Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh thpt qua hoạt độ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh thpt qua hoạt động ngoài giờ lên lớp (thpt).

.PDF
70
31
112

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG ======***===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TRANH BIỆN CHO HỌC SINH THPT QUA HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP LĨNH VỰC: HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN MINH HỒNG TỔ BỘ MÔN: VĂN – NGOẠI NGỮ NĂM THỰC HIỆN: 2020 ĐIỆN THOẠI LIÊN HỆ: 0843135468 1 MỤC LỤC ĐỀ MỤC Trang Phần I. Đặt vấn đề 4 Phần II. Nội dung nghiên cứu 6 1. Cơ sở khoa học 6 1.1. Cơ sở lý luận 6 1.1.1. Khái niệm kỹ năng 6 1.1.2. Khái lược về tranh biện 6 1.2. Cơ sở thực tiễn 10 1.2.1. Yêu cầu về dạy học kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ thông 10 1.2.2. Thế mạnh rèn luyện kỹ năng của hoạt động ngoài giờ lên lớp 10 1.2.3.Sự phát triển của phong trào tranh biện trong giới trẻ hiện nay 11 1.2.4. Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh 12 2. Thực trạng giáo dục kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường THPT 12 2.1. Đánh giá thực trạng thông qua số liệu điều tra, khảo sát 13 2.2. Phân tích nguyên nhân của thực trạng 16 3. Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp 3.1. Một số nguyên tắc đề xuất biện pháp 3.2. Một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp 3 2.1. Phối hợp với các tổ chức, đoàn thể nhà trường xây dựng kế hoạch 18 18 19 19 3.2.2. Phát hiện và bồi dưỡng nhân tố có năng khiếu tranh biện 20 3.2.3. Tổ chức tốt hoạt động của câu lạc bộ tranh biện 25 3.2.4. Phối hợp với các đoàn thể tổ chức hoạt động ngoại khóa 30 4. Kết quả thực hiện 44 2 Phần III. Kết luận 47 Phụ lục 50 Tài liệu tham khảo 68 3 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Hiện nay, đất nước ta đang bước sang một giai đoạn phát triển mới với những yêu cầu mới về phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người. Đổi mới giáo dục đã trở thành nhu cầu cấp thiết. Chính trong bối cảnh đó, ngày 4/11/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục của Nghị quyết là: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lí luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.” Tư tưởng này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển giáo dục trên thế giới hiện nay. 1.2. Từ thực tế của đời sống xã hội, ngành GD&ĐT đặt ra yêu cầu phải đào tạo được thế hệ người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc đồng thời có ý thức chủ động, tích cực bày tỏ quan điểm, lập trường trước những vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội, hướng tới chân lí của mọi vấn đề. Trong dạy học, tất cả các bộ môn cần rèn luyện cho học sinh biết tranh biện vấn đề, tạo thói quen tốt trong nhìn nhận, đánh giá các vấn đề trong cuộc sống. Yêu cầu mang tính cấp thiết ấy cũng góp phần thực hiện mục tiêu kết hợp dạy “người” với dạy “chữ”, lí thuyết phải gắn với thực hành, giúp học sinh phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện được khả năng làm việc độc lập, làm việc theo nhóm. 1.3. Trong thực tiễn giáo dục hiện nay, vấn đề rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh đang được các nhà giáo dục rất quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề này mới dừng lại ở bậc đại học, cao đẳng. Ở bậc THPT, vấn đề chưa được đầu tư thỏa đáng, việc nghiên cứu, vận dụng còn mang tính rời rạc, chưa hệ thống, thiếu hiệu quả. Thực tế cho thấy, kỹ năng tranh biện ở học sinh THPT còn tồn tại dưới dạng tiềm năng, chưa được khai thác. Do còn chú trọng việc cung cấp trên lớp, giáo viên chưa khai thác hết các hình thức giáo dục như trải nghiệm sáng tạo, hoạt động ngoài giờ lên lớp để tạo môi trường thuận lợi cho các em rèn luyện kỹ năng này. Tuy đây không phải là hoạt động chủ đạo nhưng là bộ phận không thể thiếu của quá trình giáo dục trong nhà trường phổ thông, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ. Xu hướng chung của những nền giáo dục tiến bộ trên thế giới là xây dựng một nền giáo dục thực sự dân chủ. Tranh biện của học sinh trong quá trình dạy học là biểu hiện tích cực của một môi trường học tập thân thiện, tích cực. Rèn luyện, phát huy khả năng tranh biện của học sinh là một trong những cách góp phần xây dựng một nền giáo dục dân chủ, tiến bộ. Xuất phát từ những đòi hỏi 4 của cuộc sống và xã hội về chất lượng nguồn nhân lực, mục tiêu giáo dục và thực tiễn dạy học ở trường THPT, chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp” . 2. Tính mới của đề tài - Góp phần làm sáng tỏ và sâu sắc thêm hệ thống lý luận về vấn đề rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT; xác định những phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh. - Đánh giá khách quan những thành tựu và tồn tại của việc rèn luyện kỹ năng tranh biện trong dạy học hiện nay. Đó là cơ sở thực tiễn để đề xuất các biện pháp rèn luyện kỹ năng này cho học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. - Đề xuất những biện pháp cụ thể trong rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Bao gồm: xây dựng kế hoạch phối hợp với các tổ chức, đoàn thể; phát hiện và bồi dưỡng nhân tố có năng khiếu tranh biện; tổ chức tốt hoạt động của câu lạc bộ tranh biện; phối hợp với các đoàn thể tổ chức hoạt động ngoại khóa. Đây là những biện pháp mới đã được thực hiện có hiệu quả tại đơn vị công tác, có khả năng áp dụng đối với các trường THPT. 3. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp điều tra, khảo sát và xử lý số liệu. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. - Phương pháp phỏng vấn. - Phương pháp phân tích - tổng hợp - Phương pháp so sánh… 4. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung đề tài gồm: - Cơ sở khoa học - Thực trạng giáo dục kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường THPT - Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp - Kết quả thực hiện 5 PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở khoa học 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm kỹ năng Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong lĩnh vực nào đó vào thực tế. Kỹ năng thể hiện khả năng thực hiện có kết quả những hành động trên cơ sở những kiến thức có được đối với việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra phù hợp với mục tiêu và điều kiện cho phép. Để giải thích nguồn gốc hình thành kỹ năng có lẽ không có cơ sở lý thuyết nào tốt hơn hai lý thuyết về phản xạ có điều kiện (được hình thành trong thực tế cuộc sống của cá nhân) và phản xạ không điều kiện (là những phản xạ mà cá nhân sinh ra đã sẵn có). Trong đó, kỹ năng của cá nhân gần như thuộc về cái gọi là phản xạ có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình thành từ khi cá nhân tham gia hoạt động thực tế của cuộc sống. Ví dụ: kĩ năng giao tiếp, kỹ năng quản trị chỉ được hình thành trong hoạt động công việc của cá nhân. Đa số kỹ năng mà chúng ta có đều xuất phát từ việc rèn luyện, bồi dưỡng. Như vậy, nền tảng thành công của con người trong cuộc sống là do 90% được đào tạo và tự đào tạo, chỉ có 2% là kỹ năng bẩm sinh. Có nhiều cách phân loại kỹ năng. Về cơ bản, kỹ năng có hai loại. Loại thứ nhất là kỹ năng cứng. Đây là kỹ năng có tính nền tảng có được do đào tạo từ nhà trường hoặc tự học. Loại thứ hai là kỹ năng mềm có được từ hoạt động thực tế. Kỹ năng mềm gồm nhiều loại kỹ năng phong phú như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán, kỹ năng tranh biện… Để thành công, đòi hỏi con người phải trang bị cả kĩ năng cứng và kỹ năng mềm, phải vận dụng linh hoạt hai loại kỹ năng cơ bản này trong học tập và trong cuộc sống. Trong đó, việc vận dụng các kỹ năng mềm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay. 1.1.2. Khái lược về tranh biện Để có một cái nhìn khách quan và chính xác về vấn đề rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh trong dạy học nói chung và hoạt động ngoài giờ lên lớp nói riêng thì trước hết chúng ta phải tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan đến tranh biện và phương pháp tranh biện.  Kỹ năng tranh biện “Tranh biện” là một trong những hoạt động lâu đời nhất của nền văn minh. Tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…, việc thực hành tranh biện được thể hiện rõ ràng không chỉ qua các hoạt động giáo dục (educational debate) mà còn qua các phương tiện truyền thông (media) và đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Tranh biện là cuộc trình diễn tổng hợp các kỹ năng: tư duy 6 phản biện, nói trước công chúng, nghiên cứu, tổ chức sắp xếp, làm việc nhóm, nghe, ghi chép… Vì thế, chúng ta có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về tranh biện. Theo “Từ điển Hán Việt Từ Nguyên” của Bửu Kế đã định nghĩa “Tranh” là “giành”; “biện” là “cãi lẽ”; “tranh biện” là “cãi lẽ để giành lẽ phải về phần mình”; “Tranh biện” đồng nghĩa với “tranh luận”. Hay nhóm tác giả Hoàng Phê, Hoàng Thị Tuyền Linh, Vũ Xuân Lương, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hòa trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt” cũng có quan niệm khác: “Tranh biện” là “tranh luận phải trái”; “Tranh luận” là “bàn cãi để tìm ra lẽ phải”; “tranh biện” đồng nghĩa với “tranh cãi”. Theo “Từ điển Oxford” định nghĩa “tranh biện là việc tham gia vào cuộc tranh luận bằng việc nêu ra ý kiến trái ngược”. Còn hiểu theo tổ chức Vietnam Youth to Debate (Y2D) – tổ chức nghiên cứu và giáo dục về tranh biện cho thanh thiếu niên Việt Nam lại có định nghĩa khác. Hiểu theo nghĩa hẹp, “tranh biện là một trong những loại hình giao tiếp bằng lời”. Tuy nhiên, tranh biện cũng có những đặc điểm khác với những loại hình giao tiếp bằng lời khác. Những đặc điểm của tranh biện trong tương quan với các loại hình khác có thể được thầy Nguyễn Thiên Minh - cán bộ trung tâm Ứng dụng Việt ngữ học, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn thể hiện thông qua bảng sau: Loại hình giao tiếp Ví dụ Mục đích chính Ứng Phương Đặc điểm dụng Biến thể tiện chủ nổi bật chủ yếu (nếu có) yếu trong Đối thoại Nói chuyện Trao đổi Mọi hình Tự do, không thông thức của Giao tiếp hạn định tin lời nói Thảo luận Cuộc họp Thống Giả thuyết nhất các Kết luận ý kiến Cần người dẫn dắt Giáo dục Thương Cần chương thuyết trình định Hội họp trước Tranh luận Các bài tranh Lập luận Tìm ra cái gì Kết luận Chính cao độ xác Giáo dục Luật Phê 7 luận trên tạp chí khoa học Tranh biện Các bút chiến trên báo đúng Tìm ra ai đúng Phân biệt pháp rạch ròi đúng Khoa sai học Lập luận phán Nghệ Có một giải thuật pháp “tối Tư tưởng ưu” hơn các giải pháp Giáo dục khác Các vấn đề xã hội Hiểu theo nghĩa rộng, “Tranh biện được hiểu là quá trình tư