Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Lớp 2 Skkn một số kinh nghiệm giúp học sinh dân tộc thiểu số học tốt phân môn tập đọc ...

Tài liệu Skkn một số kinh nghiệm giúp học sinh dân tộc thiểu số học tốt phân môn tập đọc lớp 2

.DOC
24
333
145

Mô tả:

A - ĐẶT VẤN ĐỀ: Mục đích của quá trình dạy học ở bậc tiểu học là cung cấp trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã hội. Mục đích đó được hình thành thông qua việc đổi mới chương trình nội dung và phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, nhằm phát huy tư duy sáng tạo, tính độc lập suy nghĩ của các em để đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực và nhân tài cho đất nước để từng bước tiếp cận trình độ giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở. Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản (nghe, nói, đọc, viết và tính toán) của học sinh ở tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc đời của mỗi con người. Học sinh tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng tự học, sáng tạo. Như vậy, giáo dục tiểu học là nền tảng của sự hình thành nhân cách và sự phát triển toàn diện của con người. Đặc biệt là môn Tiếng việt ở Tiểu học có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Vì nó có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ của học sinh nhất là vùng khó khăn, dân tộc thiểu số. Với yêu cầu ngày càng cao của xã hội về chất lượng nhân lực để phát triển đất nước đòi hỏi ở học sinh khả năng tiếp nhận thông tin, một lượng kiến thức, kĩ năng rất lớn và đa dạng: kiến thức toán học, tự nhiên và xã hội, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sống,... Vì thế với một lượng kiến thức cơ bản nhất của chương trình, đã được phân bổ cho nhiều phân môn khác nhau, người giáo viên là người tổ chức hướng dẫn giúp học sinh tự học, tự hoạt động để chiếm lĩnh tri 1 thức đó. Tuỳ theo đặc trưng của từng phân môn mà giáo viên chọn các phương pháp, hình thức dạy học khác nhau. Tập đọc là phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhât của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc của học sinh được tạo nên từ bốn kĩ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của "đọc": đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chgúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sữ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ: Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và đọc diễn cảm được. Nhiều khi khó mà nói được rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy học phân môn tập đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào. Trong khi đó ở trường Tiểu học việc dạy phân môn Tập đọc cho học sinh ở một số nơi nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số hiện nay chưa đáp ứng được theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bậc học. Kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Các em chưa nắm được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, tư tưởng, tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản được đọc. Đặc biệt là dạy học ở vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số việc dạy học cho học sinh biết đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu văn bản và đọc diễn cảm cũng là một việc khó khăn đối với với học sinh học ở mức độ trung bình trở lên. Mà điều tôi băn khoăn và trăn trở chính là việc dạy cho học sinh biết đọc 2 đúng, đọc nhanh (không ảnh hưởng phương ngữ) và đọc hiểu, giao tiếp tốt bằng tiếng Việt là một điều rất khó khăn (đối với học sinh dân tộc Khơ – mú ở địa bàn bản Xốp Kha, xã Yên Hoà, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An). Là giáo viên trực tiếp giảng dạy tại lớp 2C trường Tiểu học Yên Hoà I (bản Xốp Kha, học sinh 100% là dân tộc Khơ-mú), có nhiều học sinh đọc yếu về: chưa nhận diện được mặt chữ, đọc chậm, đọc dịch, ảnh hưởng phương ngữ rất lớn, phát âm sai các vần khó như: ia/uyên/iên, ăt/ ăc/ ăp, các dấu thanh sắc/ngã, nặng/hỏi, ... Cho nên việc các em tiếp thu, lĩnh hội các kiên thức, kĩ năng là một điều hết sức khó khăn, nan giải. Vì thế bản thân tôi cũng đang trăn trở với một địa bàn khó khăn như vậy, với lượng thời gian quy định cho tiết dạy là 40 - 45phút/tiết, nhưng để trong bất kỳ tiết học nào cũng đảm bảo được rèn cách đọc cho học sinh như: chữa lỗi phát âm, giúp các em đọc đúng, đọc lưu loát và hiểu được văn bản để giờ dạy đạt được hiệu quả cao, nâng cao chất lượng đọc cho học sinh vùng dân tộc thiểu số, đó là một vấn đề nan giải. Với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh lớp 2 vùng dân tộc thiểu số, bản thân tôi biết đã dùng biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập đọc cho học sinh trong năm học 2011-2012 và đúc kết: "Một số kinh nghiệm giúp học sinh dân tộc thiểu số học tốt phân môn Tập đọc lớp 2 ". B - NỘI DUNG 3 I - NGUYÊN NHÂN HỌC SINH CHƯA HỌC TỐT PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 2: Qua trực tiếp giảng dạy trên lớp, bản thân tôi nhận thấy một số nguyên nhân, thực trạng và khó khăn ở địa bàn xã Yên Hoà nói chung và lớp 2C bản Xốp Kha nói riêng như sau: 1. Cái khó nhất ở đây là bất đồng ngôn ngữ (Học sinh giao tiếp bằng tiềng phổ thông rất hạn chế, một số em không giao tiếp được bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc Thái rất hạn chế) nên rất khó trong việc giao tiếp, truyền đạt kiến thức, kĩ năng cho học sinh. 2. Các em sống trên địa bàn đi lại khó khăn về giao thông, sống ở một thôn bản biệt lập, sự giao lưu với môi trường xung quanh hầu như không có (nhất là giao tiếp bằng tiếng phổ thông), hầu hết người dân nơi đây giao tiếp với nhau chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ (tiếng dân tộc Khơ - mú); vả lại học sinh ở bản Xốp Kha (Trường tiểu học Yên Hoà 1) không hiểu cả tiếng dân tộc Thái nên rất khó cho giáo viên trong việc truyền đạt thông tin bài dạy. 3. Đa số học sinh thuộc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế. Phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của các em, phụ huynh học sinh phó mặc con em cho giáo viên. 4. 90% các em đọc sai dấu thanh, nặng về phương ngữ, đọc sai từ còn nhiều. Chẳng hạn: Các tiếng không có dấu thì các em đọc thêm dấu, có dấu thì đọc không có dấu. Ví dụ: voi nhà thì đọc là vòi nha, con rắn đọc là con răn,... 5. Một số học sinh phát âm chưa tốt nhất là tiếng phổ thông, nên khi nói, đọc thường đọc quen với phương ngữ. 6. Khi dạy giáo viên sửa sai cho các đối tượng học sinh còn hạn chế, nhất là học sinh yếu. Giáo viên dường như "bỏ quên" đối tượng học sinh yếu, vì các em học sinh đọc chậm, đọc sai từ nhiều, trả lời ngắc ngứ làm ảnh hưởng đến thời lượng của tiết học. 4 7. Một số giáo viên chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của việc đọc mẫu, đọc còn sai nhiều, khi hướng dẫn kĩ thuật đọc chưa hướng dẫn tỉ mỉ, tận tình cho học sinh, nhất là học sinh yếu. 8. Giáo viên không hiểu và không giao tiếp được bằng tiếng dân tộc Khơmú nên rất khó khăn trong khi dạy học, truyền đạt nội dung hay trao đổi một vấn đề nào đó. Cụ thể: 1. Về học sinh: - Thực tế cho thấy chất lượng đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kỹ năng đọc. Những học sinh do mang âm hưởng của tiếng địa phương nên phát âm còn sai lỗi chính tả. Các em còn đọc sai chính âm, đặc biệt sai nhiều đối với phụ âm đầu như : s/x; ch/tr; d/r và các vần ia/ay, ơm/âm, iu/ ưu; iêu/ ươu. - Một số em còn đánh vần, đọc nhỏ, đọc lí nhí, đọc chưa đúng các tiếng có vần khó: uyên, oan, uông, ăt/ăc/ăp,... còn bỏ sót tiếng hoặc thêm tiếng; bỏ dấu thanh hoặc thêm dấu thanh một cách tuỳ tiện. - Do còn chưa mạnh dạn nên đọc phân biệt các lời của nhân vật trong bài chưa đạt yêu cầu, còn đọc với giọng đều đều. - Do các em vừa học ở lớp 1 lên, do đó kỹ năng đọc của các em còn chậm, chưa đạt yêu cầu, một số em chưa nhận diện được mặt chữ cái vì hổng kiến thức phần học vần ở lớp 1. - Ở nhà các em không học bài, không ôn lại nội dung bài học ở lớp nên cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập nói chung và chất lượng đọc nói riêng. 2. Về giáo viên: - Một số giáo viên chưa chú trọng phối hợp rèn các kỹ năng đọc dẫn đến chưa đạt được mục tiêu dạy học như mong muốn. - Việc phân bố thời gian trong tiết tập đọc còn chưa hợp lý, chưa nắm được trọng tâm của tiết tập đọc. 5 - Sử dụng các biện pháp dạy học chưa thật sự linh hoạt trong việc phối kết hợp các phương pháp dạy học và thay đổi hình thức dạy học nên dẫn đến giờ học trầm và không có hiệu quả cao. - Nhiều giáo viên không đầu tư nhiều cho việc xây dựng kế hoạch bài dạy, nên các định hướng trong giờ học còn chung, mang nặng tính hình thức. - Điều kiện giảng dạy của giáo viên, của trường còn gặp nhiều khó khăn như cơ sở vật chất (điện thắp sáng, bàn ghế, bảng,...) chưa đạt yêu cầu, đồ dùng phục vụ môn học chưa đầy đủ. Trên đây là một số nguyên nhân và thực trạng trong giờ học tập đọc mà tôi thường gặp phải ở trường khi trực tiếp giảng dạy. Trong năm học 20112012, tôi được nhà trường phân dạy lớp 2C, tôi đã có kế hoạch và tiến hành khảo sát chất lượng học sinh đầu năm học. *Kết quả khảo sát đọc đầu năm học 2011-2012 đạt kết quả như sau: Bảng đối chứng (đọc) Tổng số HS 11 Kết quả khảo sát Giỏi Khá TB SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 0 0 2 18,2 4 36,3 2 18,2 3 27,3 Yếu Kém II - MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 2 : Mục đích yêu cầu của môn học gồm có luyện đọc thành tiếng và luyện đọc hiểu. 1. Luyện đọc thành tiếng: 6 Bao gồm: Luyện đọc to, luyện đọc đúng, luyện đọc nhanh. Đối với học sinh lớp 2 cần chú ý khâu luyện đọc đúng và luyện đọc nhanh. Vì luyện đọc nhanh thì chắc chắn học sinh phần lớn có đọc được đúng, không ê - a ngắc ngứ thì mới luyện đọc được nhanh (tốc độ đọc vừa phải, đạt yêu cầu 50 tiếng/phút), không thể nói ai đó đọc hay, đọc nhanh mà trong quá trình đọc lại phát âm chưa chuẩn, ngắt nghỉ chưa đúng chỗ. Vậy luyện đọc đúng là tiền đề cho luyện đọc nhanh. 2. Luyện đọc hiểu: Đọc hiểu chính là hình thành cho học sinh các kỹ năng: - Kỹ năng nhận diện ngôn ngữ (Phát hiện từ mới và phát hiện ra cái quan trọng trong bài đọc, nhận ra các câu khó hiểu và các câu quan trọng của bài đọc). - Kỹ năng làm rõ nghĩa (kỹ năng làm rõ từ, nội dung bài). - Kỹ năng hỏi đáp để học sinh phân tích hiểu rõ nội dung bài. Để đạt được các yêu cầu trên tôi xin mạnh dạn trình bày một số điểm cần lưu ý trong khi dạy môn tập đọc. a. Đọc mẫu: (Gọi là đọc giới thiệu) chính là đọc lần thứ nhất. - Mục đích: Đưa ra mẫu đọc thành tiếng. Đây chính là cái đích mẫu hình thành kỹ năng đọc mà học sinh cần đạt được. Đồng thời giáo viên dùng giọng đọc mẫu để cho học sinh có biểu tượng ban đầu về nội dung văn bản. - Khi đọc mẫu giáo viên cần chú ý: Đọc đúng, đọc chuẩn rõ ràng, trôi chảy, diễn cảm. Tuỳ từng văn bản mà giáo viên thể hiện nét mặt, điệu bộ... khác nhau làm thế nào để hoà mình vào văn bản. Bước đọc mẫu nó rất quan trọng vì cách tiếp xúc trực tiếp, gây ấn tượng ban đầu cho học sinh. Trong khi đọc giáo viên cần thỉnh thoảng nhìn học sinh để tạo sự giao cảm thu hút học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài "Bím tóc đuôi sam" Tiếng việt 2 tập 1. 7 - Khi đọc mẫu giáo viên đọc lời kể chuyện chậm rãi, giọng Hà ngây thơ, hồn nhiên, giọng Tuấn ở cuối bài lúng túng nhưng đáng yêu "Tớ xin lỗi vì lúc nãy kéo bím tóc của bạn". - Giọng các bạn gái hồi hởi "Ái chà chà? Bím tóc đẹp quá" (Đọc nhanh, cao giọng ở lời khen). - Giọng thầy giáo vui vẻ, thân mật "Đừng khóc, tóc em đẹp lắm!" "Thật chứ!" (Nhấn giọng từ khẳng định). b. Luyện đọc thành tiếng và tìm hiểu bài: - Mục đích: Học sinh đọc đúng như mẫu và hiểu nội dung - Hình thức thực hiện: Học sinh đọc cá nhân, đọc theo nhóm, trả lời câu hỏi và làm bài tập, thảo luận. Giáo viên hướng dẫn học sinh cả hai hình thức đọc thành tiếng và đọc thầm từ ngữ, câu, đoạn, bài. Đồng thời với luyện đọc thành tiếng, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài, phát hiện các từ quan trọng, những từ mới, câu cần giải nghĩa, các hình ảnh, các chi tiết tiêu biểu để từ đó học sinh nắm được nội dung của bài, sao cho việc đọc đúng giúp cho hiểu đúng và sự thông hiểu nội dung sẽ chi phối tạo ra cách đọc có chất lượng tốt. Để đạt được điều đó giáo viên cần lưu ý trong quá trình dạy học học sinh đọc theo nhóm hay cá nhân giáo viên cần "Biết nghe học sinh đọc" để có cách dạy thích hợp. Bởi các văn bản trong SGK rất đa dạng. Có những văn bản thì chú ý đối tượng luyện đọc câu rất nhiều vì trong văn bản có nhiều từ học sinh khó đọc, dẫn đến chiếm nhiều thời gian. Nhưng có những văn bản chú ý luyện đọc đoạn, bài nhiều hơn để giúp các em chuyển đọc nhanh, đọc diễn cảm. Vì các từ học sinh đã đọc trôi chảy. Không nhất thiết thời gian rập khuôn cho các bước trong một tiết dạy. Chẳng hạn khi dạy bài "Quà của bố" (Tiếng việt 2 tập 1 trang 106). Ở bài này có nhiều từ khó đọc, khi luyện đọc câu theo nhóm nhiều học sinh đã phát hiện ra các từ khó đọc các em thường đọc sai đó là: dưới nước (đọc giới 8 nước), niềng niễng (đọc niềng niếng), quấy toé nước (đọc quây toe nươc), cánh xoăn (đọc canh xoăn), mốc thếch (mộc thệch) ngó ngoáy (đọc ngo ngoay)... Khi dạy bài này giáo viên phải chú trọng bước luyện đọc câu, phải cho các em luyện đọc cá nhân, tổ, nhóm nhiều lần về các từ khó này. Nếu cần giáo viên phân tích một số từ cho học sinh nhận thấy, hoặc phân biệt cho học sinh biết dấu ngã, dấu nặng mà học sinh thường đọc sai nhất là học sinh yếu, bộ máy phát âm chưa chuẩn. Khi thấy các em đọc đúng rồi giáo viên có thể chuyển sang các bước khác với lượng thời gian ngắn hơn, về nhà các em có thể luyện đọc tiếp dựa trên cơ sở đã luyện đọc đúng từ ngữ. - Khi dạy bài tập đọc "Mẹ" văn bản thơ (Tiếng việt 2 Tập 1 trang 101): Khi dạy bài này qua bước luyện đọc câu tôi thấy học sinh phần lớn đọc đúng. Học sinh chỉ phát hiện ra từ khó đọc: "Kẽo cà", ở bài này giáo viên có thể đi nhanh bước luyện đọc câu mà chuyển sang bước luyện đọc đoạn, bài. Giáo viên chú trọng luyện đọc đoạn nhiều vì trên cơ sở học sinh đã đọc đúng. Giáo viên hướng dẫn các em đọc nhanh, chuyển sang đọc diễn cảm. Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh cách ngắt nghỉ các dòng thơ, nhịp thơ và nhấn giọng một số từ giáo viên cần giải thích cho học sinh rõ vì sao lại phải nhấn giọng các từ đó. Ví dụ: Lặng rồi/cả tiếng con ve/ Con ve cũng mệt/vì hè nắng oi//. Những ngôi sao/thức ngoài kia/ Chẳng bằng mẹ/đã thức vì chúng con// Sau khi ngắt nghỉ đúng các dòng thơ giáo viên hướng dẫn học sinh đọc, trong khi đọc học sinh tự tìm ra từ khó hiểu (từ mới) từ cần giải nghĩa, giáo viên hướng dẫn học sinh giải nghĩa qua tranh ảnh, qua sự vật... Hiểu được cách đọc, nghĩa từ đó giúp các em luyện đọc diễn cảm. 3. Tìm hiểu nội dung bài đọc: - Mục đích: Giúp học sinh hiểu nội dung văn bản 9 - Hình thức thực hiện: Giáo viên nêu câu hỏi, gợi ý dẫn dắt học sinh thảo luận nêu ra ý kiến đúng để hiểu văn bản. - Khi dạy giáo viên cần chú ý nêu câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, ngắt các câu hỏi dài thành nhiều câu hỏi phụ, câu hỏi logíc với nội dung đoạn, bài. Cần gợi mở cho học sinh, nhất là học sinh yếu, khuyến khích giúp đỡ học sinh yếu vì phần lớn học sinh yếu thường rụt rè ít phát biểu, sợ nói không đúng. Lần đầu nếu chưa trả lời được giáo viên cần cho các em nêu lại lời của bạn khá đã trả lời đúng. Cứ như thế cho những bài tập đọc sau thì đối tượng học sinh này sẽ tăng tính mạnh dạn, tính chú ý theo dõi trong giờ học và sự chuẩn bị ở nhà của học sinh cao hơn. Qua tìm hiểu việc rèn luyện kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 2 tôi thấy rằng yêu cầu về việc rèn luyện kĩ năng đọc hiểu cho học sinh còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế cả về giáo viên, cũng như học sinh nên việc dạy học còn đơn điệu chủ yếu là dạy hỏi đáp giữa thầy và trò. Hệ thống câu hỏi để dẫn dắt, hướng dẫn học sinh đọc hiểu nội dung bài còn mang tính hình thức. Vì vậy để giờ tập đọc thêm sinh động và đạt hiệu quả cao tôi đã xây dựng hệ thống bài tập nhằm rèn luyện cho các em kĩ năng đọc hiểu. Bài 1: Khoanh tròn vào ý trả lời đúng. Qua bài tập đọc : “Mẩu giấy vụn” em thấy mẩu giấy nói với chúng em: a. Mẩu giấy còn dùng được việc sao lại vứt đi. b. Các bạn học sinh đừng vứt giấy ra lớp. c. Hãy nhặt bỏ vào sọt rác. Bài 2: Khoanh tròn vào ý trả lời đúng: Hai bố con bé Hà chọn ngày lập đông làm “Ngày ông bà” vì: a. Ngày lập đông trời rất rét. b. Khi bắt đầu rét, mọi người cần chăm lo sức khỏe cho các cụ già. c. Vì ông bà gợi ý như thế. Bài 3: Đọc bài bé Hoa nối câu trả lời phù hợp với câu hỏi: 10 Em Nụ ở nhà như thế nào? Môi em Nụ như thế nào? Gia đình bé Hoa sống như thế nào? Gia đình bé Hoa rất thương yêu nhau. Em Nụ ở nhà rất ngoan. Môi em Nụ đỏ hồng. Bài 4: Em cảm nhận được điều gì trong cách dùng từ tả loài hoa và tả các loài chim trong bài: “Mùa xuân đến”. Đánh dấu x vào ý trả lời đúng:  Giúp em cảm nhận được hương vị riêng của mỗi loài hoa và vẻ riêng của mỗi loài chim.  Giúp em cảm thấy mùa xuân đến có rất nhiều loài chim bay tới. 4. Luyện đọc diễn cảm: Đối với học sinh lớp 2 mức độ yêu cầu đọc diễn cảm chưa cao như học sinh lớp 4, 5 nhưng đối với học sinh khá đã biết cách đọc đúng rồi, khi dạy giáo viên cần phát huy mức độ đọc của học sinh để học sinh tự sửa chữa cách đọc của mình chuyển sang đọc diễn cảm. Giáo viên cần chọn ra những đối tượng đọc tốt, đọc hay để đọc mẫu cho học sinh này, đọc thầm theo dõi tập giọng đọc của bạn hoặc của người giáo viên nhất là câu có dấu chấm hỏi, dấu chấm cảm... lời của các nhân vật cần lên giọng, hạ giọng như thế nào? Để từ đó người đọc tìm ra cách đọc cho mình. Ví dụ: Khi đọc bài "Quả tim khỉ" (Tiếng việt 2 Tập 2 trang 50). - Bạn là ai? // Vì sao bạn khóc? // (Cao giọng cuối câu hỏi, thể hiện giọng lo lắng, quan tâm). - Tôi là cá sấu.// Tôi khóc vì chẳng ai chơi với tôi.// (Thể hiện giọng đọc buồn tủi thân). Phần thi đọc: Mục đích: Qua thi đọc rèn tư duy linh hoạt và tác phong linh hoạt, tháo vát, mạnh dạn, tự tin cho học sinh, đồng thời giáo dục tư tưởng lành mạnh, tình cảm tốt đẹp cho các em. Khi dạy tổ chức thi đọc giáo viên cần chú ý: 11 + Đối với thi đọc sau phần luyện đọc thành tiếng, đọc thầm xong qua mỗi bài dạy giáo viên cần tổ chức nhiều cách thi đọc khác nhau như thi đọc nhanh giữa nhóm tổ, phần này tuy khó kiểm soát nhưng giáo viên và học sinh cần chú ý kỹ để nhận xét cho đúng. Còn tổ chức thi đọc giữa cá nhân với cá nhân thì trong một tiết học chỉ tổ chức được một số đối tượng đại diện của nhóm. Tuy nhiên tính hiếu động của học sinh lúc nào cũng thích thắng hơn thua nên thường cử bạn khá. Để tránh được điều này giáo viên nên yêu cầu thi là đối tượng ngang sức nhau và giáo viên cần có một sổ tay theo dõi để đối tượng nào cũng được thi trong quá trình học. + Phần thi đọc cuối bài (phần củng cố). Đây là bước kiểm tra kết quả của học sinh sau một tiết học tập đọc xem mức độ đọc của học sinh đến đâu để có điều kiện hướng dẫn học sinh đọc thêm ở nhà. + Để đọc tốt bài trước khi thi đọc phần này giáo viên cần cho học sinh nêu lại cách đọc văn bản qua tiết học như để đọc cần lưu ý điều gì? Đối với văn bản truyện khi đọc bài cần chú ý gì? (phụ thuộc vào từng bài để nêu các nhân vật để phân vai). - Giáo viên đọc mẫu lần 2 hoặc cho một đối tượng đọc hay của lớp đọc để học sinh nhận xét. + Đối với văn bản hành chính nên cho học sinh thi đọc đoạn, cả bài dưới hình thức tiếp sức. + Đặc biệt đối với văn bản truyện để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học giáo viên cần chuẩn bị trước đồ dùng phù hợp với từng vai để học sinh đóng vai được tốt. Hơn nữa tạo điều kiện giúp cho học sinh yếu dễ nhận ra các vai trong truyện để tiết học sau các em cũng thích đóng vai để được đọc. Ví dụ: Khi đọc bài "Bác sỹ Sói" (Tiếng việt 2 Tập 2 trang 41). Khi đọc bài này cần 3 vai (người dẫn truyện, bác sỹ Sói, Ngựa). 12 - Giáo viên cho học sinh đóng vai: Một bạn đóng vai làm người dẫn chuyện, một bạn đóng vai bác sỹ Sói mặc quần áo trắng trên đầu đội một cái mũ (Tượng trưng bác sỹ), một bạn đóng vai ngựa giả bộ làm đau chân. Sau đó học sinh tự nhập vai mình vào ba nhân vật để đóng vai và tuỳ từng văn bản mà giáo viên chuẩn bị đồ dùng để cho học sinh đóng vai cho phù hợp (Lưu ý đồ dùng chỉ tượng trưng không nhất thiết cầu kỳ). - Tuy nhiên những học sinh yếu lần đầu đóng vai, các em còn lúng túng đọc nhầm lẫn các vai, giáo viên cần kiên trì sửa cho các em, tuyệt đối không được phê bình, chê trách... mà luôn động viên khuyên khích các em để lần sau các em mạnh dạn hơn, có lòng tự tin hơn trong quá trình học. Việc phân vai trong một tiết tập đọc là một bước rất quan trọng không những phục vụ cho giờ tập đọc mà còn làm cho cho học sinh giao tiếp tốt hơn. - Đối với văn bản thơ: Khi dạy giáo viên cần chú ý các kiểu bài thơ khác nhau mà tổ chức cho học sinh thi đọc dưới nhiều hình thức khác nhau. Đây là các bài thơ yêu cầu học sinh học thuộc lòng nên giáo viên tổ chức cho học sinh thi đọc thuộc thuộc lòng nên giáo viên tổ chức cho học sinh thi đọc thuộc thuộc tiếp sức, trò chơi truyền điện hoặc thi thả thơ. Giáo viên viết vào các phiếu câu thơ đầu mỗi khổ hoặc giữa khổ thơ hoặc 1-2 từ đầu mỗi dòng thơ trong bài thơ. * Đối với những em đọc khá, giỏi tôi đặt mức độ rèn luyện kỹ năng đọc cao hơn đó là: Đọc to, đọc đúng, biết làm chủ “tia mắt” khi đọc để đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm, biết đọc ngắt hơi sau dấu phẩy dấu hai chấm và ngắt hơi giữa các cụm từ có câu dài, nghỉ hơi sau dấu chấm, đọc cao giọng ở các câu có dấu chấm hỏi, dấu chấm than, biết đọc theo lối phân vai khi dạy bài ở thể loại truyện có nhân vật. Ví dụ: Khi luyện đọc câu dài trong bài "Phần thưởng" * Luyện đọc đúng: Giáo viên hướng dẫn học sinh cách đọc nhấn giọng (-), đọc ngắt hơi giữa cụm từ (/) Mẹ của Na lặng lẽ/chấm khăn lên đôi mắt đỏ hoe// 13 * Khi luyện đọc bài "Bím tóc đuôi sam" giáo viên cần hướng dẫn kỹ càng đọc nghỉ hơi (//) và đọc đúng lời từng nhân vật ở dấu gạch ngang đầu dòng. * Luyện đọc hiểu (đọc có ý thức, giáo viên hướng dẫn các em đọc hiểu từ bằng cách đặt câu, tìm từ cùng nghĩa, trái nghĩa, hiểu nghĩa từ qua cử chỉ, ánh mắt, hành động… Ví dụ: Khi giải nghĩa từ "tốt bụng" trong bài "Phần thưởng" giáo viên cho các em đặt câu rồi cho học sinh kể về việc làm của Na và giúp các em hiểu việc làm ấy là tốt bụng. Hoặc khi giảng từ "lặng lẽ" yêu cầu học sinh tìm từ cùng nghĩa là "yên lặng" từ đó học sinh hiểu nghĩa từ đó là: không nói gì. Khi dạy bài "Bạn của Nai nhỏ" cách tổ chức cho học sinh giải nghĩa từ "ngăn cản" "hích vai". Giải nghĩa từ: “Ngăn cản”: Một học sinh đọc chú giải sách giáo khoa sau đó giáo viên đặt câu hỏi. Trong câu "cha không ngăn cản con" ý của Nai bố là gì? Hích vai: Một học sinh đọc chú giải rồi đưa ra một vật tượng trưng cho hòn đá và đề nghị một học sinh lên làm động tác thể hiện hành động hích vai của bạn của Nai nhỏ. Ngoài hiểu nghĩa từ giáo viên cần cho học sinh làm quen tìm nội dung chính của từng đoạn trong bài. Ví dụ: Khi dạy bài tạp đọc theo thể loại truyện "Sáng kiến của bé Hà" (Tiếng Việt 2 trang 78). Sau phần tìm hiểu bài giáo viên tổ chức cho học sinh đặt tên cho mỗi đoạn: + Chọn ngày lễ + Bí mật của hai bố con + Niềm vui của ông bà. * Luyện đọc nhanh: 14 Biện pháp luyện đọc nhanh: Giáo viên "cầm càng" giữ nhịp cho học sinh đọc theo mẫu, cho học sinh đọc nối tiếp luyện đọc các câu dễ bị nói lịu, nặng phương ngữ. * Luyện đọc diễn cảm: Qua nội dung chính của bài đọc giáo viên đọc mẫu giúp học sinh xác định giọng đọc chung của cả bài: nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi, ngợi ca, trầm lặng, buồn thương… nhịp điệu của bài nhanh, chậm, hơi chậm… để các em đọc hay. * Luyện đọc cho những em hay đọc sót tiếng và lạc dòng. Giáo viên luyện cho các em làm chủ tia mắt khi đọc. Giáo viên phải quay lại với việc sử dụng que trỏ và thước hoặc cho học sinh đặt thước trước từng dòng để đọc, khi học sinh làm quen và làm chủ được tia mắt rồi thì giáo viên không dùng que chỉ và học sinh không dùng ngón tay để chỉ khi đọc nữa tránh tình trạng đọc như đếm từng tiếng một. * Luyện đọc chính âm cho những học sinh hay đọc sai (s/x…?/~/.) Giáo viên cần uốn nắn ngay và cho các em đọc lại. Ví dụ: Khi các em phát âm sai "s" thành "x" giáo viên cần hướng dẫn học sinh "s" là đưa hàm dưới ra và cong lưỡi vào. Khi đọc sai các dấu thanh do ảnh hưởng của địa phương, một số em đọc thanh (ngã, thành thanh sắc), thì giáo viên cần phải hướng dẫn cách đọc thanh (ngã) là đọc cao giọng và lấy hơi kéo dài hơn. Sau đó giáo viên đọc mẫu yêu cầu học sinh luyện đọc nhiều lần. Từ những giải pháp trên, tôi đã cụ thể hoá giải pháp qua bài tập đọc như sau: Thiết kế: Tập đọc SÔNG HƯƠNG 15 I. MỤC TIÊU: Đọc: Đọc trơn được cả bài, đọc đúng các từ khó dễ lẫn. Nghỉ hơi đúng sai dấu chấm, dấu phẩy, giữa các cụm từ. Đọc bài với giọng chậm rãi, ngưỡng mộ vẻ đẹp của Sông Hương. Nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả gợi cảm. Hiểu: Hiểu ý nghĩa của các từ mới từ chốt sắc độ, đặc ân, lụa đào, bức tranh phong cảnh, lung linh dát vàng, đặc ân. Hiểu nội dung bài: Tác giả miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, luôn biến đổi của Sông Hương, một đặc ân mà thiên nhiên dành cho xứ Huế. Qua đó chúng ta thấy tình yêu thương của tác giả dành cho xứ Huế. II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC: Tranh minh hoạ bài tập đọc trong sách giáo khoa phóng to, một vài tranh (ảnh) về cảnh đẹp ở Huế. Bảng phụ ghi sẵn câu cần luyện đọc. III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Hoạt động dạy A. Kiểm tra bài cũ Hoạt động học Gọi 2 em đọc bài: Tôm càng và cả cón Hai học sinh lên bảng nối tiếp nhau đọc bài (mỗi em đọc 2 đoạn) ? Qua bài đọc em thấy Tôm càng có đức - Tôm càng rất thông minh, nhanh tính gì đáng quý? nhẹn. Nó dũng cảm cứu bạn và luôn -Nhận xét cho điểm học sinh quan tâm lo lắng cho bạn. B. Bài mới 1. Giới thiệu bài Ghi tên bài lên bảng 2. Luyện đọc Theo dõi và đọc thầm theo a) Giáo viên đọc mẫu bài: giọng đọc nhẹ nhàng, thán phục vẻ đẹp của Sông Hương b) Luyện phát âm 16 Gọi học sinh nối tiếp nhau đọc bài Học sinh nối tiếp nhau đọc bài - Giáo viên lưu ý học sinh luyện đọc đúng các từ khi mà học sinh phát âm sai. Học sinh luyện đọc lại các từ khó phát âm sai. Chẳng hạn: Bao trùm, những bãi - Giáo viên đính câu dài lên bảng: ngô, phượng vĩ…. Bao trùm lên cả bức tranh/là một màu xanh/Có nhiều sắc độ đậm khác nhau/màu Học sinh luyện đọc đúng câu dài sanh thẳm của da trời/màu xanh biếc của cây lá/màu xanh non của những bãi ngô, thảm cỏ in trên mặt nước// c) Luyện đọc đoạn * Đọc đoạn trước lớp: Giáo viên chia bài làm 3 đoạn Đoạn 1: Từ đầu đến mặt nước Đoạn 2: Mỗi mùa hè tới đến dát vàng. Dùng bút chì đánh dấu đoạn Đoạn 3: Phần còn lại - GV cho HS đọc nối tiếp câu. Nối tiếp nhau đọc đoạn (HS yếu chỉ - GV chú ý sửa lỗi phát âm và giải nghĩa đọc câu) từ. Nhận xét bạn đọc + Luyện đọc đoạn trong nhóm - GV lưu ý tới HS yếu. Luyện đọc trong nhóm mối em đọc d) Thi đọc mỗi đoạn. Giáo viên tổ chức cho các nhóm thi đọc nối Thi đọc theo hướng dẫn của giáo tiếp, phân vai, tổ chức cho cá nhân thi đọc viên đoạn 2 Nhận xét tuyên dương các em đọc tốt 3. Tìm hiểu bài - Gọi 1 em đọc to đoạn 1 - cả lớp đọc thầm. -Một em đọc to đoạn 1. Cả lớp đọc 17 thầm để trả lời câu hỏi - Tác giả ví sông Hương với hình ảnh gì? Bức tranh phong cảnh. - Giáo viên treo tranh vẽ cảnh sông Hương. -Học sinh quan sát tranh và đọc - Yêu cầu học sinh quan sát tranh và đọc thầm đoạn 1để trả lời câu hỏi. thầm đoạn 1. Để trả lời câu hỏi. - Tìm những từ ngữ chỉ các màu xanh khác nhau của Sông Hương? -Xanh thẳm của gia trời, xanh biếc - Tìm từ chỉ mức độ khác nhau của màu của cây lá, xanh non của những bãi xanh? ngô thảm cỏ. - Ghi bảng: Sắc độ -Từ chỉ mức độ khác nhau của màu Giáo viên: Cảnh Sông Hương có rất nhiều xanh đó là: “Sắc độ” màu xanh, sắc độ dậm nhạt khác nhau đã Học sinh đọc nghĩa của từ “Sắc độ” tạo cho Sông Hương một nét đẹp quyến ruc, nên thơ, thanh bình. - Về màu hè Sông Hương có sự thay đổi như thế nào? 1 em đọc to đoạn 2- cả lớp đọc Ghi bảng từ: Dải lụa đào. thầm -Do dâu mà hè đến Sông Hương lại chuyển - Sông Hương thay chiếc áo xanh màu như một giải lụa màu hồng? thành giải lụa đào… Giáo viên: Hai bên bờ này được trồng Đọc chú giải nghĩa của từ: giải lụa nhiều Phượng vĩ, mùa hè đến hoa Phượng đào nở đỏ rực in bóng xuống mặt nước tạo cho -Do hoa Phượng nở đỏ rực hai bên Sông Hương có vẻ đẹp tác giả ví như giải bờ sông in bóng… lụa màu hồng. - Vào những đêm trăng sáng Sông Hương có vẻ đẹp ra sao? GB: Lung linh dát vàng - Vì sao tác giả lại ví Sông Hương như -Vào những đêm trằng sáng dòng một đường trắng lung linh dát vàng? sông là một đường trăng lung linh 18 Chuyển: Phong cảnh Sông Hương đã góp dát vàng. phần tô thêm cảnh dệp cho Thành phố Huế như thế nào? Mời các em theo dõi phần … Ánh trăng vàng chiếu xuống làm còn lại. cho dòng sông ánh lên một màu vàng lóng lánh. - Yêu cầu học sinh đọc thầm phần còn lại. Học sinh đọc thầm phần còn lại - Sông Hương đối với Huế như thế nào? … là một đặc ân - Yêu cầu đọc chú giải nghĩa của từ đặc ân. -Học sinh đọc chú giải nghĩa của từ Tìm từ gần nghĩa với từ đặc ân? đặc ân. - Vì sao tác giả nói Sông Hương là một đặc Từ gần nghĩa với từ đặn ân là: ban ân củ thiên nhiên dành cho Thành phố tặng. Huế? … Vì Sông Hương làm cho không khí thành phố trở nên trong lành, làm tan biến những tiếng ồn ào của chợ 4. Luyện đọc lại búa.. -Qua tìm hiểu nội dung các em thấy Sông Hương rất đẹp trong khi đọc các em cần lưu ý: Đoạn 1: Khi đọc cần nhấn giọng ở những từ gợi tả màu xanh: xanh thẳm, xanh biếc, xanh non. Đoạn 2: Nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả sự thay đổi sắc màu của dòng sông như dải lụa đào, lung linh dát vàng. Đoạn 3: Nhấn giọng ở các từ: đặc ân, trong lành, tan biến, êm đềm, ca ngợi Sông Hương. - Gọi học sinh đọc bài. -Một số học sinh đọc bài, nhận xét 5. Củng cố dặn dò: bạn đọc. 19 - Gọi 1 em đọc toàn bài ? Học qua bài này em cảm nhận được gì về -1 em khá đọc Sông Hương? - Vẽ đẹp quyến rũ và sự thay đổi - Nhận xét tiết học. theo mùa của Sông Hương. - Dặn về nhà luyện đọc bài chuẩn bị bài sau. Qua tiết dạy trên tôi thấy học sinh hứng thú học, lớp học sôi nổi, đọc bài tốt, tiếp thu bài nhanh. Bằng những câu hỏi giúp học sinh hiểu nghĩa các từ mới từ chốt trong bài một cách nhẹ nhàng. Các em nắm vững nội dung bài học. C - KẾT QUẢ: Qua một thời gian giảng dạy áp dụng chương trình thay sách, tôi đã có nhiều cố gắng vừa dạy thử nghiệm, vừa trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, tổ chuyên môn và chuyên môn trường; nghiên cứu các tài liệu tập huấn. Do đó chất lượng các tiết tập đọc ngày một tốt hơn, học sinh đọc đã đạt được như mong muốn, chất lượng được nâng cao rõ rệt so với đầu năm. Tổng số học sinh Cụ thể qua các đợt khảo sát: Kết quả khảo sát Cuối học kì 1 Cuối học kì 2 Giỏi Khá TB Yếu S T S TL S TL S T S TL S L L L % L % L L L % L Giỏi Khá TB Yếu TL S TL S TL S T S T % L % L % L L L L % Kém % % Tổng số HS % Kém 11 1 9 2 18, 1 5 45, 4 1 9 2 18, 1 2 18, 1 5 45,4 3 27, 1 9 0 0 2 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan