Em nghĩ như thế nào về quan điểm của hai bạn trên? Vì sao? Từ tình huống này sẽ kích thích sự tò mò, của các em muốn tìm hiểu những kiến thức để lí giải cho các dự đoán của mình. Sau khi học phần I- Máu. Giáo viên yêu cầu học sinh nói ra quan điểm của mình. Sau đó giáo viên chốt kiến thức: Ở người, trung bình có khoảng 7,5ml máu/kg cơ thể. Như vậy ở người trưởng thành có trung bình khoảng từ 4,5 -5,5 lít máu. Những người bị bệnh thiếu máu thường không phải do thiếu số lượng máu mà do thiếu số lượng hồng cầu trên đơn vị thể tích máu, làm cho khả năng trao đổi khí của máu kém đi, cơ thể không nhận đủ máu giàu ôxi nên hay bị mệt mỏi, hoa mắt và chóng mặt… Khi dạy bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu Để kích thích hứng thú học tập của học sinh, giáo viên đưa ra một tình huống: Nam và Tuấn đi chơi, chẳng may bị tai nạn giao thông, cả hai được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Tuấn chỉ bị trầy xước sơ sơ, còn Nam bị mất máu rất nhiều. Qua xét nghiệm Nam thuộc nhóm máu O. Bác sĩ chỉ định phải truyền máu gấp cho Nam. Nhưng không may lượng máu dự trữ của bệnh viện về nhóm máu O đã hết. Bác sĩ đang lo lắng tìm người có nhóm máu phù hợp để truyền cho Nam. Thấy vậy Tuấn liền nói: Bác sĩ ơi! Cháu nhóm máu có B, hãy lấy máu của cháu để truyền cho Nam. Theo em bác sĩ sẽ trả lời thế nào? Vì sao? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu. Sau khi học xong phần II- Các nguyên tắc truyền máu, giáo viên yêu cầu học sinh giải đáp tình huống này. Qua tìm hiểu các em sẽ chỉ ra được: Tuấn nhóm máu B không thể truyền máu cho bạn Nam được vì: Người có nhóm máu B trong hồng cầu có kháng nguyên B sẽ gây kết dính với kháng thể  có trong huyết tương của người nhóm máu O, gây hiện tượng đông máu dẫn đến tử vong. Chỉ máu của người có nhóm máu O mới truyền cho người có nhóm máu O được mà thôi. Qua tình huống này các em sẽ khắc sâu được kiến thức để có thể vận dụng được trong thực tiễn. Khi dạy bài 38: Bài tiết và cấu tạo hệ bài tiết nước tiểu Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 14 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 Ghép thận Giáo viên mở bài bằng một tình huống: Nam và Hà đang tranh luận với nhau về một vấn đề. Nam: Theo tớ nghĩ, mỗi người chúng ta đều có hai quả thận nên nếu tặng một quả thận cho người bị suy thận để cứu sống họ, thì cơ thể chúng ta vẫn bình thường. Hà: Tớ lại nghĩ khác, hai quả thận trong cơ thể mỗi người đều phải phối hợp với nhau trong việc lọc và thải các chất thừa, các chất độc hại. Nên nếu cho đi một quả thì cơ thể sẽ bị yếu đi rất nhiều, thậm chí có thể bị chết. Em đồng ý với quan điểm của bạn nào? Tại sao? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 38: Bài tiết và cấu tạo hệ bài tiết nước tiểu. Khi học phấn II- Cấu tạo của hệ bài tiết nước tiểu, giáo viên nhắc lại tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh trình bày quan điểm của mình. Sau đó, giáo viên chốt kiến thức: Ở người, mỗi quả thận có khoảng hơn một triệu đơn vị chức năng. Nên khi cơ thể chỉ còn một quả thận, nó sẽ tự điều chỉnh công suất để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ lọc như khi còn hai quả thận. Khi đó, để bù đắp quá trình xử lí chất thải thừa của quả thận đã mất, các đơn vị thận trong quả thận còn lại sẽ tăng kích thước lên. Vì thế sức khỏe của người hiến thận vẫn bình thường. Đây là một nghĩa cử cao đẹp của con người đang được xã hội quan tâm và ủng hộ. Khi dạy bài 40: Vệ sinh hệ bài tiết nước tiểu Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra một tình huống: Ban đêm Lan thường hay đi tiểu nhiều lần mà trời lại rất lạnh. Lan băn khoăn không dám nói với bố mẹ, may có Linh là bạn thân hay chơi với nhau, Lan liền tâm sự và được Linh mách cho một mẹo nhỏ đó là ít uống nước và nhịn đi tiểu. Vậy theo em, Linh nói như vậy là đúng hay sai? Để giải đáp câu Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 15 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 39: Bài tiết nước tiểu. Sau khi học phần II- Cần xây dựng các thói quen sống khoa học để bảo vệ hệ bài tiết nước tiểu tránh các tác nhân có hại, giáo viên nhắc lại tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh đưa ra suy nghĩ của mình. Qua việc chủ động tìm hiểu kiến thức các em sẽ dễ dàng chỉ ra được, cách mà Linh chỉ cho bạn Lan là sai khoa học vì nếu uống ít nước sẽ dẫn đến gây khó khăn cho cho quá trình bài tiết nước tiểu, bên cạnh đó nếu nhịn đi tiểu lâu làm tăng nguy cơ bị sỏi thận gây tắc nghẽn đường dẫn nước tiểu. Từ đó giúp các em hình thành được các thói quen sống khoa học để bảo vệ hệ bài tiết nước tiểu. - Giải pháp 3: Sử dụng các câu hỏi liên quan đến thực tế vào trong giảng dạy Các câu hỏi nảy sinh trong thực tế rất gần gũi với các em học sinh. Việc sử dụng các câu hỏi liên quan đến thực tế trong giảng dạy sẽ tạo cho các em hứng thú muốn tìm hiểu kiến thức bộ môn để có thể lí giải những vấn đề mà các em thường gặp, qua đó các em thấy môn học trở nên gần gũi và thiết thực và yêu thích môn học hơn. Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các câu câu hỏi liên quan đến thực tế vào giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 7: Bộ xương; bài 9: Cấu tạo và tính chất của cơ; bài 10: Hoạt động của cơ; bài 14: Bạch cầu- miễn dịch; bài 17: Tim và mạch máu; bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp; bài 24: Tiêu hóa và các cơ quan tiêu hóa; bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày; bài 28: Tiêu hóa ở ruột non…. Một số ví dụ cụ thể: Khi dạy bài 7: Bộ xương Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao khi bị chết đuối, xác của người phụ nữ khi nổi trên mặt nước thường nằm ngửa, còn xác của người đàn ông thường nằm sấp? Xác người phụ nữ thường nằm ngửa Giáo viên: Trịnh Thị Hiền Xác người đàn ông thường nầm sấp 16 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 7: Bộ xương, khi học phần ICác thành phần chính của xương, giáo viên nhắc lại câu hỏi ở phần mở bài và yêu cầu học sinh trình bày quan điểm của mình. Sau khi học sinh đưa ra các ý kiến, giáo viên chốt kiến thức: Ở phụ nữ, trọng tâm cơ thể thấp hơn so với đàn ông là do cấu tạo của khung xương chậu phát triển mạnh nên trọng lượng dồn về phía hông, mông và đùi. Vì vậy, phần thân dưới phía sau sẽ nặng hơn, do đó xác của phụ nữ bị chết đuối khi nổi trên mặt nước thường hay nằm ngửa. Còn ở đàn ông, có bộ ngực nở hơn, vai rộng hơn nên trọng tâm cơ thể dồn nhiều về phía trước của phần trên cơ thể. Vì thế, xác của người đàn ông chết đuối khi nổi trên mặt nước thường hay nằm sấp. Cũng từ đặc điểm này học sinh có thể giải thích được thắc mắc có trong thực tế như: Tại sao phụ nữ có thể đi giày cao gót được trong khi nam giới thì lại không?... Cũng trong bài này giáo viên có thể mở bài bằng câu hỏi khác: Tại sao một số người có thể thực hiện được các động tác uốn dẻo? Từ câu hỏi này sẽ tạo cho các em hứng thú muốn tìm ra kiến thức để trả lời thắc mắc của mình. Khi học phần III- Các khớp xương, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày quan điểm của mình. Sau khi học sinh đưa ra các ý kiến, giáo viên chốt kiến thức: Ở người bình thường, các dây chằng có khả năng nối các khớp xương lại với nhau, những sợi dây chằng co giãn nhẹ giúp khớp xương vận động. Nhưng ở một số ít người chẳng hạn như các nghệ sĩ uốn dẻo, dây chằng của họ qua luyện tập có khả năng co giãn tốt, cơ thể họ trở nên mềm dẻo, có thể thực hiện được các động tác uốn dẻo mà người bình thường không làm được. Khi dạy bài 9: Cấu tạo và tính chất của cơ Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao khi cơ co, bắp cơ ngắn lại và phình to ra? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 9: Cấu tạo và tính chất của cơ. Từ câu hỏi này sẽ khơi dậy hứng thú học tập cho các em, kích thích các em tìm hiểu kiến thức để tìm ra câu trả lời, các em sẽ chỉ ra được: Khi cơ co, các tơ cơ mảnh xuyên sâu vào vùng phân bố của tơ cơ dày làm cho bắp cơ ngắn lại và phình to ra. Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 17 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 Khi dạy bài 10: Hoạt động của cơ Bị “chuột rút” khi vận động nhiều Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao có hiện tượng “chuột rút” khi vận động nhiều? Khi học phần II- Sự mỏi cơ, giáo viên nhắc lại câu hỏi và yêu cầu học sinh giải thích, sau dó giáo viên chốt kiến thức: “Chuột rút” là hiện tượng bắp cơ bị co cứng, không hoạt động được. Nguyên nhân là do khi vận động quá nhiều, cơ thể ra nhiều mồ hôi, bị mất nước, thiếu ôxi, các tế bào cơ hoạt động trong điều kiện thiếu ôxi sẽ giải phóng nhiều axit lactic tích tụ trong cơ gây đầu độc cơ, làm ảnh hưởng đến hiện tượng co duỗi của cơ. Để hạn chế hiện tượng “chuột rút” chúng ta cần khởi động kỹ trước khi vận động. Khi dạy bài 14: Bạch cầu- miễn dịch Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 18 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi: Bệnh máu trắng có phải là bệnh máu có màu trắng không? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 14: Bạch cầu – miễn dịch. Khi học phần I- Các hoạt động chủ yếu của bạch cầu, giáo viên nhắc lại câu hỏi và yêu cầu học sinh đưa ra phương án trả lời, sau đó giáo viên chốt kiến thức: Bệnh máu trắng không phải là bệnh máu có màu trắng. Bệnh này liên quan đến bạch cầu là chủ yếu. Vì một lí do nào đó ( do di truyền, nhiễm độc..) tủy xương chỉ sản xuất ra các bạch cầu non không lớn lên được nên không thực hiện được chức năng của bạch cầu là chiến đấu bảo vệ cơ thể tránh khỏi các tác nhân có hại. Mặt khác các bạch cầu non này không chết đi, các bạch cầu non cứ thế sinh ra mãi, cứ ở tủy xương làm mất hết chổ của các tế bào bình thường nên người bệnh thường hay xanh xao, thiếu máu và chảy máu khó cầm, dễ nhiễm trùng. Khi các tế bào này đi vào máu gây ra nhiều tác hại khác, gây ung thư máu. Khi dạy bài 17: Tim và mạch máu Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi: Vì sao tim đập suốt đời sao không mỏi? Để giáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 17: Tim và mạch máu. Khi tìm hiểu phần III- Chu kì co dãn của tim, giáo viên nhắc lại câu hỏi và yêu cầu học sinh giải thích, sau đó giáo viên chốt kiến thức: Tim đập nhịp nhàng suốt đời kể từ tháng thứ 3, lúc thai trong bụng mẹ cho đến lúc ta nhắm mắt xuôi tay. Một chu kì tim kéo dài 0,8 giây, Pha tâm nhĩ co kéo dài chừng 0,1 giây, pha tâm thất co kéo dài chừng 0,3 giây. Như vậy cả giai đoạn co tim kéo dài 0,4 giây, sau đó cả tâm thất và tâm nhĩ đều nghỉ 0,4 giây. Tim đập suốt đời không mỏi vì thực ra, trong mỗi chu kì co tim, tâm nhĩ chỉ làm việc 0,1 giây nghỉ ngơi 0,7 giây ( làm việc 1 ngày, nghỉ ngơi 7 ngày), còn tâm thất làm việc 0,3 giây, nghỉ ngơi 0,5 giây ( làm việc 3 ngày, nghỉ ngơi 5 ngày). Do đó, cả tâm thất và tâm nhĩ đã hồi sức dễ dàng, nên có thể đập suốt đời không mỏi. Khi dạy bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 19 Trường THCS Nguyễn Trãi Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8 Giáo viên có thể mở bài bằng câu hỏi: Chắc hẳn các em đã có lần hắt hơi, vậy hắt hơi là hoạt động gì của cơ thể? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp. Khi tìm hiều phần II- Các cơ quan trong hệ hô hấp của người và chức năng của chúng, giáo viên nhắc lại câu hỏi ở đầu bài và yêu cầu học sinh giải thích, qua tìm hiểu kiến thức học sinh sẽ chỉ ra được hắt hơi là một phản xạ hô hấp của cơ thể nhằm loại bỏ vật lạ hay khí lạ lọt vào đường hô hấp. Khi dạy bài 24: Tiêu hóa và các cơ quan tiêu hóa Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi: Tại sao khi ăn vừa nói, vừa cười lại hay bị sặc? Sau khi tìm hiểu kiến thức phần II- Các cơ quan tiêu hóa, học sinh sẽ chỉ ra được khi nuốt vừa nói, vừa cười làm cho nắp thanh quản không đậy kín được khí quản, thức ăn có thể lọt vào đường dẫn khí làm ta bị sặc. Khi dạy bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày Giáo viên có thể mở bài bằng câu hỏi: Tại sao prôtêin trong thức ăn bị dịch vị phân hủy nhưng prôtêin của lớp niêm mạc dạ dày lại được bảo vệ, không bị phân hủy? Sau khi tìm hiểu kiến thức học sinh sẽ chỉ ra được: Trong dạ dày có enzim pepsin có khả năng phân hủy prôtêin rất mạnh, nhưng lớp niêm mạc của dạ dày vẫn được bảo vệ, không bị ăn mòn là vì mặt trong của dạ dày được lót một lớp niêm mạc. Lớp niêm mạc tiết chất nhầy bảo vệ phủ kín cả bề mặt niêm mạc ngăn chặn tác dụng tiêu hóa của pepsin. Khi dạy bài 28: Tiêu hóa ở ruột non Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi: Vì sao người ta nói, người bị mắc các bệnh về gan thì khả năng tiêu hóa kém? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu bài 28: Tiêu hóa ở ruột non, sau khi tìm hiểu kiến thức học sinh chỉ ra được: Dịch mật do gan tiết ra, tạo môi trường kiềm giúp đóng mở cơ vòng môn vị, điều khiển thức ăn từ dạ dày xuống ruột, góp phần tiêu hóa và hấp thụ mỡ. Nên nếu gan bị mắc bệnh sẽ làm giảm khả năng tiết mật, từ đó làm giảm khả năng tiêu hóa thức ăn. - Giải pháp 4: Sử dụng các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào trong giảng dạy Các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ…được cha ông ta đúc kết lại qua nhiều thế hệ trên cơ sở khoa học. Hơn thế nữa đó lại là những vấn đề hết sức gần gũi với cuộc sống hằng ngày của học sinh. Việc sử dụng các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ…trong giảng dạy làm cho các em cảm thấy môn Sinh học rất gần gũi, thân quen, từ đó tạo được hứng thú học tập, nâng cao chất lượng bộ môn cho học sinh. Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ…vào giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 25: Tiêu hóa ở ruột non; bài 30: Vệ sinh tiêu hóa; bài 33: Thân nhiệt; bài 47: Đại não; bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện; bài 54: Vệ sinh hệ thần kinh… Một số ví dụ cụ thể: Khi dạy bài 25: Tiêu hóa ở khoang miệng Giáo viên: Trịnh Thị Hiền 20 Trường THCS Nguyễn Trãi
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan