SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT CHÍNH TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 2”
1
A.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến
Trường tiểu học Yên Bình nằm ở trung tâm huyện lị Quang Bình, trường mới được
thành lập từ năm 2001, được tách từ trường Phổ thông cơ sở Yên Bình. Tuy trường mới
thành lập còn gặp không ít khó khăn, nhưng thầy và trò nhà trường đã cùng nhau chung
sức, chung lòng vượt qua mọi thử thách. Để có được môi trường học tập của các em ngày
một phát triển phải kể đến đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm, giàu lòng nhân ái, yêu
nghề, mến trẻ, ham học hỏi từ những Nhà giáo có kinh nghiệm lâu năm trong ngành, để
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
Trong những năm gần đây vấn đề chữ viết của các em ngày một đi xuống, xấu và
sai lỗi chính tả rất nhiều, thiết nghĩ việc chữ viết của Tiếng việt mà bị mai một đi không
thể bỏ qua trách nhiệm của nhà giáo, mà nhà giáo đặc biệt phải chấn chỉnh ngay việc rèn
chữ cho học sinh.
Năm học 2012-2013 bản thân tôi được phân công trực tiếp giảng dạy lớp 2 tại
trường Tiểu học Yên Bình, thị trấn Yên Bình, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang.
Trong quá trình giảng dạy môn Tiếng việt, cụ thể phân môn chính tả, bản thân nhận
thấy học sinh còn viết sai nhiều lỗi chính tả. Đặc biệt đầu năm học này ở lớp tôi chủ
nhiệm học sinh viết sai rất nhiều lỗi chính tả. Để khắc phục được những tồn tại trên tôi
quyết định chọn đề tài: "Rèn kĩ năng viết chính tả cho học sinh lớp 2".
Với những trăn trở băn khoăn, suy nghĩ tôi nhận thấy.
Chính tả là một trong những phân môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học. Phân môn chính
tả dạy cho học sinh tri thức và kĩ năng chính tả, phát triển năng lực sử dụng thức viết vào
hoạt động giao tiếp.
2
Chữ viết là kí hiệu bằng hình ảnh thị giác (các hình nét) ghi lại tiếng nói.
Chữ viết là một phát ngôn quan trọng của loài người. Trẻ em đến tuổi đi học
thường bắt đầu quá trình học tập bằng việc học chữ. Ở giai đoạn đầu (bậc tiểu học) trẻ
tiếp tục hoàn thiện năng lực tiếng nói mẹ đẻ. Từ đó bắt đầu dạy em học chữ. Muốn đọc
thông viết thạo học sinh phải được học chính tả.
2. Nhiệm vụ của sáng kiến
Tiếng việt là một môn khoa học xã hội cơ bản nó liên quan đến các môn học
khác và hoạt động giao tiếp trong cuộc sống. Học phân môn chính tả là để viết thạo
đối với các em học sinh tiểu học, vì vậy phân môn chính tả góp phần cho việc hình
thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng việt (Đọc, viết, nghe, nói) để học tập
và giao tiếp trong các môi trường hoạt động theo từng lứa tuổi.
Các nguyên tắc chính tả không tách rời các nguyên tắc dạy học Tiếng Việt. Chính
tả là phân môn có tính chất công cụ, tính chất thực hành làm cơ sở cho việc dạy học các
phân môn khác của Tiếng Việt và những môn học khác. Cùng với phân môn Tập viết,
Chính tả cung cấp kiến thức và hoàn thiện kĩ năng tạo ra hình thức vật chất biểu hiện
ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp. Mục đích của dạy chính tả là rèn luyện khả năng
“đọc thông, viết thạo”, chủ yếu là viết đúng chuẩn mực và dạng thức viết của ngôn ngữ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Là học sinh khối lớp 2 trường Tiểu học Yên Bình, huyện Quang Bình, tỉnh Hà
Giang. Năm học 2012-2013, vì lý do nêu trên, tôi quyết định đưa học sinh của tôi trực
tiếp vào thực nghiệm việc rèn kỹ năng viết chính tả để nhằm giảm thiểu việc mắc lỗi khi
viết chính tả của các em.
4. Phạm vi nghiên cứu
3
Nghiên cứu bằng thực trạng trên đối với đối tượng học sinh lớp 2, tôi quyết định
thực hiện việc thực nghiệm ngay trong năm học 2012-2013, trường Tiểu học Yên Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu có liên quan đến phân môn chính tả
5.2. Phương pháp thử nghiệm
5.3. Phương pháp đối chứng
6.4. Dự giờ rút kinh nghiệm
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN
1. Cơ sở thực tiễn
Trường tiểu học Yên Bình nằm cách trung tâm huyện lị Quang Bình khoảng 300m
về phía Tây Nam. Ngôi trường khang trang, sạch đẹp mới được xây dựng từ năm 2005
trở lại đây. Trường có 2 dãy lớp chính, một dãy phía Bắc, một dãy phía Nam, mỗi dãy
đều có 16 phòng học hai tầng. Trường có hơn 38 giáo viên lành nghề, trình độ chuyên
môn đạt chuẩn trở lên. Có giáo viên nhiều năm liền đạt chiến sĩ thi đua cấp cơ sở trở lên,
nhiều giáo viên đạt giáo viên Giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Học sinh ngoan ngoãn, đi học
đều.
Tuy có nhiều ưu điểm như vậy nhưng việc học tập của các em cũng chưa đạt được
như mong muốn, đặc biệt là phân môn chính tả.
Môn Tiếng việt nói chung và phân môn chính tả nói riêng giữ một vị trí quan trọng
đối với cấp tiểu học.
4
Phân môn chính tả còn giữ vai trò đặc biệt quan trọng giúp cho học sinh học tốt các
môn học khác; bởi các em có đọc được, viết được thì mới nhận thức được, hiểu được nội
dung, nắm được kiến thức của bài học; đồng thời thông qua phân môn chính tả sẽ hình
thành cho các em cái đẹp, cái hay mới phù hợp với thời đại; hình thành cho các em tình
yêu quê hương đất nước.
Trường Tiểu học Yên Bình là trường có khá nhiều học sinh dân tộc cùng học tập,
môi trường học tập tương đối thuận lợi. Điều kiện đi lại của các em tương đối thuận lợi,
trong đó có đa số học sinh là con em các dân tộc ít người nên nhận thức cũng như phát
âm còn sai nên dẫn đến học yếu ở môn Tiếng việt, nhất là đối với phân môn chính tả. Các
em thường mải chơi, ngoài giờ học ở lớp, thời gian học ở nhà các em phải phụ giúp gia
đình, mặt khác việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của các em còn phổ biến nên việc đọc, viết bằng
tiếng phổ thông còn gặp nhiều khó khăn. Các em chưa hiểu hết ngôn ngữ Tiếng việt nên
còn nói ngọng, phát âm sai, khi viết dẫn đến còn sai nhiều lỗi chính tả, các em còn nhầm
bởi các âm, vần, dấu thanh.
VD: Khi viết tiếng “cũng” thì các em viết thành “cúng” chính vì sự hạn chế
đó dẫn đến kết quả bài viết của các em chưa cao.
Từ những căn cứ trên, tôi đã lựa chọn đề tài này, thực hiện đề tài tôi sẽ giúp các em
phát huy tính tích cực, tự giác lấy học sinh làm trung tâm trong học tập, các em sẽ đọc
thông, viết thạo, viết không sai lỗi chính tả và có khả năng diễn đạt tốt trong quá trình
giao tiếp với mọi người xung quanh.
2. Cơ sở khoa học
Thực trạng là ở học sinh tiểu học các em viết chính tả còn sai rất nhiều. Có phải
5
là do ở tiểu học việc nhận dạng chữ viết của các em còn gặp khó khăn hay do các em
chưa đọc thông thạo chữ. Để giúp các em nắm vững một số qui tắc chính tả, từ đó các em
viết không còn sai như trước.
II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Mặc dù các em đã đọc thông viết thạo nhưng các em chưa nắm được những qui tắc
thì việc viết chính tả của các em còn gặp khó khăn rất nhiều. Dưới đây là những nguyên
tắc dạy chính tả:
1. Nguyên tắc dạy chính tả gắn với việc phát triển tư duy
Phát triển tư duy cho học sinh gắn với sự hướng dẫn của giáo viên trong quá trình
dạy học nhằm đảm bảo kết quả việc tiếp thu và vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực
tiễn. Khi phân tích luyện tập, sửa chữa hoặc cung cấp kiến thức mới cần tiến hành theo
một số thao tác tư duy để kích thích hứng thú tìm hiểu, giúp học sinh nắm chắc các hiện
tượng và tìm ra cách giải quyết đúng đắn các hiện tượng đó. Tránh áp đặt máy móc
những qui tắt mà học sinh chưa được gợi mở suy nghĩ để thực hiện một cách tự giác.
Trong quá trình dạy chính tả, giáo viên thường xuyên dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh các qui
tắt chính tả và ghi nhớ áp dụng vào việc viết văn bản bằng thao tác hệ thống tư duy hợp lí
đó là:
a) Phân chia nhiệm vụ thực hiện quy tắc thành các bước cụ thể.
b) Lần lượt giải quyết các các bước cụ thể đó theo một trình tự logic.
c) Vận dụng các kinh nghiệm thực tiễn vào việc giải quyết từng bước cụ thể và
giải quyết nhiệm vụ chung.
Ví dụ: Dạy cho học sinh phân biệt s/x là nói như viết, nói sao viết vậy.
Nói tóm lại, nguyên tắc dạy chính tả gắn liền với phát triển tư duy học sinh đòi hỏi.
6
- Vận dụng các phương pháp thích hợp để rèn luyện các thao tác tư duy giúp
học sinh chủ động tích cực lĩnh hội tri thức luyện kĩ năng chính tả tự động hóa.
- Hướng dẫn học sinh hoạt động trí tuệ để “hiểu” tác dụng của chữ viết trong quá
trình giao tiếp và tư duy bằng ngôn ngữ viết trong quá trình giao tiếp.
- Luyện tập, thực hành các hình thức chính tả để củng cố kĩ năng viết và kĩ
năng thao tác tư duy khoa học cho học sinh.
2. Nguyên tắc dạy chính tả hướng về dạng thức viết của hoạt động lời nói
Ngôn ngữ được hiện thực hóa trong quá trình giao tiếp ở dạng thức nói và dạng
thức viết. Nói và viết là những hoạt động có hai mặt: một mặt là hành động phát ra âm
thanh hoặc viết thành chữ; một mặt là hoạt động giao tiếp có nội dung và mục đích cụ
thể, biểu hiện bằng chất liệu âm than hay kí tự được nói hoặc viết ra thành lời (ngôn ngữ
hoặc văn bản). Chữ viết và chính tả là hệ thống hoạt động chức năng của ngôn ngữ. Chữ
viết và chính tả có liên hệ hình thức ngữ âm với nội dung ngữ nghĩa của văn bản.
Dạy chính tả hướng về dạng thức viết của hoạt động lời nói yêu cầu sự phát triển
phong phú và đa dạng các kiểu loại bài tập thực hành giao tiếp. Học chữ và học viết
chính tả là để viết thạo tiếng nói, để có công cụ học tập, giao tiếp và để phát triển ngôn
ngữ. Hướng về dạng thức viết của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, sẽ kích thích hứng
thú và hình thành động cơ học tập đúng đắn của học sinh đem lại hiệu quả thiết thực và
vững chắc cho phân môn chính tả.
3. Nguyên tắc chính tả chú ý đến trình độ và phát triển ngôn ngữ của học sinh.
Trước tuổi đi học trẻ em mới sử dụng ngôn ngữ ở dạng thức nói. Hệ thống ngữ âm,
hệ thống từ vựng và hệ thống ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ được hình thành ở trẻ em Việt
Nam một cách tự nhiên, tự phát và vô thức, thông qua dạng thức nói. Bước vào lớp 1 (bậc
7
tiểu học) trẻ em mới bắt đầu học chữ tiếp xúc với dạng viết của ngôn ngữ. Đề nắm chắc
dạng thức viết (biết viết, biết đọc chữ viết) trẻ em phải học chữ, viết chữ và học chính tả.
Hệ thống chữ viết và hệ thống qui tắt chính tả được hình thành ở trẻ em qua con đường
học vấn một cách tự giác và có ý thức. Khi viết chữ trình độ tư duy và ngôn ngữ của trẻ
em sẽ có một bước phát triển nhảy vọt; từ tư duy cụ thể trực quan và cảm tính, trẻ em tiến
đến tư duy khái quát trừu tượng và lí tính hoạt động ngôn ngữ của trẻ em phát triển. Khả
năng và lĩnh vực giao tiếp mở rộng. Hệ thống chữ viết và hệ thống chính tả đối với học
sinh cấp Tiểu học là tri thức mới mẻ. Nắm bắt được nội dung kí hiệu của hệ thống chữ
viết, học sinh có phương tiện tiếp thu, lĩnh hội tri thức khoa học tự nhiên và xã hội, hình
thành những phẩm chất có văn hóa. Dạy chính tả dựa vào trình độ phát triển ngôn ngữ
của trẻ em, tức là trên cơ sở trình độ trẻ em nắm và sử dụng dạng thức nói (hệ thống ngữ
âm và các hệ thống bộ phận cấu thành ngôn ngữ). Ở độ tuổi khác nhau nguồn gốc dân tộc
và địa bàn cư trú khác nhau, với những ảnh hưởng tiếp xúc văn hóa trong các cộng đồng
có nét riêng, trình độ nắm và sử dụng dạng thức nói của học sinh ở từng lớp ở cấp tiểu
học không đồng đều. Do đó nội dung hình thức yêu cầu dạy chính tả đề ra phải sát hợp
với từng đối tượng.
Ví dụ: Khi dạy chính tả lớp 2 coi trọng trước hết là mối liên hệ giữa phát âm, dấu
thanh và chữ khi viết dấu thanh, phát âm và ghi âm, đọc và viết.
4. Nguyên tắt phát triển song song dạng thức nói và dạng thức viết của ngôn
ngữ.
Dạng thức nói và dạng thức viết đều là hình thức nói của ngôn ngữ. Trước khi có
chữ viết ngôn ngữ được biểu hiện bằng âm thanh, bằng dạng thức nói. Chữ viết ra đời
làm hình thành một chất liệu biểu hiện quan trọng khác của ngôn ngữ, đó là dạng thức
viết. Nguồn gốc của chữ viết là hình vẽ biểu vật (tượng hình) chưa có mối quan hệ trực
8
tiếp với âm thanh. Chữ tượng hình chắc chắn là khó học, khó nhớ và khó sử dụng vì ở
mỗi chữ tượng hình là một hình vẽ biểu thị một vật thì số lượng hình vẽ sẽ tăng lên rất
nhiều, không thể đảm bảo viết, vẽ thống nhất những hình vẽ quá phức tạp. Dần dần, chữ
tượng hình được đơn giản hóa thành đường nét khu biệt ổn định, trở thành chữ biểu ý. So
với chữ tượng hình, chữ biểu ý tiến bộ hơn ở chỗ không biểu thị các từ có nội dung biểu
vật có hình dạng cụ thể mà còn khả năng biểu thị các từ có nội dung là các khái niệm trừu
tượng. Tuy vậy, chữ biểu ý cũng không thể đáp ứng đầy đủ sự phát triển của ngôn ngữ.
Các hình vẽ biểu vật hay biểu ý thường hạn chế ở khả năng biểu hiện được vốn từ ngày
càng phong phú về số lượng về nội dung ý nghĩa. Chữ viết biểu âm xuất hiện là một tiến
bộ: vừa biểu thị âm thanh, vừa biểu thị ý nghĩa đáp ứng mọi nhu cầu giao tiếp của con
người. Dạy chính tả hướng tới đồng thời cả dạng thức nói và dạng thức viết trên cơ sở
mối liên hệ âm - chữ; âm chữ và nghĩa, giữa phát âm, dấu thanh và chữ khi viết dấu
thanh, phát âm và ghi âm, đọc và viết,
nhằm hoàn thiện kĩ năng đọc - viết; viết - đọc; viết - đọc và hiểu. Học sinh được đối chiếu
so sánh phân biệt dạng thức nói với dạng thức viết trong các trường hợp đồng âm (khác
nghĩa), đồng tự (khác âm hay khác nghĩa); những trường hợp đồng âm không đồng tự
(phát âm như nhau, viết khác nhau) hoặc đồng tự không đồng âm (viết như nhau, đọc
khác nhau); những biến thể ngữ âm trong lời nói; biến thể ngữ âm trong phương ngữ và
chuẩn chữ viết, chuẩn chính tả thống nhất.
III. KẾT QUẢ
Qua quá trình rèn cho học sinh viết chính tả đã mang lại kết quả như sau:
9
Số học sinh được rèn ở lớp 2C năm học 2012 – 2013 đã được điểm cao hơn năm
học trước. Số học sinh viết sai chính tả đã giảm đi nhiều. Cụ thể nhữnng đợt kiểm tra
định kì như sau: (so sánh đối chiếu với phương pháp cũ)
1. Nội dung kiểm tra, đánh giá kết quả
Trong quá trình giảng dạy phân môn chính tả, người giáo viên tổ chức đọc cho học
sinh viết cần phải nắm được đối tượng học sinh, cách phát âm và hướng tới việc viết
thông qua tiếng có dấu thanh dễ lẫn, để từ đó có biện pháp uốn nắn cho các em và cũng
từ đó phát hiện ra những em thường xuyên viết sai để đánh giá kết quả.
2. Kết quả cụ thể và những tồn tại của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến
thức.
Sau khi nghiên cứu và áp dụng vào sáng kiến mới kết quả đó đạt được như sau:
Năm
Thời
Tổng
học
gian
HS
20122013
Đầu năm 21
Cuối
HKI
21
số
Giỏi %
Khá %
TB %
2
9.52 5
23.8
11
5
23.8 9
42.86 7
Yếu %
52.38 3
14.28
33.34 0
0
- Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng vào sáng kiến mới với kết quả trên, tôi
khẳng định rằng đề tài này có thể áp dụng vào dạy môn chính tả ở khối lớp 2 và các khối
lớp khác trong trường Tiểu học Yên Bình và ở cả các trường Tiểu học khác.
Với kết quả đạt được như trên, bản thân tôi rất vui vì mình đã góp một phần không
nhỏ vào kết quả học tập của các em.
10
C. KẾT LUẬN
- Thông qua việc nghiên cứu này, bản thân tôi đã tìm hiểu và đề ra những biện pháp
rèn học sinh viết đúng chính tả ở trường tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng. Từ đó
tôi rút ra những bài học kinh nghiệm như sau:
- Phải hướng dẫn học sinh thật kĩ những qui tắc cơ bản.
- Giáo viên phải phát âm một cách chuẩn và chính xác.
- Đối với học sinh: các em cần phải tư duy và vận dụng thực tiễn để áp dụng vào
bài viết của mình.
-Chính tả trong trường tiểu học rất quan trọng. Giúp các em nói và viết chuẩn xác
Tiếng Việt và là tiền đề để học lên các bậc học tiếp theo.
-Ứng dụng vào dạy lớp 2 và các lớp khác trong các trường Tiểu học.
-Trên đây là sáng kiến mà tôi đã vận dụng các biện pháp rèn học sinh viết đúng
chính tả và đạt được những kết quả như trên. Tôi đã mạnh dạn áp dụng và thu được
những thành công nhất định. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài, không tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận sự đóng góp ý kiến của các đồng chí, bạn bè
đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
Yên Bình, ngày 31 tháng 08 năm 2012
Người viết sáng kiến
11
- Xem thêm -