duy và biểu đạt tư duy từ thu thập, phân tích xử lý thông tin đến xây dựng, hệ thống sắp xếp các lập luận để ra quyết định. Tranh biện có thể sử dụng ngôn ngữ (thông qua nói, viết) hoặc không sử dụng ngôn ngữ (tự tranh biện – trong bản thân từng cá nhân). Tranh biện giúp giải quyết vấn đề, bằng cách chỉ ra những xung đột/ mâu thuẫn giữa các luận điểm do người học sử dụng tư duy phản biện để phản đối trực tiếp trên luận điểm của đối phương” Tranh biện còn nhằm thuyết phục chính bản thân mình, hoặc người khác rằng lựa chọn nào là tốt hơn, đặt trong những bối cảnh và điều kiện cụ thể. Kết luận của tranh biện mang tính tương đối, không có đúng nhất mà mang tính tạm thời tại thời điểm kết thúc cuộc tranh biện. Trên cơ sở tham khảo ý kiến từ các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, theo chúng tôi: Tranh biện là quá trình giao lưu ngôn ngữ đòi hỏi những người tham gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn bằng hệ thống các lập luận logic. Đó là cách ngắn nhất và ôn hòa nhất giúp mọi người cùng đi đến một nhận thức chung. Tranh biện cũng rất khác với kiến nghị, thảo luận, tranh luận và phản biện. Trong đó, “Kiến nghị là đưa ra ý kiến về một vấn đề để mọi người bàn bạc và đưa ra hướng giải quyết”. Trong tranh biện, kiến nghị là vấn đề được đưa ra để làm chủ đề để tranh biện. Đó có thể là một nhận định, một đề xuất, hay một dự báo về một vấn đề nào đó. “Thảo luận là trao đổi ý kiến về một vấn đề, có phân tích lý lẽ”. Thảo luận sẽ là một khâu nằm trong tranh biện bởi nó là quá trình mọi người giao lưu, bàn bạc để nhất trí đường hướng, cùng nhau giải quyết vấn đề mà chúng ta đang cần phải tranh biện với nhau. 8 Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt thông dụng” của Như Ý, NXB Giáo dục định nghĩa “Tranh luận là bàn cãi có phân tích lí lẽ để tìm ra lẽ phải”. Như vậy, mục đích cuộc tranh luận ở đây là tìm xem ai đúng. Còn Phản biện là việc sử dụng một lý lẽ để chống lại một lý lẽ, chỉ ra điểm yếu, điểm sơ hở của lý lẽ đó dựa trên các luận điểm được đưa ra. Mục tiêu chính là thiết lập sự cân nhắc đối với các lựa chọn được đưa ra và tăng cường sự thuyết phục đối với quan điểm cá nhân bằng cách làm suy yếu quan điểm của đối phương. Như vậy, chúng ta thấy rằng “tranh biện” là một khái niệm khác hẳn với những khái niệm trên và không thể đồng nhất tất cả các khái niệm đó với nhau. Về bản chất, tranh biện là quá trình giao lưu ngôn ngữ đòi hỏi những người tham gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn. Đó là cách ngắn nhất và ôn hòa nhất giúp mọi người cùng đi đến một nhận thức chung. Tranh biện được coi là tinh hoa của năng lực sử dụng ngôn ngữ, là cách thức phát triển trí tuệ, là hòn đá mài sắc tư duy. Chính vì vậy, tranh biện là một kỹ năng thiết yếu của con người, nhất là trong thời đại ngày nay.  Phương pháp tranh biện Tranh biện là xương sống của giáo dục. Trong các môn khoa học tự nhiên, người nghiên cứu có thể chứng minh được sự thật khi dùng những dữ kiện hay thử nghiệm tự nhiên vào việc này. Tuy nhiên, đối với những môn xã hội chẳng hạn thì cách tiếp cận vấn đề hoàn toàn khác. Trong dạy học, tổ chức cho học sinh tranh biện vừa là một hình thức tổ chức dạy học vừa là phương pháp dạy học cần áp dụng phổ biến hiện nay nhằm giúp các em tự chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng… Vậy “phương pháp tranh biện” trong dạy học được hiểu như thế nào? Phương pháp tranh biện là cách giáo viên đưa ra, gợi mở cho học sinh suy nghĩ, đánh giá về một vấn đề nhất định theo những hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Sau đó dựa trên những tìm hiểu của các em, giáo viên tổ chức cho các em trao đổi, bàn bạc, phản biện về vấn đề. Học sinh sẽ đưa ra và bảo vệ quan điểm của mình, đồng thời thuyết phục đối phương theo ý kiến đó bằng những lập luận, lí lẽ, bằng chứng xác thực nhằm làm rõ những khía cạnh khác nhau của vấn đề và làm giàu sự hiểu biết của cá nhân theo yêu cầu của mục tiêu và nhiệm vụ dạy học. Trong quá trình dạy học, giáo viên có thể lựa chọn sử dụng tranh biện trong việc kiểm tra bài cũ, tổ chức dạy học và nghiên cứu kiến thức mới; củng cố và kiểm tra, đánh giá. Hiểu một cách đơn giản về phương pháp này là giáo viên đề xướng, tổ chức còn học sinh chủ động trao đổi, bàn luận, tranh biện, linh hoạt, sáng tạo tiếp thu tri thức một cách vững chắc và hiệu quả. Trong hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo viên có thể bằng nhiều hình thức như tổ chức các diễn đàn tranh luận theo chủ đề, thành lập câu lạc bộ tranh biện, 9 lồng ghép trong các hoạt động theo chủ điểm… Qua đó giáo viên có thể giúp học sinh rèn luyện kỹ năng tranh biện qua những hoạt động phong phú, sinh động và hấp dẫn. Đây là một phương pháp dạy học mới, có khả năng vận dụng hiệu quả trong trường THPT. 1. 2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Yêu cầu về dạy học kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ thông Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung Ương Đảng khoá 8 khẳng định “Giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 9 nhấn mạnh “Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Các nghị quyết của Đảng, quan điểm của Nhà nước Việt Nam đã khẳng định vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển của đất nước cũng như khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục trong sự nghiệp phát triển con người. Đồng thời nhấn mạnh con người phát triển toàn diện không chỉ giỏi về tri thức khoa học mà còn cần có hệ thống năng lực cơ bản để đáp ứng những yêu cầu ngày một cao của xã hội. Trước yêu cầu đó, chương trình giáo dục THPT hiện nay đang được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”. Khác với cách tiếp cận nội dung, tiếp cận năng lực chú trọng vào việc yêu cầu học sinh phải thể hiện được, làm được, biết vận dụng những kiến thức để giải quyết các tình huống đặt ra trong cuộc sống. Vì thế, việc học tập theo hướng tiếp cận này trở nên gần gũi và thiết thực đối với cá nhân và cộng đồng. Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới. Với đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo, mục tiêu giáo dục đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng lý thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho người học. Điều đó cũng khẳng định thêm tầm quan trọng và yêu cầu thiết yếu của việc giáo dục, trang bị các kỹ năng cần thiết cho học sinh như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán, kỹ năng tranh biện… Yêu cầu này đặt ra đối với tất cả các bộ môn, trong tất cả mọi hoạt động giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông. 1.2.2. Thế mạnh rèn luyện kỹ năng tranh biện của hoạt động ngoài giờ lên lớp Trong thực tế, việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh gặp không ít khó khăn. Khi xây dựng chương trình, nội dung dạy học, giáo viên đều phải xác định các 10 mục tiêu: cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ và định hướng phát triển năng lực. Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong dạy học và mỗi giáo viên đều nhận thức sâu sắc yêu cầu này. Tuy nhiên, do phải chuyển tải nhiều nội dung trong dung lượng thời gian hạn chế, giáo viên có khuynh hướng tập trung cung cấp kiến thức mà ít quan tâm rèn luyện kỹ năng cho học sinh, nhất là các kỹ năng mềm. Chính bởi vậy, rất nhiều học sinh còn thiếu và yếu các kỹ năng cần thiết. Nhiều em tỏ ra thụ động trong học tập và thiếu độc lập, thiếu chính kiến khi nhìn nhận các vấn đề của đời sống. Các em cũng gặp lúng túng khi bày tỏ quan điểm, gặp nhiều khó khăn khi đàm phán hay thuyết phục người khác. Thực tế đó đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp, vận dụng linh hoạt các hình thức giáo dục để rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Hoạt động giáo dục có thể lấp được lỗ hổng về kỹ năng hiệu quả nhất mà chúng ta có thể vận dụng chính là hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đây là hoạt động được tổ chức ngoài giờ học văn hóa, là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động. Hoạt động ngoài giờ lên lớp tạo điều kiện cho học sinh phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực chủ động trong học tập, rèn luyện toàn diện. Với những nội dung phong phú và hình thức hoạt động hấp dẫn, hoạt động ngoài giờ lên lớp đã trở thành nơi cung cấp kiến thức, hiểu biết về xã hội và rèn luyện những kĩ năng cần thiết cho học sinh. Bởi vậy, khai thác hoạt động này một cách có hiệu quả là cơ sở quan trọng cho việc rèn luyện các kỹ năng, trong đó có kỹ năng tranh biện. 1.2.3. Sự phát triển của phong trào tranh biện trong giới trẻ hiện nay Phát triển mạnh một thời gian dài tại nhiều quốc gia phát triển và mới xuất hiện ở Việt Nam vài năm trở lại đây nhưng tranh biện đang ngày càng thu hút sự quan tâm của giới trẻ Việt. Phong trào tranh biện bắt đầu du nhập vào Việt Nam và nhanh chóng được các bạn trẻ ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đón nhận. Nhìn chung, phong trào tranh biện đang ngày càng được phát triển, lan rộng ở Việt Nam thông qua các chương trình tranh biện như “Tôi lên tiếng”, “Trường Teen” phát sóng trên kênh VTV7. Nhiều câu lạc bộ tranh biện được thành lập ở các trường đại học như: ĐH Luật Hà Nội, ĐH Kiểm sát, ĐH Kinh tế quốc dân, ĐH FPT, Học viện Ngoại giao, ĐH Mở Thành phố Hồ Chí Minh… Nhiều cuộc thi đấu tranh biện được tổ chức, thu hút sự quan tâm của giới trẻ. Dù xuất hiện muộn hơn nhưng từ 4 năm qua, phong trào tranh biện ở thành phố Vinh đang dần trở thành món ăn tinh thần ưa thích của nhiều bạn trẻ. Nếu năm 2016 mới chỉ có duy nhất câu lạc bộ tranh biện PDC của trường THPT chuyên Phan Bội Châu thì nay đã xuất hiện thêm các câu lạc bộ tranh biện mới như Thunder Debate Club của trường THPT chuyên Đại học Vinh hay H.D.C. Huỳnh Debate Club của trường THPT Huỳnh Thúc Kháng. 11 Tại các trường THPT ở thành phố Vinh, phong trào này tuy được bảo trợ trực tiếp từ Đoàn trường nhưng chủ yếu các hoạt động đều do các em học sinh tự điều hành từ cách thành lập câu lạc bộ cho đến tổ chức các cuộc tranh biện với nhau. Do đó, dù tranh biện là hoạt động mang lại rất nhiều mặt tích cực cho học sinh song chất lượng và cả tính lâu dài của hoạt động này vẫn còn tùy thuộc rất nhiều vào các thành viên cốt cán của các câu lạc bộ. Đã đến lúc phong trào tranh biện cần được quan tâm nhiều hơn để hướng phát triển theo chiều chất, lượng và bền vững hơn. Từ đó giúp các em có thêm nhiều cơ hội rèn luyện tư duy đa chiều, tư duy phản biện không chỉ trong học tập mà còn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. 1. 2.4. Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh Đối tượng học tập của trường THPT là những thanh thiếu niên độ tuổi từ 15 – 18, đang ở độ tuổi phát triển, có những thay đổi hết sức lớn lao về tâm sinh lý, có sự trưởng thành vượt bậc về phẩm chất và năng lực. Đây là thời kì mà có em có khả năng tư duy lí luận và tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo về những điều đã học ở nhà trường, ngoài xã hội và cả những điều chưa được học. Tính độc lập tư duy là một phẩm chất rất quý báu mà người thầy cần phải giữ gìn và phát triển. Nếu như người giáo viên không đổi mới phương pháp thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu học tập của các em. Phải làm thế nào để phát huy được năng lực nhận thức sáng tạo của học sinh, thôi thúc các em phải tìm tòi, suy nghĩ để tìm ra những lập luận, bằng chứng xác đáng để thuyết phục người khác và chứng minh ý kiến của mình. Bên cạnh nhu cầu học tập nâng cao kiến thức, các em cũng có nhu cầu bộc lộ bản thân, nhất là trong giai đoạn mà quyền cá nhân con người, tính dân chủ được đề cao như hiện nay. Học sinh THPT có khát vọng, có chính kiến riêng, có quan điểm và phán đoán của mình với những vấn đề chung, chưa hoàn toàn tin tưởng vào uy quyền của cha mẹ, thầy cô, sách vở, thường “tìm ra những cái sai sót” trong lập luận của thầy cô giáo hoặc tài liệu, có xu hướng tranh chấp và phản đối với hình thức rất quyết liệt. Các em mong muốn được thể hiện mình trước thầy cô, bạn bè, muốn khẳng định chính kiến của bản thân, muốn chứng minh sự tiến bộ, trưởng thành của mình. Ngoài ra, ở độ tuổi 15 – 18 các em học sinh thường rất hiếu động, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá. Trong quá trình đó, học sinh cần có người định hướng cho mình cách làm, hướng đi để tránh rơi vào tình trạng ngộ nhận, chủ quan hoặc sai lầm. Như vậy, nhu cầu học tập và bộc lộ bản thân của học sinh cũng là một cơ sở để phát huy tiềm năng học tập, rèn luyện kỹ năng tranh biện cho các em. 2. Thực trạng giáo dục kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường THPT 2.1. Đánh giá thực trạng thông qua các số liệu điều tra, khảo sát 12 Để có cái nhìn đầy đủ, chính xác về thực trạng giáo dục kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát. Tháng 9/2019, chúng tôi đã phát phiếu khảo sát với đối tượng là 200 học sinh và 40 giáo viên của 4 trường THPT tại địa bàn thành phố Vinh (THPT Huỳnh Thúc Kháng, THPT chuyên Phan Bội Châu, THPT Hà Huy Tập, THPT Lê Viết Thuật). Mỗi trường lấy ý kiến đại diện của 50 học sinh và 10 giáo viên. Nội dung chủ yếu hỏi về nhận thức của học sinh và giáo viên về tầm quan trọng của kỹ năng tranh biện cũng như thực tế rèn luyện kỹ năng này tại nhà trường THPT hiện nay. Phương pháp nghiên cứu được chúng tôi sử dụng là điều tra qua hệ thống câu hỏi nhanh. Đối tượng khảo sát trả lời hoặc đánh dấu vào phương án lựa chọn. 2.1.1. Khảo sát, đánh giá đối với học sinh Về phía học sinh, chúng tôi đưa ra một số câu hỏi nhằm tìm hiểu mức độ hiểu biết và hứng thú của các em đối với hoạt động tranh biện và thông tin về thực tế dạy học kỹ năng này qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Kết quả như sau: Bảng 2.1.1 Câu hỏi 1. Khi thuyết phục người khác em cảm thấy thế nào? 2. Em đã từng biết đến hoạt động tranh biện chưa? Phương án trả lời Tần số Tỷ lệ % A. Dễ dàng 20 10 B. Khó khăn 120 60 C. Bình thường 60 30 A. Chưa 24 12 B. Biết nhưng chưa hiểu rõ 136 68 C. Hiểu rõ 40 20 A. Là hình thức tranh luận văn minh 160 80 12 6 28 14 170 85 30 15 0 0 70 35 3. Theo em, tranh biện là B. Bản chất là tranh cãi hoạt động như thế nào? C. Là hình thức bảo vệ đến cùng quan điểm cá nhân A. Rất cần thiết 4. Theo em, có cần thiết rèn luyện kỹ năng tranh B. Cần thiết biện cho học sinh không? C. Không cần thiết 5. Tại trường em có câu A. Có 13 lạc bộ tranh biện không? B. Không 6. Tại trường em có tổ chức hình thức tranh biện trong HĐNGLL không? 130 65 C. Không rõ 10 5 A. Đã tổ chức 0 0 B. Chưa tổ chức 170 85 C. Không nhớ 10 5 A. Mới mẻ, có tính tương tác 162 7. Theo em, HĐNGLL cần được tổ chức như thế B. Giữ nguyên như cũ nào? C. Đơn giản 81 26 13 12 6 Bảng số liệu 2.1.1 cho thấy, đa số học sinh nhận thức được tầm quan trọng của khả năng thuyết phục, đàm phán đối với thành công của mỗi người trong cuộc sống. Tuy nhiên 60% học sinh thấy gặp khó khăn khi thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của mình. Các em cảm thấy lúng túng khi trình bày quan điểm cá nhân, đặc biệt là khi nói trước đám đông. Nhiều em đã biết đến hoạt động tranh biện nhưng chưa hiểu rõ (68%). Nhận thức đó là một hình thức tranh luận văn minh (80%), phần lớn các em khẳng định việc rèn luyện kỹ năng tranh biện là rất cần thiết (85%). Tuy nhiên, khi được hỏi thêm về bản chất của tranh biện, nhiều em còn tỏ ra mơ hồ trong phân biệt kỹ năng thuyết trình và kỹ năng tranh biện. Khi được hỏi “Tranh biện có gì khác với thuyết trình?”, một số em còn nhầm lẫn hoặc đánh đồng hai kỹ năng này. Ở câu hỏi về Hoạt động ngoài giờ lên lớp, 81% học sinh bày tỏ mong muốn hình thức sinh hoạt cần đa dạng, hấp dẫn, có tính tương tác cao, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong các hình thức sinh hoạt, tranh biện vẫn là một hoạt động mới mẻ, chưa được tổ chức ở các trường. Hiện chỉ có 2/4 trường được khảo sát có câu lạc bộ tranh biện (THPT Huỳnh Thúc Kháng, THPT chuyên Phan Bội Châu). Tuy nhiên, hoạt động của các câu lạc bộ này chưa thực sự tạo được dấu ấn nổi bật và có sức lan tỏa rộng rãi. Cá biệt có em được hỏi không biết tại trường mình có câu lạc bộ tranh biện hay không (5%). 2.1.2. Khảo sát, đánh giá đối với giáo viên Về phía giáo viên, chúng tôi đưa ra một số câu hỏi nhằm tìm hiểu nhận thức và những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Kết quả thu được như sau: 14 Bảng 2.1.2 Câu hỏi Phương án trả lời Tần số Tỷ lệ % 1. Theo thầy /cô có cần A. Rất cần thiết thiết rèn luyện kỹ năng B. Cần thiết tranh biện cho học sinh không? C. Không cần thiết 34 85 6 15 0 0 2. Thầy/cô đã từng A. Thường xuyên hướng dẫn học sinh rèn B. Không thường xuyên luyện kỹ năng tranh biện chưa? C. Chưa thực hiện 8 20 28 70 4 10 6 15 30 75 4 10 28 70 10 25 3. Việc rèn luyện kỹ năng A. Đầy đủ qua các tiết học trên lớp B. Chưa đầy đủ đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu của học sinh chưa? C. Thiếu hiệu quả 4. Theo thầy/cô,có thể A. Có thể thực hiện lồng ghép dạy học kỹ B. Khó thực hiện năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp C. Không nên thực hiện không? 2 5 Bảng 2.1.2. cho thấy 85% giáo viên nhận thấy rất cần thiết phải rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh. Tuy nhiên, chỉ có 20% giáo viên thường xuyên hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng này, 70% thực hiện một cách không thường xuyên, cá biệt có 10% chưa thực hiện. Qua thực tế dạy học nhiều giáo viên nhận thấy, các tiết học trên lớp chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu rèn luyện kỹ năng của học sinh (75%). Như vậy cũng có nghĩa là chưa đáp ứng được yêu cầu dạy học toàn diện. Mặc dù thấy được ưu thế của hoạt động ngoài giờ lên lớp trong rèn luyện kỹ năng nhưng không phải ai cũng có đủ khả năng thực hiện. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn thêm một số giáo viên về những khó khăn mà họ gặp phải khi tổ chức cho học sinh rèn luyện kỹ năng qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các ý kiến nêu lên một số vấn đề như sau: Giáo viên có thế mạnh trong dạy học bộ môn nhưng hạn chế trong năng lực tổ chức hoạt động ngoài giờ. Những gì họ có được phần lớn đều là kinh nghiệm học hỏi qua thực tiễn. Trên thực tế, hoạt động ngoài giờ lên lớp cần đến sự phối hợp của nhiều lực lượng trong nhà trường, cá nhân giáo viên rất khó thực hiện. Bên cạnh đó, đây là hoạt động đòi hỏi có một cơ sở vật chất đầy đủ mới đạt hiệu quả cao. Chia sẻ thêm về những khó khăn trong lồng ghép giáo dục kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, nhiều giáo viên cho rằng đây là kỹ năng đòi hỏi một hình thức tổ chức phù hợp. Những hình thức lâu nay các trường 15 THPT thực hiện như giao lưu, hỏi đáp, trò chơi… khó có hiệu quả. Nhiều giáo viên bày tỏ mong muốn có một hình thức tổ chức vừa mới mẻ, vừa sát với mục tiêu rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh. Như vậy, có thể thấy việc rèn luyện kỹ năng, trong đó có kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ. 2.2. Phân tích nguyên nhân của thực trạng Số liệu khảo sát, điều tra cho thấy học sinh rất hứng thú với hoạt động tranh biện và có mong muốn được rèn luyện kỹ năng này. Tuy nhiên những hiểu biết và khả năng vận dụng kỹ năng tranh biện vào thực tiễn của các em còn hạn chế. Một số em có năng khiếu tranh biện nhưng tất cả mới chỉ đang ở dạng tiềm năng, chưa được phát huy tối đa. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập cũng như sự thành công trong cuộc sống của các em sau này. Trên thực tế, đa số giáo viên rất mong muốn được tham gia giáo dục kỹ năng tranh biện cho học sinh nhưng còn vướng mắc trong phương pháp, đặc biệt là cách tổ chức dạy học trong lĩnh vực hoạt động ngoài giờ lên lớp. Việc tổ chức hoạt động ngoài giờ ở các trường hiện nay chủ yếu do Đoàn trường và Ban ngoài giờ lên lớp đảm nhiệm, chưa có sự tích cực tham gia của của các giáo viên bộ môn. Điều này dẫn đến chất lượng của hoạt động ngoài giờ còn chưa đạt hiệu quả, năng lực đàm phán, thuyết phục và khả năng tư duy độc lập của học sinh còn hạn chế. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng đó? Qua khảo sát và tìm hiểu thực trạng, chúng nhận thấy có một số nguyên nhân cơ bản như sau: Thứ nhất, chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến thức, chưa có sự đầu tư đúng mức cho dạy kỹ năng, nhất là các kỹ năng mềm. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp với các chủ điểm quen thuộc và những hình thức sinh hoạt lặp đi lặp lại làm giảm hứng thú tham gia của học sinh, không tạo được nhiều sân chơi cho các em rèn luyện các kỹ năng, trong đó có kỹ năng tranh biện. Kế hoạch hoạt động còn hết sức bị động, lúng túng. Việc định hướng nội dung, hình thức về hoạt động ngoài giờ lên lớp ở một số trường chưa có sự sáng tạo. Lãnh đạo một số trường chưa có biện pháp cụ thể. Nội dung hoạt động ngoài giờ lên lớp còn nghèo nàn, bó hẹp trong một số chủ điểm, hình thức còn đơn điệu, chưa thiết thực, chưa gắn với nhu cầu thực tế cuộc sống, chưa đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của học sinh. Chính vì vậy các hoạt động ngoài giờ lên lớp chưa lôi cuốn được học sinh tham gia, chưa mang lại hiệu quả giáo dục, chưa đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục hiện nay. Sự phối hợp giữa các tổ nhóm, đoàn thể trong nhà trường trong tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp còn chưa thật nhịp nhàng, hiệu quả, ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động. Thứ hai, giáo viên do áp lực chuyên môn quá lớn nên tập trung thời gian, công sức cho công tác chuyên môn, ít có thời gian quan tâm đến các hoạt động sau giờ học của học sinh. Nhiều thầy cô còn xem nhẹ hoạt động này, chỉ tập 16 trung vào các hoạt động dạy học trên lớp. Một bộ phận giáo viên chưa thực sự nhận thức được vai trò và tác dụng to lớn của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đối với việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Các tiết học do chạy theo việc chuyển tải kiến thức nên quỹ thời gian cho rèn luyện kỹ năng hạn chế. Một số giáo viên còn ngại đổi mới phương pháp dạy học. Riêng việc tiếp cận và sử dụng phương pháp tranh biện còn tỏ ra vô cùng xa lạ đối với nhiều giáo viên ở các trường THPT. Trong khi đó, đời sống xã hội ngày nay liên tục phát triển, đòi hỏi nhà trường phải trang bị cho học sinh không chỉ những kiến thức cập nhật mà còn là những kỹ năng mới. Có những kỹ năng nếu giáo viên không quan tâm sẽ khiến học sinh chịu thiệt thòi, nhất là trong cuộc sống sau này. Bên cạnh đó, Hoạt động ngoài giờ lên lớp là hình thức giáo dục mới được thực hiện trong thời gian gần đây. Giáo viên, nhất là những người trong độ tuổi 35 - 55 chưa được đào tạo nội dung này ở các trường đại học. Những gì họ có chủ yếu qua tập huấn, tự học và học hỏi kinh nghiệm từ thực tiễn. Bởi vậy, nhiều giáo viên ngoài hạn chế về năng lực còn ngại đổi mới, thiếu sáng tạo trong tìm kiếm những hình thức tổ chức hoạt động đáp ứng yêu cầu dạy học kỹ năng cho học sinh. Thứ ba, nhiều học sinh còn có tâm lý áp lực thi cử nên chú trọng nhiều đến bài vở hơn là rèn luyện kỹ năng. Học sinh của các trường trên địa bàn thành phố Vinh nói chung, trường THPT Huỳnh Thúc Kháng nói riêng còn học thêm ngoài nhà trường quá nhiều, các em không có thời gian để tham gia nhiều các hoạt động tập thể. Nhiều em được gia đình bao bọc, chỉ biết đến việc học, thiếu kỹ năng sống, hạn chế trong khả năng tự lập. Một số em còn thụ động, chưa phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập. Lối học chạy theo điểm số là nguyên nhân khiến nhiều em bỏ lỡ cơ hội để rèn luyện kỹ năng, nhất là các kỹ năng mềm. Nhiều bậc phụ huynh còn có những quan niệm chưa đúng về hoạt động giáo dục ngoài giờ. Họ chưa thấy rằng cùng với hoạt động học tập thì việc tham gia các hoạt động ngoại khóa vừa là một nhiệm vụ vừa là quyền lợi, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của mỗi học sinh. Chính vì vậy, họ chỉ đầu tư nhiều cho hoạt động học tập, thu nhận các kiến thức văn hóa, khoa học mà chưa khuyến khích tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của trường, lớp. Thứ tư, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho các hoạt động giáo dục còn hạn chế. Hoạt động ngoài giờ, nhất là những chương trình ngoại khóa thường được tổ chức với quy mô lớn, có sự tham gia đông đảo của giáo viên và học sinh. Vì thế, đòi hỏi một cơ sở vật chất, trang thiết bị lớn như địa điểm, bàn ghế, loa máy, màn hình… và tốn kém không ít kinh phí. Trong khi đó, nguồn thu tài chính của nhà trường phổ thông không nhiều, cơ sở vật chất được trang bị qua thời gian sử dụng không tránh khỏi lạc hậu hoặc hư hỏng. Tuy đây không phải là yếu tố quyết định đến kết qủa giáo dục nhưng cũng có ảnh hưởng không nhỏ. 17 Vậy làm thế nào để khắc phục được thực trạng đó? Trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp cụ thể đã được áp dụng có hiệu quả tại đơn vị - trường THPT Huỳnh Thúc Kháng. 3. Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp 3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp - Phải đáp ứng yêu cầu phát triển nhân cách của học sinh. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu rõ: “Con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, nhưng con người có cá tính riêng”. Trong quá trình hoạt động, nhờ các mối quan hệ với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật do các thế hệ trước tạo ra và các quan hệ xã hội mà con người gắn bó bằng các hoạt động đã nói ở trên, nhân cách của con người được hình thành, phát triển. Bởi vậy, trong quá trình lựa chọn các biện pháp giáo dục kỹ năng tranh biện cho học sinh, chúng tôi nhận thấy cần áp dụng các giải pháp phát huy cao nhất các yếu tố hình thành, phát triển nhân cách của học sinh, đảm bảo tính tự nhiên trong phát triển con người và nâng cao năng lực tự chủ của mỗi cá nhân. - Đảm bảo quan điểm giáo dục theo phương pháp sư phạm tương tác. Theo phương pháp sư phạm tương tác, trong quá trình học tập ở trường THPT, mỗi học sinh phải tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, phải nắm vững những cơ sở của nghề nghiệp tương lai ở trình độ phổ thông và có tiềm năng vươn lên thích ứng với những yêu cầu do thực tiễn xã hội và cách mạng khoa học, công nghệ đặt ra. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động học tập ở trường THTP, học sinh cần tiến hành hoạt động nhận thức trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, có óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi và tự xây dựng cho mình phương pháp học tập thích hợp. Từ quan điểm giáo dục trên, chúng tôi cũng tiến hành giáo dục kĩ năng tranh biện cho học sinh trên tinh thần phát huy tư duy độc lập sáng tạo và các năng lực, sở trường của học sinh. Giáo dục học sinh phải tạo được sự tương tác, không giáo dục một chiều hay máy móc, rập khuôn. - Đảm bảo tính thực tiễn của hoạt động giáo dục. Các biện pháp được đề xuất cho việc tổ chức quá trình học tập được thực thi trong thực tiễn dạy học ở trường THPT Huỳnh Thúc Kháng. Điều đó có nghĩa là các biện pháp phải đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà trường, giúp học sinh nắm kiến thức và kỹ năng thực hành tương ứng, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề cơ bản của giáo dục ở trường THPT đặt ra. Các biện pháp phải phù hợp với nội dung, phương pháp dạy học, tức là phải đảm bảo tính hiện đại, cân đối hài hòa của nội dung, phương pháp dạy học, 18 coi trọng phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện để người học phát huy tính chủ động sáng tạo của mình. 3.2. Một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp 3.2.1. Phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường xây dựng kế hoạch 3.2.1.1. Mục đích Hoạt động ngoài giờ lên lớp thường diễn ra với quy mô lớn, với nhiều cách thức tổ chức, có sự tham gia của toàn thể học sinh và giáo viên trong toàn trường. Đây là hoạt động mà không có một cá nhân nào có thể độc lập thực hiện. Vì vậy, giáo viên cần phối hợp với tổ nhóm chuyên môn, các Ban, đoàn thể trong nhà trường. Kinh nghiệm cho thấy sự phối hợp này càng nhịp nhàng thì sự thành công của chương trình càng lớn. Sự phối hợp đó phải được bắt đầu từ quá trình xây dựng kế hoạch. 3.2.1.2. Nội dung Xây dựng kế hoạch Hoạt động ngoài giờ lên lớp gắn với mục tiêu rèn luyện kỹ năng tranh biện. Trong đó xác định rõ quan điểm phối hợp, nội dung phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường để nhằm thực hiện mục tiêu này. 3.2.1.3. Cách thức tiến hành  Phối hợp với tổ nhóm chuyên môn trong xây dựng kế hoạch Tổ chuyên môn là một bộ phận cấu thành trong bộ máy tổ chức, quản lý của nhà trường phổ thông. Tổ chuyên môn giúp nhà trường điều hành và tổ chức thực hiện các hoạt động sư phạm và nghiệp vụ chuyên môn. Tổ chuyên môn là đầu mối để hiệu trưởng quản lý về nhiều mặt, nhưng chủ yếu vẫn là chuyên môn, tức là hoạt động dạy học trong nhà trường. Bởi vậy, để hoạt động dạy học thành công, trước hết giáo viên cần phải phối hợp với tổ nhóm chuyên môn trong các công việc cụ thể. Trước hết, chúng tôi tiến hành thảo luận cùng nhóm chuyên môn xây dựng kế hoạch năm học. Với ý tưởng lồng ghép giáo dục kỹ năng tranh biện vào hoạt động sinh hoạt tập thể, chúng tôi thống nhất xây dựng kế hoạch tổ chức ngoại khóa đồng thời quan tâm hướng dẫn các hoạt động ngoài giờ khác của học sinh như sinh hoạt nhóm, câu lạc bộ, các hoạt động văn hóa, văn nghệ… Trong kế hoạch, chúng tôi thảo luận thống nhất biện pháp nhóm chuyên môn phối hợp với các đoàn thể nhà trường như Ban ngoài giờ lên lớp, Đoàn trường, Ban văn nghệ để tổ chức hoạt động ngoại khóa.  Phối hợp với các đoàn thể nhà trường trong xây dựng kế hoạch 19 Ngoài tổ nhóm chuyên môn, các đoàn thể cũng có vai trò rất quan trọng trong việc vận hành bộ máy của nhà trường. Bởi đây là các bộ phận đảm nhiệm những chức năng khác nhau đảm bảo các hoạt động của nhà trường có hiệu quả. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng cho học sinh qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, chúng tôi phối hợp với Ban ngoài giờ lên lớp, Ban văn nghệ và Đoàn trường để lên lên chương trình hành động và lựa chọn thời gian, địa điểm, thành phần tham gia. Cụ thể, thống nhất thực hiện theo chủ điểm ngoài giờ lên lớp, hình thức tổ chức là cuộc thi tranh biện. Ngoài ra, để chương trình hấp dẫn, còn cần đến hệ thống câu hỏi theo chủ đề, các tiết mục văn nghệ, tiểu phẩm. Phần thi tranh biện do chúng tôi phụ trách. Các tiết mục văn nghệ và tiểu phẩm do Đoàn trường và Ban văn nghệ đảm nhiệm. Hệ thống câu hỏi do Ban ngoài giờ lên lớp xây dựng. Ngoài ra, việc quản lý học sinh cần đến sự hỗ trợ của Ban nề nếp và các giáo viên chủ nhiệm. Những công việc này được phân công đến từng thành viên chịu trách nhiệm cho đến khi kết thúc hoạt động.  Xin ý kiến phê duyệt của Ban giám hiệu Trên cơ sở kế hoạch đã xây dựng, chúng tôi đăng ký chuyên đề ngoại khóa. Việc đăng ký phải được thực hiện từ đầu năm học và có sự phê duyệt của ban giám hiệu bởi đây là hoạt động do nhà trường tổ chức và quản lý với sự phối hợp tham gia của các tổ chức, đoàn thể khác trong đơn vị. 3.2.2. Phát hiện và bồi dưỡng nhân tố có năng khiếu tranh biện 3.2.2.1. Mục đích Xu hướng dạy học hiện nay chú trọng phát huy tốt nhất tiềm năng, sở trường, phù hợp với sở thích, hứng thú của học sinh. Cần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân. Môi trường giáo dục đó thuận lợi cho việc tìm kiếm và bồi dưỡng các nhân tố có năng khiếu, sở trường trong một lĩnh vực nhất định. Qua hoạt động dạy học, giáo viên chú ý phát hiện từ đó có kế hoạch bồi dưỡng các nhân tố có năng khiếu tranh biện. 3.2.2.2. Nội dung Đề xuất những biện pháp cụ thể nhằm phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu tranh biện, tạo lực lượng nòng cốt cho các hoạt động ngoài giờ lên lớp. 3.2.2.3. Cách thức tiến hành  Phát hiện học sinh có năng khiếu tranh biện Trong thực tế dạy học, giáo viên có thể phát hiện các em có năng khiếu tranh biện qua các tiết học và qua các sinh hoạt tập thể. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan