Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Tiểu học Skkn một số biện pháp về công tác xã hội hóa giáo dục ở trường thpt hồng quang...

Tài liệu Skkn một số biện pháp về công tác xã hội hóa giáo dục ở trường thpt hồng quang

.PDF
77
999
88

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO YÊN BÁI TRƯỜNG THPT HỒNG QUANG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG THPT HỒNG QUANG Nhóm tác giả: Trần Quang Thủy – Hiệu trưởng Nguyễn Xuân Tuyên – P.hiệu trưởng n vị: Trườn T T ồn u n Lục Yên, ngày 20 tháng 01 năm 2012 1 CHỮ VIẾT TẮT BGD&ĐT CB,GV,NV CBCC CSVC CT CTĐ GDCD GD&ĐT GVBM GVCNL GVDG HĐND HS KH-SGD&ĐT PCGD PPDH SKKN THCS THPT UBND XHHGD XHH : Bộ Giáo dục& Đào tạo : Cán bộ, giáo viên, nhân viên : Cán bộ công chức : Cơ sở vật chất : Chỉ thị : Chữ thập đỏ : Giáo dục công dân : Giáo dục và Đào tạo : Giáo viên bộ môn : Giáo viên chủ nhiệm lớp : Giáo viên dạy giỏi : Hội đồng nhân dân : Học sinh : Kế hoạch Sở Giáo dục & Đào tạo : Phổ cập giáo dục : Phương pháp dạy học : Sáng kiến kinh nghiệm :Trung học cơ sở : Trung học phổ thông : Ủy ban nhân dân : Xã hội hóa giáo dục :Xã hội hoá 2 MỤC LỤC Nội dung Trang PHẦN THỨ NHẤT: ẶT VẤN Ề 5 1. Lí do chọn SKKN 5 PHẦN THỨ HAI:GIẢI QUYẾT VẤN Ề 7 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN Ề 7 1.1. Một số khái niệm của đề tài 7 1.2. Nguyên tắc XHHGD 9 1.3. Vì sao phải XHHGD 11 1.4. Vai trò của XHHGD 12 1.5. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về XHHGD 13 1.6. Những tồn tại trong công tác XHHGD ở nước ta hiện nay 15 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN Ề 17 2.1. Khái quát về sự phát triển GD - ĐT huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái 17 2.2. Thực trạng về hoạt động giáo dục ở trường THPT Hồng Quanghuyện Lục Yên. 18 3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN MANG LẠI HIỆU QUẢ TRONG CÔNG TÁC XHHGD Ở TRƯỜNG THPT HỒNG QUANG 21 3.1. Nhóm biện pháp 01: Tuyên truyền 21 3.2. Nhóm biện pháp 2: Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực để tăng hiệu quả hoạt động và tạo uy tín trong cộng đồng nhằm làm tốt công tác XHHGD 23 3.3. Nhóm biện pháp 3: Tạo uy tín với phụ huynh, các cấp ủy Đảng, chính quyền và cộng đồng địa phương thông qua việc khẳng định uy tín chất lượng nhà trường. 24 3.4. Nhóm biện pháp 4: Làm tốt công tác tham mưu cho lãnh đạo địa phương. 25 3.5. Nhóm biện pháp 5: Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm. 25 3.6. Nhóm biện pháp 6: Tận dụng những kinh nghiệm và tri thức của phụ huynh, các đồng nghiệp đi trước. 26 3.7. Nhóm biện pháp 7: Xây dựng các cơ chế liên kết giữa nhà trường, gia đình, lực lượng xã hội. 27 3.8. Nhóm biện pháp 8: Xây dựng nhà trường thực sự trở thành trung tâm văn hoá, môi trường giáo dục lành mạnh. 27 3 3.9. Nhóm biện pháp 9: Quan tâm thực sự đến học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, học sinh dân tộc thiểu số và con em gia đình chính sách 28 3.10. Nhóm biện pháp 10: Đúc rút kinh nghiệm sau từng giai đoạn thực hiện 28 4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 29 BÀI HỌC KINH NGHIỆM 32 PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN 34 1. KẾT LUẬN 34 2. KHUYẾN NGHỊ 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO 36 Phụ lục (ảnh về một số hoạt động được tổ chức trong quá trình thực 37-60 hiện nghiên cứu SKKN) 4 PHẦN THỨ NHẤT: ẶT VẤN Ề 1. Lí do chọn SKKN Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến giáo dục, đặt vị trí của giáo dục đúng với vai trò và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp phát triển của quốc gia, vì thế Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”, “đổi mới giáo dục phổ thông nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục và chuẩn bị nguồn lực về con người, nhằm rút ngắn khoảng cách giáo dục so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chuẩn bị tiềm lực để xây dựng nền kinh tế tri thức”. Trong giai đoạn hiện nay Đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đảng chỉ rõ: “Sự nghiệp giáo dục là của Nhà nước và của toàn dân”, vì vậy công tác XHHGD càng có tầm quan trọng và ý nghĩa vô cùng to lớn. Học sinh trường THPT Hồng Quang chủ yếu là con em đồng bào dân tộc thuộc những xã khó khăn của huyện Lục Yên như: Phúc Lợi, Trung Tâm, Động Quan, Khánh Hòa, An Lạc…nên ít có điều kiện đầu tư cho học tập vì thế hiệu quả đào tạo thấp, chất lượng đào tạo không cao. Công tác huy động vào lớp 10 ở trường THPT Hồng Quang tỉnh Yên Bái chỉ đạt 65- 67% số học sinh tốt nghiệp THCS. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp THPT chỉ đạt 53% so với số học sinh tốt nghiệp lớp 9. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 80% so với số học sinh tuyển vào đầu cấp học, như vậy số chênh lệch 20% là do bỏ học ở cấp THPT. Hiện tượng này làm ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện kế hoạch phát triển giáo dục của trường và kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của địa phương. Vậy nguyên nhân do đâu? làm thế nào để khắc phục? Theo chúng tôi trong điều kiện đất nước còn nghèo nhưng việc huy động nội lực của nhân dân để tham gia đóng góp trong công tác xây dựng cơ sở hạ tầng lại đạt kết quả rất thấp mà nguyên nhân căn bản vẫn là tính trông chờ, ỷ lại của thời kỳ quan liêu bao cấp còn sót lại của mỗi người dân nơi đây. Công tác xã hội hoá vì thế kém phát triển. Không chỉ có thế, tập quán ngàn đời nơi vùng cao này là sống bằng kinh nghiệm, nguồn sống chủ yếu của người dân là dựa vào các sản phẩm có sẵn từ thiên nhiên, "cái chữ không quan trọng lắm, nó không ra ngay cái tiền, cái chính là ngày hôm nay hái được bao nhiêu cái măng, hái được 5 bao nhiêu ngánh củi để mang ra chợ bán , mua cái gạo làm no cái bụng thôi, thầy giáo đừng cưòi mình nhé" vì thế vệc học chỉ là thứ yếu. Là người quản lý nhà trường chúng tôi nhận thấy việc đi sâu nghiên cứu và đề ra được những giải pháp mang tính thực tiễn và khả thi để huy động tốt mọi nguồn lực cùng xây dựng nhà trường và nâng cao nhu cầu về giáo dục cho cộng đồng dân cư, của mỗi người dân trong việc tham gia đóng góp nội lực để xây dựng trường, phù hợp với đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, huy động con em tới trường, duy trì sĩ số học sinh và cùng nhà trường nâng cao chất lượng dạy và học. Có như thế mới đưa nhà trường phát triển nhanh, vững chắc, tạo được uy tín và niềm tin của xã hội. Nhằm huy động mọi nguồn lực của cộng đồng tham gia giáo dục, giúp BGH có cơ sở thực tiễn để xây dựng kế hoạch đúng đắn, phù hợp, hiệu quả. Đề ra những chỉ tiêu, những biện pháp vừa sức. Tạo được niềm tin ở khả năng thực hiện của mọi thành viên trong tập thể sư phạm, trong lãnh đạo chính quyền, đoàn thể địa phương và của mỗi người dân, xây dựng nhà trường văn minh, sạch, đẹp, làm cho học sinh yêu trường, yêu thầy, mến bạn, thêm ham thích hoạt động. Giúp BGH vạch được kế hoạch, tham mưu có hiệu quả, đề ra được lộ trình và bước đi thích hợp trong từng giai đoạn. Vì lẽ đó chúng tôi tập chung nghiên cứu: "Một số biện pháp về công tác xã hội hóa giáo dục ở trường THPT Hồng Quang huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái". Mong đợi sáng kiến này sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT Hồng Quang và có thể áp dụng vào một số trường trong tỉnh Yên Bái để cùng các đồng nghiệp trường bạn nâng cao hiệu quả GD&ĐT. 2. Thời gian nghiên cứu Thực hiện từ tháng 9/2010 đến tháng 02/2012 6 PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN Ề 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN Ề 1.1. Một số khái niệm củ đề tài Khi bàn về việc nâng cao chất lượng giáo dục, các nhà khoa học đều rất quan tâm đến việc tìm kiếm các con đường, các biện pháp tác động đến quá trình dạy học ở trên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Biện pháp tổ chức (quản lý) công tác XHHGD là cách làm, cách quản lý, cách giải quyết những vấn đề thuộc công tác huy động cộng đồng tham gia giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trong nhà trường phổ thông. Nhà trường giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục, thực hiện đa dạng hoá các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. Muốn đẩy mạnh XHHGD phải tiến hành từ hai phía: Xã hội tham gia xây dựng giáo dục, ngược lại giáo dục cũng phải đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bởi vì tương tác giữa các thực thể bao giờ cũng là sự tác dụng tương hỗ. Phải tạo ra mối liên hệ thường xuyên giữa nhà trường và xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp, vì vậy cần tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội dưới nhiều hình thức. Trong mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội thì giáo dục có chức năng tái sản xuất xã hội. Chức năng cơ bản của giáo dục là "xã hội hoá cá nhân", tái sản xuất những "con người xã hội". Nhờ được giáo dục các thế hệ trẻ kế tiếp sẽ là những nguồn lực tham gia vào các lĩnh vực hoạt động xã hội kế thừa, cải tạo, phát triển xã hội, tạo diện mạo mới cho xã hội. Tổ chức tốt hoạt động XHHGD là việc làm thường xuyên và cần thiết, là nhiệm vụ quan trọng của các nhà trường THPT. - “Xã hội hoá giáo dục” có thể hiểu theo nghĩa sau: + Nhà nước giảm bớt vai trò của mình trong cung cấp nguồn tài chính cho giáo dục mà không ảnh hưởng xấu đến giáo dục, phần trách nhiệm đó do nguời dân đảm nhiệm và đủ sức đảm nhiệm. + Xã hội hoặc người dân nhận lấy phần trách nhiệm trong giáo dục cùng chia sẻ chi phí, sức lực, trí tuệ với nhà nước, nhà trưòng và các nhà giáo. + Quyền lợi và trách nhiệm của phụ huynh gia tăng hay nói cách khác quyền tự chủ của phụ huynh gia tăng, chi phí được chia sẻ dẫn đến xu hướng 7 người dân có quyền quyết định hoặc từ chối một dịch vụ giáo dục mà không chịu lệ thuộc vào dịch vụ như trước kia. Như vậy, xã hội hoá thực chất là một quá trình huy động nguồn lực trong xã hội để phát triển các dịch vụ công và làm cho nhiều người hơn được hưởng lợi từ các dịch vụ đó cũng như chịu trách nhiệm nhiều hơn khi sử dụng dịch vụ. Trong điều kiện nền kinh tế bao cấp, người dân tham gia vào các hoạt động giáo dục do Nhà nước quản lý rất hạn chế. Đến ngày nay, người dân lại có điều kiện để tham gia vào quá trình giáo dục và tổ chức giáo dục nhiều hơn. XHHGD không chỉ là những đóng góp vật chất mà cả những ý kiến góp ý của người dân cho quá trình đổi mới giáo dục. XHHGD là cách tiếp cận mang tính dân chủ nhiều hơn. Như vậy, có thể xem XHHGD là sự huy động nguồn lực trong xã hội để làm giáo dục, để đấu tranh với nghèo nàn và lạc hậu, là tạo điều kiện tốt hơn cho người dân được hưởng dịch vụ giáo dục có chất lượng và nhiều cơ hội học tập, đóng góp trí tuệ cho giáo dục...Nếu lạm dụng xã hội hoá để huy động tối đa đóng góp người dân, chuyển gánh nặng ngân sách sang cho người dân, trong khi chất lượng dịch vụ không tăng tương xứng, ngân sách dành cho giáo dục cắt giảm là không đúng với chính sách của Đảng và Nhà nước về XHHGD. Đã không ít nhà trường chỉ hiểu một chiều về sự đóng góp của người dân, “tăng thu” các kiểu phí trong nhà trường đã làm giảm uy tín của nhà trưòng, tư tưởng này cần phải đựoc đấu tranh, phê phán để trả lại đúng giá trị đích thực của XHHGD. Nói XHHGD là hiểu theo nghĩa huy động cả cộng đồng tham gia hoạt động giáo dục, cả xã hội chia sẻ với giáo dục hoàn toàn không có nghĩa là: Ngân sách nhà nước dành cho giáo dục bị cắt giảm, chuyển gánh nặng tài chính cho dân. XHHGD không có nghĩa là Nhà nước giảm vai trò quản lý của mình, ngược lại vai trò quản lý nhà nước cần tăng lên khi thiết lập lại vai trò và trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ giáo dục. Sự thiếu vắng vai trò quản lý nhà nước và bỏ mặc theo kiểu “khoán trắng” có thể dẫn đến sự mất ổn định trong cung ứng dịch giáo dục và làm cho quá trình xã hội hoá thiếu tính bền vững, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Đối với cha mẹ học sinh, XHHGD là nhằm đảm bảo cho họ có quyền tự do lựa chọn trường cho con em của mình. Phụ huynh có điều kiện kinh tế, muốn con em của họ vào học ở những trường tốt hơn thì nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức mở những cơ sở giáo dục tiện nghi, chất lượng cao 8 hơn để đáp ứng nhu cầu. Nhưng, XHHGD không có nghĩa là nhà nước phó thác nhiệm vụ của mình cho các cá nhân, mà là tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia vào giáo dục, miễn là họ đáp ứng tốt nhất nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, để cho ai cũng được đến trường, ai cũng có điều kiện hưởng cơ hội học tập như nhau XHHGD là một trong những phương cách để nhà nước thực hiện mục tiêu tạo điều kiện cho con em của mọi tầng lớp trong xã hội đều được đến trường, không lợi dụng xã hội hóa để biến giáo dục, nhiệm vụ của nhà nước, thành một ngành kinh doanh lấy lợi nhuận làm mục tiêu thay thế. Tóm lại, XHHGD là một cách tiếp cận đến kinh tế thị trường và thực chất là một quá trình huy động nguồn lực trong xã hội để phát triển các dịch vụ công và làm cho nhiều người hơn được hưởng lợi từ các dịch vụ đó cũng như chịu trách nhiệm nhiều hơn khi sử dụng dịch vụ. 1.2. N uyên tắc X GD Trong thực tế, các nhà quản lý giáo dục cấp cơ sở chưa tập trung đúng mức để khai thác nguồn lực mà chỉ chú trọng vào những đóng góp của phụ huynh học sinh. Hình mang tính minh họa mối quan hệ giữa giáo dục với các thành tố xã hội Để hiểu và thực hiện đúng vấn đề XHHGD cần nhận thấy có bốn nhóm đối tượng (nhóm thành tố)có thể huy động tham gia XHHGD gồm: + Lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp (lực lượng quan trọng quyết định sự đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường và cũng là lực lượng tạo cơ chế và tạo điều kiện cho việc XHHGD triển khai thuận lợi); + Gia đình, cha mẹ học sinh, ban đại diện cha mẹ học sinh (lực lượng có nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích trực tiếp cùng chia sẻ với nhà trường và cũng là lực lượng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh); 9 + Các cơ quan, ban ngành (nhất là các ngành có chức năng, có trách nhiệm đối với nhà trường như y tế, công an, bảo vệ, Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em, các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Hội Khuyến học, các tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện,…); + Các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ tạo khả năng liên kết trong việc huy động các nguồn lực vật chất; Bản thân ngành giáo dục đào tạo cũng là một đối tượng để XHHGD; Ngoài ra còn có các tổ chức quốc tế, các cá nhân, đặc biệt là cá nhân có uy tín, các “mạnh thường quân”... Trong quá trình huy động các nhóm đối tượng thực hiện hiệu quả công tác XHHGD cần thực hiện tốt chín nguyên tắc huy động cộng đồng tham gia xây dựng giáo dục gồm: - Lợi ích: Mỗi hoạt động hợp tác, phối hợp đều phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của cả hai phía: nhà trường và cộng đồng, mỗi bên tham gia đều cần tìm thấy lợi ích chung của cá nhân, tập thể cũng như của cả dân tộc. - Chức năng nhiệm vụ: Nhà trường cũng như các lực lượng xã hội, các tổ chức,... đều có những chức năng và trách nhiệm riêng. Để khai thác, phát huy, khuyến khích họ tham gia vào một hoạt động nào đó thì phải phát hiện và nhằm đúng chức năng, trách nhiệm của đối tác. Ví dụ: Đối với cấp ủy và chính quyền địa phương thì nội dung huy động phải là chủ trương, văn bản chỉ đạo, hoặc đất xây dựng,... - Dân chủ: tạo môi trường công khai, bình đẳng để cộng đồng hiểu đúng về giáo dục và nhà trường hơn, đồng thời góp phần thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” các hoạt động XHHGD để mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội phát triển toàn diện và mang lại hiệu quả thiết thực. - Luật pháp: XHHGD phải tuân thủ pháp luật Nhà nước, có nghĩa là cần dựa trên cơ sở pháp lý. Ngược lại, các cơ quan đoàn thể, các tổ chức xã hội,... cũng cần có những cơ sở pháp lý để triển khai cũng như để tham gia huy động nguồn lực cho giáo dục. - Phù hợp và thích ứng: Cán bộ quản lý giáo dục phải biết lựa chọn thời gian thích hợp nhất để đưa ra một chủ trương XHHGD. Tuy nhiên, để thực hiện nguyên tắc này là phải xây dựng cho được kế hoạch cụ thể và kế hoạch mang tính định hướng, thực tế. - Truyền thống, tình cảm: là sự khơi dậy và phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng đạo lý, đề cao sự học, đề cao giá trị của học vấn... của mỗi gia tộc, dòng họ; niềm tin của cá nhân vào sự nghiệp phát triển chung của giáo dục, của 10 từng nhà trường để có thể huy động nhiều nguồn lực khác nhau chăm lo cho sự nghiệp giáo dục đào tạo. - Kết hợp ngành - lãnh thổ: cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa địa phương và ngành giáo dục, “nhà trường gắn liền với xã hội”. - Giao tiếp: Có hai con đường giao tiếp đó là con đường chính thức (các văn bản, công văn, đề nghị...) và con đường không chính thức (thông qua nguyên tắc truyền thống và tình cảm). - Kế hoạch hóa: kế hoạch hóa là một trong bốn chức năng quản lý và là một chức năng mang tính chủ đạo trong quá trình quản lý của người Hiệu trưởng. Kế hoạch XHHGD được xây dựng trên một số yếu tố sau: Mục tiêu của việc huy động xã hội; xác định đối tượng huy động; Kết quả dự kiến đối với từng đối tượng; thời gian thích hợp; sự phân công một số thành viên trong chủ thể huy động; Chi tiết hóa kế hoạch và hệ thống giải pháp cụ thể. Qua thực tế nghiên cứu chúng tôi nhận thấy: trong nhiều trường hợp đối tượng tham gia XHHGD tuy ít nhưng lại cho những kết quả bất ngờ nếu như người cán bộ quản lý giáo dục biết tác động vào đúng đối tượng quan trọng có thể làm thay đổi chất lượng giáo dục. Ngành giáo dục và đào tạo là lực lượng nòng cốt trong việc triển khai công tác XHHGD trong đó bản thân nhà trường, cán bộ quản lý giáo dục cùng tập thể sư phạm, đội ngũ giáo viên giữ vai trò quan trọng. Mặt khác, mỗi nhà giáo có mối quan hệ xã hội rất rộng bởi vì họ có rất nhiều cha mẹ học sinh. Chính quyền các cấp với chức năng quản lý Nhà nước của mình không chỉ huy động, khuyến khích mà còn tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động và tổ chức điều hành sự phối hợp các lực lượng xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục. 1.3. Vì s o phải XHHGD Xã hội hoá giáo dục là một khái niệm đã được phát triển lên trình độ mới, với những điều kiện mới mà thực ra nó đã có nguồn gốc truyền thống tốt đẹp của dân tộc: truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Thực ra vấn đề huy động cộng đồng tham gia công tác giáo dục là một kinh nghiệm mang tính phổ biến của thế giới . * Khi thực hiện XHHGD sẽ huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên mọi tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước.Thực hiện XHHGD sẽ khai thác được tiềm năng của xã hội về tinh thần và vật chất phục vụ giáo dục, khi đó giáo dục sẽ trở thành việc làm và mối quan tâm thường xuyên của cả xã hội. 11 Việc huy động và động viên đó mang tính chất xã hội sẽ tập hợp được mọi lực lượng, tập trung các sức mạnh theo tinh thần và vật chất cho giáo dục biến giáo dục thành sự nghiệp của quần chúng, làm cho giáo dục là của dân, do dân và vì dân, đồng thời bảo đảm một cơ chế hợp lý đầy tính thực tiễn là dưới sự quản lý của nhà nước. Điều đó có nghĩa là xác định vai trò của xã hội, của nhân dân và vai trò của nhà nước trong từng trách nhiệm, kể cả sự đầu tư ngân sách. 1.4. Vai trò của XHHGD - XHHGD góp phần nâng cao tính chất nhân dân, bản sắc dân tộc của nền giáo dục nước ta, tiếp tục khẳng định chân lý giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, đề cao một nền giáo dục của dân, do dân và vì dân. Nó cũng là cơ hội giáo dục quần chúng, qua thực tiễn nhằm nâng cao trình độ và năng lực giáo dục và tự giáo dục của mỗi người dân, của mỗi tổ chức và lực lượng tham gia vào sự nghiệp . - XHHGD vừa tạo ra một “ xã hội học tập” vừa phát huy truyền thống của dân tộc ta một dân tộc hiếu học và thực hiện được mong muốn của Bác “ ai cũng được học hành” và phù hợp với xu hướng của thời đại “học tập thường xuyên”, “học tập suốt đời”, giáo dục cho mọi người. Nó góp phần nâng cao dân trí đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. - XHHGD sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, phát huy hiệu quả xã hội của giáo dục. Sự tham gia của xã hội góp phần cụ thể hoá mục tiêu giáo dục thích hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và từng địa phương, góp phần mở rộng nội dung giáo dục cho sát với cuộc sống, xây dựng nên môi trường thuận lợi cho việc giáo dục và đào tạo con người, tăng cường lực lượng của người dạy và người học, tạo nhanh điều kiện vật chất và tinh thần để nâng cao chất lượng giáo dục. - XHHGD góp phần làm cho giáo dục phục vụ những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước địa phương. Giáo dục và kinh tế xã hội vốn có những mối quan hệ manh tính quy luật. Sự tham gia của xã hội ở tầm vĩ mô cũng như vi mô vào giáo dục sẽ làm cho giáo dục gắn với mọi mặt của đất nước và từng địa phương, nhà trường sẽ gắn với xã hội, giáo dục gắn với cộng đồng, phát triển bằng sức mạnh của cộng đồng và vì những mục tiêu của cộng đồng. - XHHGD còn là con đường để thực hiện dân chủ hoá giáo dục. Hai phạm trù này có mối quan hệ rất biện chứng. Nhờ dân chủ hoá mà mở rộng lực lượng xã hội tham gia giáo dục và ngược lại, xã hội hoá chính là con đường, là cách thức để thực hiện dân chủ hoá giáo dục, một mục tiêu phấn đấu của giáo dục hiện đại và của nền giáo dục cách mạng. Con đường, cách thức, hình thức đó là : huy động, đông viên sự tham gia của đông đảo các lực lượng xã hội làm 12 giáodục. Thực hiện XHHGD sẽ làm nên sức mạnh tổng hợp đẩy mạnh giáo dục, tạo nên thế và lực mới cho giáo dục bằng những yếu tố nội sinh. 1.5. u n điểm củ ảng và Nhà nước về XHHGD Trong điều kiện đất nước còn nghèo, dân ta lại có truyền thống hiếu học, đất nước đang tích cực hôi nhập quốc tế để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác XHHGD giữ vai trò rất quan trọng. Trong nghị quyết Đại hội VIII của Đảng ta đã chỉ rõ "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Vì vậy cần được tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, hợp tác cạnh tranh trong kinh tế thị trường, mở cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của con người và các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam phải thể hiện thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ phận nhân tài trên nền dân trí với cốt lõi là nhân cách, nhân phẩm đậm đà bản sắc dân tộc của từng người, từng nhà, cộng đồng, giai cấp và cả dân tộc là mục tiêu cần hướng tới. Về nội dung cụ thể Đảng ta đã chỉ đạo ngành giáo dục chỉ đạo toàn ngành thực hiện các biện pháp như: - Xây dựng phong trào học tập trong toàn xã hội, làm cho nền giáo dục trên cả nước trở thành một nền giáo dục cho mọi người, không phân biệt thành phần dân tộc, địa bàn cư trú, giầu, nghèo, đảng phái, tôn giáo hễ là người Việt Nam đều có quyền học tập bình đẳng. - Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, vận động toàn dân chăm sóc thế hệ trẻ, phối hợp chặt chẽ giáo dục gia đình - nhà trường - xã hội. Tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, các tổ chức đoàn thể, tổ chức kinh tế - xã hội, cá nhân đối với giáo dục. - Đa dạng hoá các loại hình giáo dục. Ngoài hệ giáo dục chính qui còn có giáo dục phi chính qui như các loại hình chuyên tu, tại chức, học từ xa….để mọi ngưòi có thể lựa chọn hình thức học tập phù hợp với mình. - Tăng cường đầu tư từ nguồn ngân sách, khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong xã hội để phát huy giáo dục. Tuy nhiên, không nên hiểu xã hội hóa giáo dục một cách đơn giản dưới góc độ huy động nguồn vốn đầu tư mà phải mở rộng ra nhiều góc độ, phạm vi khác nhau: 13 Trước hết, là dưới góc độ của người đi học. XHHGD ở đây có nghĩa tạo điều kiện để làm sao cho người đi học được tham gia vào việc quản lý của trường cũng như xây dựng chương trình học tập, giảng dạy. Ở một góc độ khác, XHHGD nhìn từ phía nhà giáo, nhà trường chính là nhằm mục tiêu đảm bảo quyền tự do giảng dạy của họ hơn nữa. Còn dưới góc độ phụ huynh, xã hội hóa giáo dục là nhằm đảm bảo cho họ quyền tự do lựa chọn nơi học tập cho con em của họ. Nhưng một lần nữa cần lưu ý xã hội hóa giáo dục không có nghĩa là nhà nước chuyển giao hay phó thác nhiệm vụ hiến định của mình cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, mà là tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia vào giáo dục, sao cho nó đáp ứng tốt nhất nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, sao cho ai cũng được đến trường, ai cũng có điều kiện hưởng cơ hội vào đời như nhau. - XHHGD là một trong quan điểm quan trọng của Đảng nhằm phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục; điều 11 - Luật giáo dục 2005 ghi rõ:"Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục" Tại điều 12 của Luật Giáo dục về "XHHGD" nêu rõ: "Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn". Như vậy, XHHGD không chỉ là công việc của ngành Giáo dục mà là sự nghiệp của toàn dân, mọi tổ chức kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. XHHGD không là một giải pháp ngắn hạn mà là lâu dài mang tính chiến lược trong lúc ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục còn hạn hẹp. XHHGD nhằm thực hiện công bằng xã hội, giúp mọi người dân được hưởng các quyền lợi mà giáo dục mang lại. Đồng thời, XHHGD khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi tổ chức chính trị - xã hội phát huy cao nhất trách nhiệm và năng lực của mình cho sự nghiệp giáo dục. XHHGD còn nhằm mục tiêu xây dựng xã hội học tập, hình thành thói quen học suốt đời cho từng người, không phân biệt thành phần, lứa tuổi. Cũng tại Điều 13 về đầu tư cho giáo dục trong Luật Giáo dục nêu: "Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục; 14 khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Ngân sách Nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục". Như vậy, đóng góp đầu tư cho GD là việc được Nhà nước khuyến khích chứ không được lợi dụng để rồi những người nghèo khó không có tiền cũng phải đóng góp những khoản không có trong qui định. 1.6. Những tồn tại trong công tác XHHGD ở nước ta hiện nay Mặc dù đã đạt được một số thành tựu cơ bản nhưng nền giáo dục nước ta vẫn còn những bất cập và yếu kém: - Cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Mặc dù tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường trong những năm gần đây đã có nhiều cải thiện rõ rệt nhưng tính đến năm 2010 vẫn còn 10% số lớp học ở tình trạng lớp học tạm, phòng học cấp 4 cũ nát, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở các trường Đại học, Cao đẳng, THPT. - Trong nhiều năm qua Đảng ta đã khẳng định “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực của quá trình phát triển”. Tuy nhiên trong thực tiễn, quan điểm này chưa được hiểu một cách đầy đủ để triển khai một cách thực sự hiệu quả ở mọi lĩnh vực. Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của giáo dục, chưa thấy hết trách nhiệm đối với giáo dục nên chưa dành ưu tiên thỏa đáng tạo điều kiện phát triển giáo dục. Một số địa phương còn sử dụng ngân sách giáo dục vào những hoạt động không phục vụ mục đích giáo dục. Một số nhà lãnh đạo ít hiểu biết về giáo dục nên chưa quan tâm đúng mức trong việc chỉ đạo việc đầu tư cho giáo dục. - Trong khi tình hình kinh tế xã hội trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc và trên thế giới đang diễn ra nhiều xu thế đổi mới giáo dục mạnh mẽ thì nhiều tư tưởng chỉ đạo giáo dục ở nước ta vẫn còn xơ cứng, trì trệ. Chưa nhận thức đúng mức sự cần thiết phải tập trung quản lý nhà nước đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Nhận thức về những tác động của nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ nên chưa tạo được sự phù hợp của cơ chế quản lý giáo dục với cơ chế thị trường. Tư tưởng trọng bằng cấp dẫn đến những thành tích giả tạo trong giáo dục. Quan niệm đề cao kiến thức, coi nhẹ năng lực hoạt động của học sinh đã dẫn đến tình trạng còn tổ chức nhiều môn học trong chương trình giáo dục, phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, chưa tạo được niềm vui học tập cho người học. 15 - Chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa hợp lý, chưa quan tâm đúng mức đến các địa phương khó khăn. Đầu tư của nhà nước cho giáo dục còn thiếu hiệu quả, chưa tập trung cao cho những mục tiêu ưu tiên. Cơ cấu chi ngân sách giáo dục chưa hợp lý, trong đó phần chi cho hoạt động chuyên môn là không đáng kể. - Quá trình hội nhập quốc tế đã mang tới những cơ hội lớn nhưng cũng mang đến nhiều thách thức lớn đối với giáo dục. Trong xã hội, chủ nghĩa hình thức, hám danh vọng còn nặng nề; tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối mạnh việc dạy, học và thi cử. Mặt trái của kinh tế thị trường đã có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến giáo dục. Nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao trong khi khả năng đáp ứng của ngành giáo dục và trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn hạn chế. Sức đón nhận của thị trường lao động còn hạn hẹp, chưa đáp ứng nhu cầu việc làm của người lao động đã qua đào tạo. Do thời gian duy trì cơ chế tập trung quan liêu bao cấp quá dài, nảy sinh tư tưởng trông chờ ỷ lại quá lớn trong nhân dân kể cả chính quyền các cấp, sự bứt phá, dám nghĩ, dám làm còn hạn chế. Do đó công tác xã hội hoá nói chung, công tác XHHGD nói riêng còn quá nhiều bất cập. 16 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN Ề 2.1. Khái quát về sự phát triển Giáo dục tỉnh Yên Bái. ào tạo huyện Lục Yên 2.1.1. Điều kiện địa lý và phát triển kinh tế - xã hội huyện Lục Yên Lục Yên là huyện miền núi của tỉnh Yên Bái cách thành phố Yên Bái 93 km về phía Đông Bắc và cách thủ đô Hà Nội 270 km. - Vị trí địa lý: Phía Đông giáp huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang; phía Tây giáp huyện Văn Yên; phía Bắc giáp huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang, phía nam giáp huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái. - Tiềm năng kinh tế: Lục Yên có tuyến quốc lộ 70 chạy qua nối Hà Nội Việt Trì - Yên bái - Lào Cai, giao thông thuận tiện. Đất đai ở Lục Yên thích hợp trồng các loại cây như: hồng không hạt, cam, quýt, lúa …Lục Yên có 4 loài động vật chủ lực là trâu, bò, lợn, cá. - Diện tích: 807,3km2; Dân số: 105.104 người (năm 2008); Mật độ dân cư: 130 người/km2; huyện lỵ: Thị trấn Yên Thế Lục Yên có 24 đơn vị hành chính: 23 xã và 01 thị trấn , có 16 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm 53,3%, kinh 21,2%, Nùng, Mường, Thái, Cao Lan, Dáy, Dao, H.Mông… 2.1.2. Tình hình phát triển giáo dục và đào tạo huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái Kết thúc năm học 2010-2011 toàn huyện có 80 trường, 948 lớp, nhóm lớp, 24.955 học sinh (tăng 02 trường, giảm 41 lớp, nhóm lớp, giảm 622 học sinh so với năm học trước). Năm học 2011- 2012: Tổng số toàn huyện có 81 trường trong đó có 03 trường THPT, 01 TTGDTX, 929 lớp, nhóm lớp với 24.437 học sinh thuộc tất cả các bậc học; (tăng 01 trường; giảm 19 lớp và 518 học sinh so với năm học 2009 - 2010). Toàn huyện có 2.045 cán bộ, giáo viên, nhân viên, tăng 171 cán bộ, giáo viên, nhân viên so với năm học trước. Lục Yên đã triển khai thực hiện Nghị quyết X của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết 39 của HĐND tỉnh về đẩy mạnh phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2009-2015; Duy trì và nâng cao chất lượng đạt chuẩn quốc gia về chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức 1, phổ cập giáo dục trung học cơ sở tại 24 xã, thị trấn, đạt 100% nghị quyết; chú trọng công tác duy trì và xây dựng mới 13 trường đạt chuẩn quốc gia năm 2011, vượt 01 trường so với nghị quyết( vượt 02 trường so với đề án), tăng 6 trường so với năm 2009; tỷ lệ phòng học kiên cố chiếm 95,1%, đạt kế hoạch đề ra, tăng 17 0,87% so với năm 2009. Chỉ đạo triển khai xây dựng đề án phổ cập mẫu giáo cho trẻ 5 tuổi giai đoạn 2010-2015 và triển khai có hiệu quả đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012.(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, phương hướng, nhiệm vụ năm 2012 của UBND huyện Lục Yên) 2.2. Thực trạng về hoạt động giáo dục ở trường THPT Hồng Quang- huyện Lục Yên. 2.2.1. Đặc điểm, vị trí địa lý của trường THPT Hồng Quang. Trường THPT Hồng Quang đóng trên địa bàn xã Động Quan huyện Lục Yên dành cho con, em của các xã Động Quan, Trúc Lâu, Phúc Lợi, Trung Tâm, Khánh Hoà, An Lạc, Tô Mậu… theo học với nhiều dân tộc thiểu số như: Tày, Nùng, Dao…trong đó học sinh ngươpì Dao chiếm trên 65%. Đặc điểm tâm lý người dân tộc thiểu số rất khác nhau và phức tạp, họ rất hay tự ái, tự ti, nhút nhát, không mạnh dạn trong giao tiếp, không hay bộc lộ tình cảm riêng tư cho người khác biết nên vấn đề đặt ra cho công tác XHH là: nắm vững đặc điểm tâm lý học sinh dân tộc thiểu số là một vấn đề quan trọng. Trình độ dân trí còn nhiều hạn chế và không đồng đều, đường giao thông đi lại khó khăn, nhiều học sinh đi học xa nhà đến 15 - 30 km và phải ở trọ để học. Trường THPT Hồng Quang được thành lập từ năm 2003, thực hiện nhiệm vụ giáo dục cho các con em dân tộc thuộc các xã nói trên. Những năm gần đây tỷ lệ học sinh lớp 9 vào học lớp 10 tại trường THPT Hồng Quang đạt 65%, trung bình mỗi năm nhà trường có 18 lớp với số lượng học sinh là hơn 700 em. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT năm 2009 là 69%, năm 2010 là 100%, năm 2011 là 100%, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học năm sau cao hơn năm trước và đạt trung bình khoảng 15- 20%. 2.2.2. Thực trạng quản lý công tác duy trì sĩ s ố ở trường THPT Hồng Quang. - Quy mô phát triển trường lớp: Năm học 2011 - 2012 nhà trường có 18 lớp với 737 học sinh - Đội ngũ giáo viên: Nhà trường có 58 CB,GV,NV; tỷ lệ đạt chuẩn 100% - Công tác xã hội hoá giáo dục chưa được sâu rộng, trình độ dân trí thấp, phụ huynh học sinh ít quan tâm đến việc học tập của con em mình…. tinh thần, thái độ, ý thức học tập của một bộ phận học sinh chưa cao, chưa xác định được mục đích học để làm gì? học cho ai? chưa nhận thức được vai trò cần thiết, sự đòi hỏi, yêu cầu của xã hội về trình độ kiến thức khoa học hiện đại trong thời đại phát triển và xu hướng hội nhập quốc tế. 18 - Chất lượng phổ cấp giáo dục THCS thấp, chưa thực chất nên còn có những học sinh ngồi nhầm lớp, nhầm cấp vì thế học sinh không nắm được kiến thức mới dẫn đến các em học yếu, kém bỏ học giữa chừng ở trường THPT Hồng Quang. - Những năm trước đây BGH chưa quan tâm nhiều đến việc duy trì sĩ số, chưa có các biện pháp tích cực, hữu hiệu để duy trì sĩ số, chưa đặt nhiệm vụ duy trì sĩ số là một nhiệm vụ trọng tâm Thống kê số học sinh bỏ học HS bỏ học Tổng số Ghi chú HS Số HS Tỷ lệ % 1 2007-2008 974 98 10,06 2 2008-2009 728 30 4,12 3 2009-2010 681 70 10,28 4 2010-2011 728 23 3,1 5 2011-2012 737 10 1,4 Số liệu học kì I (Nguồn: Báo cáo sơ kết kì I năm học 2011-2012 của Trường THPT Hồng Quang) STT Năm học Từ bảng thống kê trên ta thấy 10.28% là số học sinh bỏ học năm 20092010 của trường THPT Hồng Quang cao gấp gần 3 lần so với mặt bằng chung của tỉnh (Tỉ lệ bỏ học ở bậc THPT năm 2009-2010 của tỉnh Yên Bái là 3.74%) và 1,4% là số học sinh bỏ học tính đến thời điểm cuối học kì I năm học 20112012 của trường THPT Hồng Quang. Mặc dù mới chỉ là số liệu của học kỳ I nhưng đây cũng là kết quả đáng mừng với những nỗ lực duy trì sĩ số của tập thể sư phạm nhà trường. Việc duy trì số lượng là một trong những vấn đề cần đặc biệt quan tâm vì tỷ lệ học sinh bỏ học trong những năm học trước thường rất cao (năm học 20072008 là 10,06%, năm học 2008-2009 là 4,12%, năm học 2009-2010 là 10,28%). Hơn nữa việc học sinh bỏ học có thể kéo theo nhiều hệ lụy cả trước mắt lẫn lâu dài, không chỉ đối với cá nhân, gia đình học sinh mà cả với nhà trường và xã hội. Khi bỏ học, tâm trạng chán chường, mặc cảm luôn đè nặng khiến những học sinh này thường dễ bị kích động, lôi kéo… Thậm chí một số trường hợp có thể sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. 2.2.3. Thực trạng về cơ sở vật chất của trường THPT Hồng Quang những năm qua CSVC của nhà trường từ năm học 2009- 2010 trở về trước: Quá nghèo nàn: + Không có sân tập cho hoạt động GDTC, GDQP- AN. 19 + Không có đủ phòng làm việc cho lãnh đạo, không có phòng cho văn thư- hành chính. + Không có công trình vệ sinh cho học sinh. + Không có phòng Y tế học đường để chăm sóc sức khoẻ cho học sinh + Không có phòng làm việc cho Đoàn thanh niên, Công đoàn. + Không có thư viện. + Không có phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, phòng thực hành… + Khuôn viên kém vệ sinh, thiếu tính sư phạm, nơi ở cho một bộ phận giáo viên tạm bợ, không đủ điều kiện tối thiểu… 2.2.4. Thực trạng về hoạt động giáo dục truyền thống, giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THPT Hồng Quang Trước năm học 2009-2010: Hoạt động GDTT, GDNGLL nghèo nàn, hiệu quả thấp, ít được quan tâm chỉ đạo, các hoạt động chủ yếu mang tính hình thức do nhận thức của BGH về vai trò của hoạt động này chưa đầy đủ, nguồn lực về tài chính, về khả năng tổ chức các hoạt động hạn chế do không khai thác được sức mạnh, tiềm năng của cộng đồng. Hiện nay: Các hoạt động này đã được tổ chức thường xuyên, trung bình hai tháng có một hoạt động được tổ chức theo qui mô lớn, các hoạt động đã đi vào chiều sâu, có tác động tích cực, hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo tại nhà trường. 2.2.5. Thực trạng về chất lượng giáo dục ở trường THPT Hồng Quang khi bắt đầu thực hiện đề tài Do CSVC nghèo nàn, phụ huynh ít quan tâm đến việc học hành của con cái, công tác XHHGD chưa được quan tâm đúng mức và các nguyên nhân khác nên chất lượng GD ở trường THPT Hồng Quang những năm trước đây được xếp vào tốp cuối khối THPT của tỉnh Yên Bái. Với tỉ lệ học sinh có học lực giỏi hàng năm không quá 0,6%, học sinh khá không vượt qua con số 15%, số còn lại là trung bình, yếu, kém.Tỉ lệ lưu ban, thi lại trung bình mỗi năm là 10%. Không có học sinh giỏi cấp tỉnh… Chất lượng giáo dục đạo đức thấp, hiện tượng vi phạm luật giao thông xảy ra thường xuyên, tỉ lệ đạo đức tốt + khá hàng năm không vượt qua con số 85%. Vì chất lượng đào tạo thấp nên niềm tin của phụ huynh, cộng đồng đôí với nhà trường ít, công tác XHHGD lại càng khó khăn hơn. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan