1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài.
Giáo dục mầm non là một bậc học hết sức quan trọng trong hệ thống giáo dục
quốc dân, một bậc học được coi là đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện nhân
cách trẻ. Trẻ em là hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước.Việc bảo vệ
chăm sóc trẻ em không chỉ là trách nhiệm của một người mà làtrách nhiệm của toàn
xã hội và cả nhân loại. Đến trường trẻ được học, được chơi, được tiếp xúc với nhiều
bạn, được sống trong tình thương yêu của cô giáo,vì thế mà người ta nói “ Trường
mầm non là ngôi nhà thứ hai của bé”. Tâm hồn của trẻ rất ngây thơ và trong sáng, trẻ
“Chơi mà học và học bằng chơi". Trẻ rất hiếu động, tò mò, ham muốn học hỏi, tìm
hiểu thế giới xung quanh. Hoạt động khám phá khoa học là phương tiện để cung cấp
cho trẻ vốnhiểu biết về thế giới xung quanh trẻ như: môi trường tự nhiên, môi trường
xã hội. Thông qua hoạt động này hình thành cho trẻ kỹ năng quan sát, tư duy,
phântích tổng hợp khái quát, từ đó giáo dục trẻ có thái độ đúng đắn với môi
trườngthiên nhiên, môi trường xã hội, đối với trẻ thích tìm tòi, tò mò và ham học hỏi
về thế giới xung quanh, nhưng vốn sống, vốn khinh nghiệm, sự trải nghiệm còn ít, Để
đạt được các mục tiêu trên rất cần sự hướng dẫn, giúp đỡ, phù hợp từ phía người lớn
và giáo viên.
Vì vậy hoạt động khám phá khoa học còn có tầm quan trọng đặc biệt đối với
sự phát triển tâm lý của trẻ lứa tuổi mầm non nói chung và độ tuổi mẫu giáo5- 6 tuổi
nói riêng. Vì vậy phát triển nhận thức thông qua hoạt động khám phákhoa học chính
là tạo điều kiện, cơ hội và tổ chức các hoạt động để trẻ tích cựctìm tòi khám phá,
phát hiện về các sự vật hiện tương xung quanh trẻ. Đây thựcchất là quá trình tạo ra
môi trường hoạt động, tạo ta các tình huống và tổ chứccác hoạt động cho trẻ tiếp xúc,
trải nghiệm với các sự vật hiện tượng của môitrường xung quanh, qua đó trẻ hiểu biết
về đặc điểm, tính chất, các mối quan hệ,sự thay đổi và phát triển của chúng giúp trẻ
học được các kỹ năng quan sát, phân nhóm, phân loại, đo lường, phán đoán và giải
quyết vấn đề, chuyển tải ý kiến của mình và đưa ra kết luận về các sư vật hiện tượng
đã quan sát, tiếp xúc. Qua đó hiểu biết của trẻ về đối tượng được củng cố và chích
xác hơn ngôn ngữ được phát triển và trẻ có thể làm chủ những kiến thức cộng nghệ
trong thời đại mới.
Trên thực tế cho thấy việc cho trẻ khám phá khoa học đã có những đổi
mớiphong phú, một số giáo viên đã có sự chú trọng nhất định trong việc tổ chức hoạt
động, trải nghiệm cho trẻ. Tuy vậy trong quá trình khám phá khoa học vẫn còn nhiều
hạn chế, nhiều giáo viên thường chú trọng cho trẻ tìm hiểu bề ngoàicủa các đối
tượng, đa số trẻ chỉ được hỏi và trả lời, ít có khi trẻ được sờ, mó,nếm và các hoạt
động thí nghiệm. Giáo viên ít đưa ra câu hỏi mở khích thích sựtìm tòi khám phá của
trẻ, chính vì vậy trẻ có ít trải nghiệm, ít có điều kiện giảiquyết vấn đề mà trẻ dự đoán.
Vì vậy không có cơ hội phát triển ở trẻ các kĩ năngquan sát, tư duy, phân tích tổng
hợp khái quát điều này khiến tôi luôn trăn trởtìm ra các biện pháp hay hữu ích nhất
để giúp trẻ thỏa mãn được nhu cầu khám phá và tìm hiểu về thể giới xung quanh, qua
đó giúp trẻ phát triển về các mặt: Đức – Trí - Thể - Mỹ - Lao động. Thông qua khám
phá khoa học trẻ sẽ được tựmình trải nghiệm, thực hiện, từ đó trẻ sẽ tự mình đặt ra
các câu hỏi, Vì sao?, Tại sao?... Dần dần trẻ sẽ hiểu ra những điều trẻ khám phá, là cơ
sở cho sự phát triểntoàn diện của trẻ.
Chính vì những lý do trên, để tổ chức tốt hoạt động khám phá khoa học chotrẻ
tôi đã nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp phát triển nhận thức thông quahoạt
động khám phá khoa học cho trẻ 5- 6 tuổi”, năm học 2018- 2019.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đề ra một số biện pháp phát triển nhận thức thông qua hoạt động khám
phákhoa học cho trẻ 5-6 tuổi năm học. 2018-2019.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi B. Trường Mầm non …….., năm học 2018 –2019.
1.4 .Phương pháp nghiên cứu :
Để đạt được kết quả ngiên cứu thành công tôi đã sử dụng các phương phápsau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết. Nhằm nghiên cứu
thựctrạng giả thuyết và tổ chức thử nghiệm nhằm cải tạo thực trạng ấy theo lý thuyết
đã được xây dựng.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. Là phương
phápkhảo sát để nắm bắt được số trẻ đạt và chưa đạt, tìm hiểu nguyên nhân để cóbiện
pháp thực hiện một cách phù hợp.
- Phương pháp thống kê sử lí số liệu. Là dùng số liệu cụ thể để minh chứng
vấnđề đang giải quyết.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến Theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm, trẻ linh hoạt sáng tạo, trao đổithảo luận, để giải quyết vấn đề. Trẻ được trải
nghiệm các hoạt động khám phá khoa học bằng thử nghiệm, thínghiệm thông qua
hoạt động thực tiễn cụ thể, cô đóng vai trò hướng dẫn tổ chứctạo cơ hội cho trẻ tham
gia.
Sáng kiến giúp giáo viên tận dụng triệt để các sự vật hiện tượng xung
quanh,các vật thật giúp trẻ khám phá đạt hiệu quả thông qua những hoạt động
thựctiễn.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Hoạt động khám phá khoa học là một quá trình tiếp xúc, tìm tòi tích cựctừ phía
trẻ nhằm phát hiện những cái mới, những cái ẩn dấu trong sự vật, hiệntượng xung
quanh. Mục tiêu của khám phá khoa học là giúp trẻ có những hiểubiết đơn giản, chích
xác, cần thiết về sự vật hiện tượng xunh quanh trẻ, pháttriển ở trẻ kỹ quan sát và thảo
luận, chia sẻ điều trẻ nhìn thấy, điều trẻ nghĩ, hoặcđiều còn băn khoăn, thắc mắc.Quá
trình khám phá khoa học thích hợp với trẻ nhỏ và cần được trau dồi khi trẻ thăm dò,
khám phá thế giới là: Quan sát, so sánh, phân loại, đo lường,thử nghiệm, dự đoán,
suy luận. Giáo viên cần chủ động, linh hoạt tạo cơ hội chotrẻ thực hành các kĩ năng
quan sát, so sánh, phân loại, dự đoán, thử nghiệm, thảoluận…Cho thích hợp với tình
huống của hoạt động cụ thể.
Khi trẻ được làm quen với thế giới xung quanh sẽ giúp trẻ tích lũy được kiến
thức, kỹ năng về tự nhiên và xã hội, giúp trẻ được phát triển toàn diện về Đức - Trí Thể - Mỹ- Lao động.
Vì vậy phát triển nhận thức thông qua hoạt động khám phá khoa học chính là
tạo điều kiện, cơ hội và tổ chức các hoạt động để trẻ tích cực tìm tòi khám phá, phát
hiện về các sự vật hiện tương xung quanh trẻ. Qua đó trẻ hiểu biết vềđặc điểm, tính
chất, các mối quan hệ, sự thay đổi và phát triển của chúng giúptrẻ học được các kỹ
năng quan sát, phân nhóm, phân loại, đo lường, phán đoánvà giải quyết vấn đề,
chuyển tải ý kiến của mình và đưa ra kết luận về các sư vật hiện tượng đã quan sát,
tiếp xúc. Từ đó hiểu biết của trẻ về đối tượng đượccủng cố và chích xác hơn ngôn
ngữ được phát triển.
Để giúp trẻ làm tốt vai trò chủ thể của quá trình khám phá thế giới xung quanh
giáo viên cần cho trẻ khám phá và nhận ra những nét đặc trưng của vậtsống, đồ vật và
những sự vật, hiện tượng quan sát được bằng cách sử dụng cácgiác quan một cách
thích hợp, cho trẻ xem xét những nét giống nhau và khác nhau của các sự vật hiện
tượng, cho trẻ quan sát, xem xét, phỏng đoán các sự vậthiện tượng xung quanh, dành
thời gian cho trẻ tự khám phá, trải nghiệm và chiasẻ, bày tỏ ý kiến của mình, khích lệ
trẻ suy nghĩ về những gì chúng đang nhìnthấy, đang làm và phát triển những suy
nghĩ, ý tưởng của mình và quan tâm đến môi trường xung quanh.
Chính vì vậy giáo viên cần sử dụng câu hỏi gợi mở để giúp trẻ phát triển năng
lực quan sát, óc tư duy, trí thông minh và vốn sống thực tiễn của trẻ.
Cơ sở thực tiễn: trong năm học 2018- 2019 tôi được nhà trường phâncông dạy
lớp mẫu giáo lớn, đa số các cháu đã qua lớp mẫu giáo nhỡ, đã làmquen với các hoạt
động ở trường. Trên thực tiễn cho thấy các hoạt động khámphá khoa học còn nhiều
hạn chế, phần lớn các hoạt động còn thụ động, dậpkhuôn. Bên cạnh đó phụ huynh là
nông dân, ngày qua ngày lo kinh tế, ít có thờigian quan tâm đến trẻ, mọi hoạt động
đều nhờ hết vào nhà trường và giáo viên.Từ đó dẫn đến các kiến thức của trẻ nắm bắt
chưa được chắc chắn, hay quên,hay nhầm lẫn với các sự vật hiện tượng, kỹ năng của
trẻ chưa được rèn luyện tớihiệu quả chưa cao. Điều đó cũng có nghĩa chúng ta chưa
hình thành thói quenchủ động, thích tự trải nghiệm khám phá về thế giới xung quanh.
Điều này đãlàm cho tôi băn khoan và trăn trở, làm thế nào để có kết quả trên trẻ cao
hơn.Xuất phát từ thực tế đó tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu, vận dụng nhiều phươngpháp,
hình thức, biện pháp áp dụng vào hoạt động khám phá khoa học .2.2 Thực trạng của
vấn đề.
Trường mầm non ……. là trường có nhiều năm luôn đạt tập thể lao
độngxuất sắc. Năm học 2014 - 2015 nhà trường được công nhận đạt chuẩn mức độ I.
Năm học 2018 – 2019, trường có 11 nhóm lớp với tổng số học sinh là 267
cháu.
Trong đó có 7 lớp mẫu giáo gồm:
- 2 lớp mẫu giáo 5-6 tuổi.
- 3 lớp mẫu giáo 4-5 tuổi.
- 2 lớp mẫu giáo 3-4 tuổi.
4 nhóm trẻ 24 – 36 tháng.
Năm học 2018 - 2019 tôi được nhà trường phân công đứng lớp mẫu giáo 5-6
tuổi B. Trong quá trình chăm sóc và giáo dục cho trẻ tôi nhận thấy có nhữngthuận lợi
và khó khăn như sau:
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đặc biệt
bangiám hiệu nhà trường luôn quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện tốt nhất để
giáoviên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
- Bản thân tôi luôn yêu nghề mến trẻ, luôn được gia đình tạo điều kiện cho
hoànthành tốt nhiệm vụ của mình, tôi không ngừng học tập để nâng cao chuyên
mônnghiệp vụ của mình, luôn có trách nhiệm cao trong công tác chăm sóc giáo
dụctrẻ, không ngừng tham khảo tài liệu qua sách vở, truyền hình, báo chí, quamạng…
tích cực trong công tác dạy cho đồng nghiệp dự và dự giờ đồng nghiệpđể đúc rút kinh
nghiệp cho công tác của bản thân. Sĩ số học sinh trong lớp đủtheo quy định.
- Phụ huynh quan tâm đến bậc học mầm non nên thuận tiện trong việc tìm
kiếmnguyên vật liệu sẵn có ở địa phương giúp cho việc sử dụng đồ dùng dạy học
đạthiệu quả cao.
- Đội ngũ giáo viên trẻ khỏe, nhiệt tình, năng động, sáng tạo trong mọi
hoạtđộng giúp cho việc học hỏi và trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
-Trường mới được xây dựng với cơ sở vật chất khang trang, môi trường
hoạtđộng rộng rãi, thoáng mát, các giáo viên đã tạo cho trường một khuôn viên
sạchsẽ, đẹp mắt, trang thiết bị cơ bản đảm bảo cho mọi hoạt động của trẻ.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi vẫn gặp không ít khó khăn.
- Địa phương hầu hết phụ huynh làm nghề nông, quan điểm còn chưa đồng
nhấttrong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Nhiều phụ huynh mới chỉ quan tâm đến
việcchăm sóc mà chưa quan tâm đến việc dạy học cho trẻ. Vẫn còn tình trạng “Trống
đánh xuôi – kèn thổi ngược”, nhiều phụ huynh đi làm ăn xa không cóđiều kiện đưa
đón con đi học, ông bà ở nhà đưa cháu đi học, chăm sóc các cháu,phần nào ảnh
hưởng đến việc tuyên truyền các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.
- Qua việc giáo dục trẻ tôi thấy nhận thức của trẻ không đồng đều, có trẻ
thìnhanh nhẹn, thông minh, có trẻ thì nhút nhát, có trẻ ham học hỏi, thích khámphá,
có trẻ thì lại không thích học hỏi, tìm tòi, vì vậy việc truyền tải kiến thứcđến với trẻ
phần nào cũng gặp nhiều khó khăn.- Nhà trường còn thiếu giáo viên. tỉ lệ giáo viên
trên lớp 1,5 cô nên còn gặpnhiều khó khăn.
*Kết quả của thực trạng:
Căn cứ vào tình hình thực tế khảo sát chất lượng ban đầu của lớp tôi chủnhiệm
(mẫu giáo 5 - 6 tuổi) tôi đã khảo sát trên trẻ với kết quả như sau :
Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng năm học 2018-2019.
Tốt
ST
Tiêu chí đánh giá
Tỉ
lệ
%
Trẻ
ham
hiểu
thích khám phá,
biết,
tìm tòi
các sự vật, hiện tượng xung
quanh
Trẻ có khả năng quan sát,
so
sánh, phân loại, phán
đoán, chú ý, ghi nhớ có chủ
định.
Trẻ có khả năng phát hiện
và giải quyết vấn đề đơn
giản theo những cách khác
nhau.
Đạt
Khá
ST Tỉ lệ
%
Trung bình
ST Tỉ lệ
%
Chưa đạt
Yếu
ST
Tỉ lệ
%
Trẻ có khả năng diễn đạt sự
hiểu biết bằng các cách
khác nhau (Hành động,
hình ảnh, lời nói...)
Nhìn vào bảng khảo sát trên ta thấy tỷ lệ trẻ yếu còn đang chiếm từ 10% đến
13,3 % tỷ lệ trẻ đạt tốt, khá còn thấp, tỷ lệ trẻ trung bình còn chiếm tỷ lệ khá cao, sở
dĩ có kết quả đó là do một số nguyên nhân sau.
* Nguyên nhân.
- Về phía giáo viên: Do hiện nay ở bậc học mầm non nói chung, trường
mầmnon ………. nói riêng còn thiếu nhiều giáo viên, nên việc làm đồ dùng, đồchơi
tạo môi trường cho trẻ thực nghiệm, thí nghiệm và trải nghiệm hoạt độngkhám phá
khoa học theo Thông tư 02/2010 chỉ mới đáp ứng được nhu cầu tốithiểu.
- Về phía học sinh: Độ nhận thức của trẻ không đồng đều, có trẻ thì nhanh
nhẹnthông minh thích khám phá, nhưng có trẻ thì nhút nhát không thích khám
phá....những câu hỏi mở, suy luận lôgic sáng tạo trẻ trả lời được còn chưa cao, số
trẻđạt thì ít, số trẻ chưa đạt thì cao.
- Về phía phụ huynh. Đa phần phụ huynh làm nghề nông nhận thức về bậc học
mầm non còn hạn chế, và việc cho trẻ trải nghiệm thực tế tại gia đình chưa bằng vật
thật thì chưa có, nhiều phụ huynh đi làm ăn xa để con ở nhà với ông bà phầnnào ảnh
hưởng không nhỏ đến việc giáo dục trẻ.
Nhận thức được vai trò của hoạt động khám phá khoa học với khả năng phát
triển nhận thức cho trẻ và kết quả khảo sát đầu năm học, tôi đẫ băn khoan vàmạnh
dạn đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hoạt động khám phá khoa họctheo quan
điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm với mong muốn góp sức nhỏ bé của mình trong
việc nâng cao chất lượng phát triển nhận thức cho trẻ mẫu giáo 5– 6 tuổi B thông qua
hoạt động khám phá khoa học trường mầm non.
2.3.Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Xây dựng nề nếp thói quen trong học tập cho trẻ.
Trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng, để thực hiện
cáchoạt động được thành công, hiệu quả thì trước hết các cháu phải ngoan, có nềnếp,
mà nề nếp đối với trẻ không phải tự nhiên mà có, điều đó phải dựa vào sựdạy dỗ chỉ
bảo của người lớn mà cụ thể là người giáo viên. Để xây dựng nề nếpthói quen trong
học tập của trẻ tôi đã thực hiện các bước như sau.
Phân chỗ ngồi, chia tổ, chia đội, chọn tổ trưởng, chọn đội trưởng xếp hàng ra
vào lớp, khi chia tổ tôi đã phân chia số trẻ hợp lý, đồng đều về số trẻ cũng như sắp
xếp trẻ yếu ngồi bên cạnh trẻ khá giỏi đề trẻ học tập ở bạn, rễ bề thi đua cùng bạn.
Nhiều trẻ khi ngồi học còn uể oải, lơ đễnh, ít tập trung, nề nếp còn lộn xộn.Tôi
đã đi sâu tìm hiểu tâm lý của trẻ, thấy trẻ thích học nhưng rất nhanh chán, vìvậy mà
tôi luôn ưu tiên cho việc lựa chọn hình thức thi đua giữa các tổ, và ápdụng một số trò
chơi vận động để áp dụng sự hứng thú của trẻ.
Ví dụ: Rèn cho trẻ ngồi đúng chỗ, khi trẻ đang đi lại tự do tôi dùng hiệulệnh
cho trẻ về đúng vị trí ngồi của mình. Khi cho trẻ xếp hàng tôi sử dụng tròchơi “ Thi
xem đội nào nhanh hơn” Tôi thấy trẻ nhanh nhẹn, hứng thú mà kếtquả lại cao..
Ngoài ra tôi còn chú ý hướng dẫn trẻ cách giơ tay phát biểu, cách đứng lêntrả
lời… luôn được tôi hướng dẫn tỷ mĩ, và được lập đi lập lại liên tục, biện pháp này tôi
đã chú trọng ngay từ đầu năm học, đầu năm khi chưa có chương trình học nhưng tôi
vẫn đưa một số tiết dạy như. Đọc thơ, kể chuyện, khám phá khoa học…Để vừa giúp
trẻ có thêm kiến thức vừa rèn luyện được nề nếp thóiquen cho trẻ, thói quen ở đây
không chỉ là ngồi ngoan, ngồi đúng chỗ mà còn cóthói quen biết lao động như. Kê và
xếp bàn ghế, lấy và cất đồ dùng, đồ chơiđúng nơi quy định, đi vệ sinh đúng giờ, yên
lặng trong giờ ăn, giờ ngủ… Saukhi thực hiện biện pháp trên trẻ lớp tôi rất ngoan, có
nề nếp hứng thú học tập,trong các hoạt động dự giờ thăm lớp luôn được đánh giá là
100% trẻ có nề nếphọc tập tốt.
Với biện pháp này 100% trẻ trong lớp có nề nếp thói quen học tập tốt.
Biện pháp 2 : Tạo môi trường tự nhiên gần gũi đối với trẻ
Trường mầm non ………… 100% trẻ ở vùng nông thôn, môi trường tự
nhiênvốn rất gần gũi và quen thuộc đối với trẻ, ở đây trẻ được trực tiếp nhìn thấyđồng
ruộng, vườn cây, ao cá,…nhưng những gì trẻ nhìn thấy còn rất mơ hồ,chưa sâu sắc,
thậm chí là chưa chính xác. Để thực hiện tốt việc giáo dục lấy trẻlàm trung tâm trong
mọi hoạt động, giáo viên phải tổ chức tốt môi trường chotrẻ hoạt động trong đó bao
gồm, môi trường vật chất, môi trường xã hội, môitrường bên ngoài và bên trong lớp
học.
* Môi trường cho trẻ hoạt động ngoài trời:
Môi trường ngoài sân trường được trồng nhiều cây xanh, những hình ảnhcon
vật ngộ nghĩnh, khu vườn cổ tích với bao điều kỳ thú, góc vận động vớinhiều đồ
dùng, đồ chơi phục vụ cho quá trình vui chơi của trẻ, có góc góc chơinghệ thuật, âm
nhạc, tạo hình, các bé chơi dẫn chương trình, trình diễn thờitranh, chụp ảnh. Góc
phân vai (khu chợ quê) tạo cho trẻ quan sát, thực hành, mô phỏng lại các hoạt động
của người lớn một cách chi tiết và khá đầy đủ.
Khu vui chơi với cát, đất, sỏi, nước. trẻ được trải nghiệm cùng xẻng, xô
nhựa,khuôn in hình, các đồ chơi có thể nổi, chìm.(Ảnh 1- phần phụ lục).
Khuôn viên cây xanh, vườn rau, vườn hoa của bé…được bài trí thích hợptrong
khuôn viên sân trường, trên các bức tường rào được vẽ, trang trí các hìnhảnh mang
tính tuyên truyền cao như. Mô an toàn hình giao thông, truyện cổ tích,bé tham gia
hoạt động lao động. Khu vực ngoài hiên tôi xây dựng góc thiênnhiên gồm bồn hoa,
cây cảnh, là nơi dành cho việc chăm sóc các loại rau, câycối, nhổ cỏ, lau lá, tưới
nước, bắt sâu, thùng trồng rau, những thùng xốp vớinhững hạt lạc, hạt rau đang nẩy
mầm. Những đồ dùng, dụng cụ làm vườn dành cho trẻ cũng được trang bị đầy đủ, để
sau những giờ hoạt động học có chủ đích,trẻ lại được đắm mình trong thế giới tự
nhiên, để được trải nghiệm, khám phá.Nhằm thu hút quá trình hoạt động của trẻ thêm
phong phú và đa dạng.
* Môi trường cho trẻ hoạt động trong phòng lớp:
Trang trí phòng lớp phải đảm bảo thẩm mỹ, thân thiện và phù hợp với nộidung,
chủ đề giáo dục.
Có các đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu đa dạng, phong phú, hấp dẫn trẻ. sắp
xếp và bố trí đồ dùng, đồ chơi hợp lý, đảm bảo an toàn và đáp ứng mụcđích giáo dục.
Các khu vực được bố trí phù hợp, linh hoạt (có thể bố trí cố định hoặc
dichuyển) mang tính mở, tạo điều kiện cho trẻ tự lựa chọn và sử dụng đồ đùng,
đồchơi, hoạt động xong trẻ biết tự cất đồ dùng, đồ chơi đúng quy định.và thuậntiện
cho việc quan sát của giáo viên.
Các góc chơi được trang trí nổi bật, ngộ nghĩnh, sinh động bằng nhữngnguyên
vật liệu, đơn giản, dễ kiếm để thu hút sự chú ý của trẻ. Để trẻ cảm nhậnđược các sự
vật hiện tượng một cách tự nhiên, tôi còn sử dụng các loại vải vụn,cọng rơm khô, lá
khô, vỏ cây…Để cho trẻ làm tranh ảnh theo các hoạt động học,sưu tầm các loại hột
hạt, sỏi, đá…Để bổ xung cho các góc chơi như góc học tập,góc dân gian…Được bố
trí sắp xếp phù hợp, các góc có hoạt động ồn ào gầnnhau, các góc có hoạt động yên
tĩnh gần nhau, việc sắp xếp các góc phải linhhoạt để có thể sắp xếp lại một cách dễ
dàng sau mỗi lần hoạt động.
Tôi luôn tạo môi trường thân thiện tạo cho trẻ một tâm thế thoải mái, trẻ cảm
thấy được tôn trọng và tự tin khi giao tiếp; sự giao tiếp giữa trẻ với trẻ là sự bình
đẳng và thân thiện với nhau. Khi đó tôi đóng vai trò như những người bạn tâm sự cởi
mở gần gũi với trẻ tạo cho trẻ cảm giác thoải mái tự tin vào bản thân.Tôi thấy trẻ của
tôi rất cởi mở khi được trò chuyện với cô giống như một người bạn và nói ra cảm
nghĩ của mình một cách vô tư và hồn nhiên nhất.
Sau khi thực hiện biện pháp này tôi thấy trẻ rất thích đến trường, đến lớp,trẻ
yêu trường, lớp của mình hơn, phát huy được tính tích cực của trẻ khi trẻđược trải
nghiệm với môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội. Đại đasố phụ huynh
đều rất phấn khởi khi gửi con em đến trường để trẻ được học tậpvà vui chơi trong
môi trường thân thiện mà gần gũi với trẻ.
Biện pháp 3: Làm đồ dùng, đồ chơi. Sử dụng đồ dùng trực quan sinh
động phong phú, hấp dẫn.
Bất cứ gờ hoạt động nào của trẻ ở lứa tuổi mầm non, muốn đạt được kết
quảcao cần phải có đồ dùng trực quan, những đồ dùng phải đảm bảo khoa học,chính
xác, đẹp, sinh động và hấp dẫn, phù hợp với lứa tuổi, sử dụng sáng tạo,đúng lúc,
đúng chỗ, đây là chìa khóa của sự thành công. Nhận thức rõ tầm quantrọng của đồ
dùng trực quan nên tôi đã mang hết khả năng của mình để làm ranhững loại đồ dùng,
đồ chơi phong phú, nhiều chủng loại. Tôi gom nhặt nhữngloại phế liệu như vải vụn,
miếng gỗ, bìa cát tông, giấy xốp, vỏ sữa chua… Từ nguyên vật liệu trên tôi đã làm ra
những chú gà, chú vịt, các cây xanh, các loại hoa, các loại quả...Từ những thứ tưởng
chừng bỏ đi ấy nhưng bằng sự chịu khó, mày mò, suy nghĩ của những cô giáo mầm
non đã tạo cho nó một vẻ đẹp, vàthổi vào đó cái hồn để thu hút sự chú ý, hứng thú
của trẻ.
Ví dụ: Chủ đề “Bản thân” Tôi đã chuẩn bị những nguyên vật liệu, báo, gấy,
chai lọ, lá cây khô, giấy bóng,bìa cát tông, keo, nến tôi đã tạo ra những bộ trang phục
bắt mắt dành cho trẻ
Ví dụ: Chủ đề “ Thực vật - tết và mùa xuân”.Tôi đã chuẩn bị những nguyên vật
liệu: Gỗ, xốp, keo nến, bìa cát tông, vải vụn,vỏ hộp sữa chua… Tôi đã làm ra nhiều
loại cây xanh, các loại hoa, các loại rau,củ, quả…Rất phong phú đa dạng, thuận lợi
cho quá trình hoạt động của trẻ.
Như tạo hình bông hoa từ vỏ bắp ngô:
+ Chuẩn bị: vỏ bắp ngô, râu ngô, hạt ngô, bìa, băng dính hai hoặc hồ dán, kéo
+ Cách làm: Cắt miếng bìa theo hình cánh hoa, cắt vỏ bắp ngô thành hình
cáccánh hoa, sau đó dán vào tờ bìa theo hình bông hoa 5 cánh, dán 2-3 lớp tạo
chobông hoa có nhiều cánh, tiếp đó dán râu ngo vào giữ bông hoa, dán tiếp
hạtngôtheo hình tròn lên râu ngô tạo thành nhụy hoa, như vậy tôi đã có một bônghoa
từ vỏ bắp hoàn chỉnh
-Ở góc xây dựng: Tôi chuẩn bị một số loại hoa, cây ăn quả, các loại rau…Để
trẻ xây dựng vườn hoa, vườn rau, vườn cây ăn quả theo ý thích của trẻ.
- Góc phân vai: Tôi đã chuẩn bị những tờ xốp dạ, keo, nến, bìa cát tông, vải
vụn,vở hộp sữa. Tôi đã cắt và may, dán thành bộ dinh dưỡng phục vụ cho quá trình
họp tập và chơi của trẻ.
- Góc học tập: Tôi chuẩn bị các loại tranh ảnh, các loại sách, bút các loại,
tranh tô màu, kéo giấy để trẻ làm sách tranh, làm rối.
- Góc nghệ thuật. Tôi chuẩn bị các nguyên vật liệu như, giấy màu to nhỏ các
loại, lá cây kho, dây len, vỏ chai nhưa, hồ dán, kéo, giấy A4… để trẻ thực hiện.
Ví dụ : Khám phá khoa hoc “Các loại quả”Tôi đã chuẩn bị những quả thật như
quả cam, táo, chuối, bưởi, đĩa khăn, dao,xiên đủ cho ba nhóm trẻ trong lớp, bắt đầu
cho trẻ cầm, nắm, sờ vào vỏ củachúng có đặc điểm gì, ngửi và muốn biết bên trong
như thế nào cuối cùng chotrẻ tự lấy dao bổ quả và nếm sau đó nói lên quả có vị gì.
Khi được trải nghiệmthực tế thì trẻ đã nắm vững những kiến thức tôi muốn truyền
đạt. Qua bài vềc ácloại quả tôi không những cho trẻ tìm hiểu tổng quát về một số loại
quả mà còndạy trẻ kỹ năng bổ quả và bỏ rác đúng nơi quy định.
Đối với việc sử dụng mô hình cô thì tùy thuộc vào từng hoạt động có thể
sửdụng mô hình tự làm bằng bìa cứng, gỗ, nhựa…hoặc sử dụng vật thật. Mô hìnhsử
dụng phải mang tính tổng hợp sinh động và hấp dẫn đối với trẻ.
Trẻ không những học bằng vật thật, học bằng mô hình mà tôi còn đưa
côngnghệ thông tìn vào dạy học. Đưa công nghệ thông tin vào dạy học là quá trìnhthu
nhỏ thế giới rộng lớn bao bên ngoài được thu nhỏ lại trước mắt trẻ. Trẻ cóthể tận mắt
nhìn thấy các hình ảnh thực tế trên màn hình thu nhỏ.
Ví dụ: Chủ đề - “Động vật” Thì cho trẻ xem hình ảnh về thế gới động vật
sốngđộng trong thiên nhiên như động vật sống trong rừng, động vật nuôi trong
giađình, động vật sống dưới nước…
Ví dụ: Đối với tiết. Sự nảy mầm của hạt, sự sinh trưởng và phát triển của
câycối thì hình ảnh Powerpoint cụ thể vòng đời phát triển của hạt như: Gieo hạt –Nảy
mầm – Thành cây con – Thành cây trưởng thành – Cây ra hoa- Cây có quả.
Từ những nguyên vật liệu nguyên sơ, dễ tìm tạo ra những đồ chơi khác
nhaudựa trên những ý tưởng từ các phần mềm trò chơi mầm non như Kidsmart,
Bévui học, Bút chì thông minh. Làm những đồ chơi đơn giản để có thể thực hiệncùng
với giáo viên các hoạt động vui chơi, tạo hình ngoài tiết học, như lọ hoa,tranh sáng
tạo, búp bê, chiếc hộp nhiều ngăn, đồng hồ số, bộ lắp ráp các con vật,bộ lắp ráp thực
vật, các mô hình học...Với những đồ dùng này chỉ cần chuẩn bịcác vỏ hộp sữa to,
vòng bánh sinh nhật, muỗng sữa chua, đĩa CD, lon bia, gáodừa, nhánh cây khô...Để
tạo nên những đồ dùng hiện đại, thuận lợi cho việc dạytrẻ.
Một kho tang đồ dùng đồ chơi phong phú được tôi chuẩn bị, cùng với việc
sửdụng hiệu quả các đồ chơi ấy đã góp phần không nhỏ vào thành công của việcdạy
trẻ.
Với biện pháp này tôi đã tận dụng được những nguyên vật liệu bỏ đi và tạora
đồ dùng, đồ chơi bắt mắt đối với trẻ, lôi cuốn được trẻ tích cực tham gia sâuvào các
hoạt động học tập và vui chơi, giúp trí tuệ của trẻ ngày càng phát triểnhơn.
Biện pháp 4: Tổ chức linh hoạt sáng tạo hình thức lấy trẻ làm trung tâm.
Với quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, xem trẻ là chủ thể của quátrình
hoạt động, dựa trên sự hiểu biết, hứng thú nhu cầu của trẻ mà tôi đưa ra nộidung bài
dạy, kiến thức sao cho phù hợp với trẻ. Hình thức tổ chức hoạt độnghọc đa dạng,
phong phú tuỳ vào sự sáng tạo của giáo viên để hoạt động học trởnên nhẹ nhàng,
không gò bó, không áp đặt trẻ theo đúng cái gọi là “Học bằng chơi,chơi mà học” của
trẻ mầm non. Khi tổ chức cho trẻ hoạt động khám phá khoa họctùy vào mỗi yêu cầu
của bài dạy tôi tổ chức các tiết dạy học dưới các hình thứckhác nhau. Như những tiết
cho trẻ quan sát con vật, cây, các loại quả thì tôi cóthể chuẩn bị bằng vật thật hoặc
trình chiếu hình ảnh trên máy dưới các dạng tròchơi để trẻ vừa chơi vừa quan sát tri
giác các sự vật hiện tượng một cách tốt nhất.
Trên cơ sở lựa chọn đề tài, thiết kế giáo án, giáo án điện tử phù hợp với độtuổi
như. Lồng ghép âm thanh, hình ảnh sống động, gây hứng thú, xây dựng các trò chò
chơi ôn luyện củng cố. Cụ thể là đưa trò chơi Kidsmart vào bài dạy đểtạo hứng thú,
với những hình ảnh rõ nét, âm thanh sống động, cùng với sự hỗ trợcủa các phần mềm
ứng dụng như. Phần mềm powerpoint, violet…tôi đã thiết kếthành công nhiều bài
dạy điện tử thật hấp dẫn, qua đó trẻ được trải nghiệm trênmáy vi tính, phát triển tư
duy thông qua các trò chơi học tập trên máy và các tròchơi Kidsmart, từ đó góp phần
tích cực trong việc dạy trẻ đạt hiệu quả cao.
Các câu hỏi có tình huống, có vấn đề được đưa ra để tất cả các trẻ tronglớp đều
phải suy nghĩ và làm việc, câu hỏi mở được thường xuyên sử dụngnhằm kích thích sự
sáng tạo, và sự phán đoán của trẻ.
Ví dụ 1: Trong chủ đề “Động vật” với đề tài những con vật sống dưới nước.
- Chuẩn bị: 3 cái bể bơi có kích thước dài 1m, rộng 50cm làm biển, trong
mỗibể có những con tôm, cua, cá ốc và chia trẻ về thành 3 đội ngư dân đi đánh bắtcá
tôm, cua, ốc; Một dòng sông lớn cho tất cả các trẻ chơi cuối giờ học.
+ 3 cái giỏ, 3 cái bình bằng sứ để đựng con vật trẻ bắt được
+ Vợt cho trẻ bắt tôm, cá. cần câu.
+ Gậy làm mái chèo,cá, tôm, cua, ốc bằng đồ chơi.
- Tiến hành:
Vào đầu giờ nhờ cô phụ đóng giả làm bác ngư dân đi tìm người đánh cá.
Hômnay tôi phải đi ra biển để đánh bắt cá nhưng có một mình tôi, tôi không biết
phảilàm gì các bạn nhỏ có thể giúp tôi được không?
Cho trẻ làm động tác chèo thuyền ra biển và bắt cá, tôm, cua, ốc. Để bắt được
một số con vật sống ở dưới chúng ta phải cần đến gì? lưới, vợt, cầncâu..vật các bạn
nhỏ hãy giúp tôi nào. Sau khi trẻ bắt được, cho trẻ làm động tácchèo thuyền về bờ và
thả vào bình để quan sát.
Cho 3 đội quan sát đưa ra thảo luận thống nhất ý kiến. Cô đến từng nhóm
hỏitrẻ.
+ Đội này bắt được những con gì? Trẻ kể “Tôm, cá, cua, ốc”
+ Những con vật này sống ở đâu?
+ Ai có nhận xét gì về những con vật này? trẻ nêu lên ý kiến
+ Vì sao con cá, con tôm lại biết bơi?
+ Cá thở được là nhờ cái gì?
+ Điều gì xẽ xảy ra nếu chúng ở trên cạn?
+ Nếu điều đó xảy ra các con phải làm gì?
- Kết thúc tiết học tôi cho trẻ chơi trò chơi
Cách chơi: Cho trẻ xuống bắt cá với thời gian là một bản nhạc, đội nào bắtđược
nhiều cá hơn bạn đó là người chiến thắng.
Ví dụ 2. Trong chủ đề thực vật với đề tài “ Trò chuyện về các loại quả”tôi đã
tiến hành như sau.
- Chuẩn bị:
+ Một số quả thật ở góc phân vai.( quả cam, quả chuối, quả đu đủ,quả táo, quả
xoài...) + Dao, đĩa, xiên, khăn
+ 3-4 dạng cây cô làm từ bìa cứng.- Tiến hành.
Tổ chức cho các nhóm đi siêu thị mua một số quả thật cho các nhóm cùng
bànbạc nhận xét về các loại quả mà nhóm mình mua được, sau đó cho trẻ nghe câuđố
và phán đoán về từng loại quả, kết hợp đàm thoại trò chuyện về các loại quảvới các
câu hỏi như.+ Các con mua được quả gì?
+Ai có nhận xét gì về các loại quả này? (Trẻ nói tên quả, Đặc điểm, tính
chất,quả có vỏ nhẵn, quả có nhiều hạt, một hạt, lợi ích của các loại quả đó)
+ Bạn nào có ý kiến khác?
+ Một số loại quả được chế biến thành những món ăn gì? (kem tươi, nước ép
trái cây, sinh tố...)
+Ăn quả sẽ cung cấp những chất gì cho cơ thể?
+ Các loại quả này có điểm gì giống và khác nhau?...
+ Để có quả ăn chúng ta phải làm gì? Cho trẻ tự bổ quả và khám phá bên trong
quả.
+ Bên trong quả này như thế nào? Cho trẻ nếm quả: con thấy như thế nào?
Kết thúc: Cho trẻ chơi trò chơi “Tìm quả cho cây”
Với hình thức trong tiết này trẻ được học với vật thật, được trải nghiệm với
vậtthật, được sờ, được nếm và được biết quả đó từ cây có lá như thế nào, sau khitiết
học kết thúc trẻ có thể nhìn thấy cây ăn quả này trong thiên nhiên khi chưacó quả, trẻ
sẽ biết cây này sẽ cho quả gì khi cây lớn.
Ví dụ 3: Với hoạt động “Tìm hiểu các mùa trong năm”
- Chuẩn bị: Hình ảnh Powerpoint trên máy tính về 4 mùa trong năm
+ Một số bài hát:
+ Một số trang phục dành cho bốn mùa.
- Tiến hành: Cho trẻ vận động bài “Trời nắng trời mưa”
Hôm nay các cô tiên bốn mùa mang tặng cho lớp mình một câu chuyện về
côbé Lọ Lem các con hãy lắng nghe cô kể nhé.
“Cô bé Lọ Lem rất thích tìm hiểu những điều kỳ diệu ở xung quanh mình. Một
hôm Lọ Lem đã thưởng cho mình một chuyến du lịch dài ngày, cô đi khắp mọinơi
trong một năm đấy”
+ Các con có biết một năm của chúng ta có mấy mùa không?
Để biết hơn về các mùa trong năm mà Lọ Lem đã đi qua bây giờ các con
cùngtìm hiểu về chuyến du lịch của Lọ Lem nhé.
* Tìm hiểu về các mùa trong năm
- Mùa xuân:
Cho trẻ xem hình ảnh mùa xuân trên màn hình và hỏi
+ Nhìn vào bức tranh các con có biết Lọ Lem đang đi vào mùa gì?
+ Vì sao đây là mùa xuân?
+ Vậy ai có thể kể những hiểu biết của mình về mùa xuân nào?
+ Mùa xuân là mùa thứ mấy trong năm
+ Đặc trưng của mùa xuân là gì?
- Mùa hè: Cho trẻ hát bài “Mùa hè đến”
Mở bức tranh thứ 2:
+ Lọ Lem đang đắm mình trong phong cảnh mùa gì?
+ Ai có nhận xét gì về bức tranh?
+ Những dấu hiệu nào cho chúng ta biết đây là mùa hè?
+ Mùa hè phải ăn, mặc như thế nào?
- Mùa Thu:
Cô đọc câu đố: “Mùa gì đón ánh trăng rằm
Rước đèn phá cỗ chị hằng xuống chơi”
Là mùa gì?
Mở tranh 3
+ Lọ Lem đang bước tiếp đến mùa gì?
+ Ai có nhận xét gì về bức tranh?
+ Vì sao con biết đây là mùa thu?
+ Mùa thu có những ngày hội, ngày tết gì?
- Mùa đông:
Lọ Lem phải chia tay các bạn nhỏ trong đêm trung thu và Lọ Lem tiếp tục cuộc
hành trình của mình, các con cùng đoán xem Lọ Lem sẽ đi đến mùa gì?
Cô mở tranh 4:
+ Ai có nhận xét gì về bức tranh này?
+ Cây cối của mùa đông như thế nào?
+ Mùa đông có hiện tượng gì?
+ Mùa đông là mùa thứ mấy trong năm?
Khi đặt câu hỏi chú ý cho trẻ thời gian để trẻ trả lời, không vì thấy trẻ trả
lờichậm mà trả lời thay cho trẻ, như vậy sẽ kìm hãm khả năng tư duy của trẻ. Và sau
mỗi lượt tìm hiểu cô củng cố lại một số kiến thức mà trẻ vừa được tìmhiểu. Sau đó
cho trẻ so sánh các mùa trong năm với nhau.
- Kết thúc:
Cô cho trẻ chơi trò chơi: Thời trang của bé
Cho các bé chọn trang phục theo mùa và chia thành 4 nhóm và trình diễn
thờitrang cho từng mùa trong năm.
Khi tổ chức linh hoạt các hình thức khám phá khoa học với quan điểm giáo
dụclấy trẻ làm trung tâm, tôi thấy trẻ rất hứng thú trong các hoạt động.
Sau khi thực hiện biện pháp này trẻ được đi từ bất ngờ ngày đến bất ngờ
khác,số trẻ chưa đạt yêu cầu đã không còn, tỷ lệ trẻ trung bình giảm hẳn, tỷ lệ
họcsinh khá giỏi tăng lên rất nhiều.
Biện pháp 5: Nâng cao kỹ năng quan sát, so sánh và phân loại ở trẻ.
Kỹ năng quan sát, so sánh và phân loại là một trong những phương phápquan
trọng và không thể thiếu đối với khám phá khoa học.
Với mỗi đối tượng trẻ được làm quen, trẻ được quan sát thật kỹ, trẻ biết đưara
nhận xét về đối tượng, cùng với đó là câu hỏi giợ mở của cô. Trẻ khôngnhững hiểu
biết về vật đó mà còn có cách ứng xử, hành động với chúng. Sau khitrẻ được quan sát
với hệ thống câu hỏi mở để trẻ so sánh và phân loại từ đó pháthuy khả năng sáng tạo
và tư duy của trẻ.
Ví dụ 1:
Chủ đề thực vật: Tiết khám phá các loại rau, củ, quả.
Sau khi làm quen với loại rau, củ, quả, trẻ được sờ, được cầm nắm, được
quansát kỹ, có được đầy đủ các đặc điểm của đối tượng nên trẻ so sánh và phân
loạirất nhanh theo nhiều dấu hiện khác nhau: Nhóm có màu đỏ, nhóm ăn củ, nhóm
ăn lá, nhóm ăn quả, nhóm trồng trên cạn,nhóm trồng dưới nước, nhóm rau quả có hạt,
nhóm rau quả không có hạt, nhómrau quả leo giàn....
Ví dụ 2: Chủ đề bản thân: Tiết Trò chuyện về 4 nhóm thực phẩm
Sau khi được quan sát nhận biết về 4 nhóm thực phẩm cô yêu cầu trẻ phân
loạithực phẩm thành nhiều nhóm: Như nhóm cung cấp chất Vitamin, nhóm cungcấp
chất bột đường, nhóm cung cấp chất béo, nhóm cung cấp chất đạm.
Ví dụ 3: Chủ đề - Nghề nghiệp. Trò chuyện với trẻ về các nghề.
Tôi đã chuẩn bị một số đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, cuối tiết học tôi cho trẻ
chơitrò chơi phân loại sản phẩm theo nghề như: lúa, gạo khoai, sắn là sản phẩm
củanghề nông; quần, áo, mũ sản phẩm của nghề dệt; bàn ghế, tủ là sản phẩm của
nghề mộc....
Thông qua biện pháp này tư duy và khả năng quan sát, so sánh, phân loại,phân
nhóm bằng nhiều cách khác nhau được hình thành trong trẻ.
Biện pháp 6: Sử dụng các trò chơi khám phá khoa học thông qua các
thửnghiệm, thí nghiệm đơn giản.
Trước đây trẻ khám phá khoa học chỉ áp dụng trên tiết học mà trình tự bài
dạychỉ bằng tranh ảnh mà thôi, chưa quan tâm đến việc cho trẻ được trải nghiệmthực
tế và tự tay trẻ làm các thí nghiệm đơn giản. Vì vậy các nhà nghiên cứu đãchỉ ra rằng,
các trò chơi tạo ra một nền tảng mạnh mẽ cho việc phát triển nhậnthức, sự sáng tạo,
kiến thức học thuật, cách giải quyết vấn đề. Chơi còn tạo cơhội cho trẻ phát triển các
khả năng như: quan sát, so sánh, phân loại, ghi nhớ, tậptrung, tưởng tượng, giải quyết
vấn đề, sự hợp tác và kỹ năng xã hội. Qua chơi trẻcó thể áp dụng những hiểu biết, áp
dụng các thao tác tư duy, chuyển giao kiếnthức và giải quyết vấn đề trong nhiều tình
huống khác nhau.
“Học mà chơi – Chơi mà học” sẽ giúp trẻ tiếp thu những kiến thức một cách
dễdành và sâu sắc nhất. Trong khám phá khoa học việc sử dụng các trò chơi
thínghiệm đơn giản luôn tạo cho trẻ hứng thú, khích thích trẻ tích cực hoạt động,phát
triển ở trẻ tính tò mò, ham hiểu biết, thích khám phá tìm tòi, phát triểm ócquan sát,
phán đoán và các năng lực hoạt động trí tuệ. Chính vì vậy mà phươngpháp sử dụng
các trò chơi thực nghiệm luôn đạt kết quả cao trong hoạt độngkhám phá khoa học.
Dưới đây là một số thử nghiệm, thí nghiệm tôi đã tiến hànhcho trẻ thực hành và kết
quả thu được rất tốt, trẻ rất hứng thú và say mê.
Ví dụ 1: Thử nghiệm về sự nảy mầm của hạt và quá trình phát triển của cây
lạc.
- Mục đích:
+ Phát triển khả năng quan sát, so sánh, phán đoán.
+ Trẻ nhận biết quá trình phát triển của cây và các điều kiện sốngcủa cây.
+ Trẻ thích tham gia vào hoạt động.
- Chuẩn bị:
+ Lạc giống chưa bóc, 2-3 thùng xốp, nước, đất tơi xốp, các đồ dùng làm
vườn.
- Tiến hành:
Bước1: Cho trẻ cùng bóc vỏ lạc.
Bước 2: Ngâm hạt lạc giống vào nước ấm từ 4-5 tiếng, sau đó đổ cho ráo nước
Bước 3: Đổ lạc vào khăn ướt ủ sau 18 tiếng lấy ra hạt đã nảy mầm.
Bước 4: Làm tơi đất trước khi bỏ hạt xuống đất.
Bước 5: Đặt hạt giống vào các thùng xốp khác nhau (hàng ngày tưới lên một
ítnước).
Bước 6: Quan sát, theo dõi sự lớn lên của cây: nảy mầm, ra lá, vươn cây. Có
thể hỏi trẻ. Các con đoán xem các hạt giống có mọc lên cùng một lúc không? Trẻtheo
dõi và mô phỏng quá trình lớn lên của cây.
Giải thích và kết luận: Cây nảy mầm được nhờ được gieo xuống đất, có
ánhsáng, không khí và nước hạt sẽ nảy mầm và phát triển thành cây con, cây
trưởngthành và ra hoa ra củ. Và ngược lại cây mà không được chăm sóc đầy đủ
sẽkhông nảy mầm được.
Ví dụ 2: Thí nghiệm về vật chìm, vật nổi dưới nước.
- Mục đích: Trẻ biệt được vật nặng sẽ chìm vật nhẹ sẽ nổi. Vật nổi, vật chìm
tùythuộc chất liệu khác nhau, giúp trẻ biết cách sử dụng các loại đồ dùng, dụng
cụtrong cuộc sống hằng ngày.
- Chuẩn bị: Cô chia trẻ thành 3 nhóm, mỗi nhóm thử nghiệm 3 cặp đồ vật
chìm- nổi như sau. Li thủy tinh, đĩa sứ, bi sắt đường kính 3-4cm, thìa inox, cục
namchâm, một miếng xốp, giấy, chậu đựng nước sạch, thuyền giấy, li nhựa,
bóngnhựa, đồ chơi nhựa.
+ Nhóm 1: Vật chìm: Li thủy tinh, hạt lúa, đĩa sứ
Vật nổi: Li nhựa, nút bấc, đĩa nhựa
+ Nhóm 2: vật chìm: Hòn sỏi, Thìa i- nox, nam châm
Vật nổi: Thìa nhựa, bóng nhựa, lá cây khô
+ Nhóm 3: Vật chìm: Một cái kẹo, bát con sứ, một chiếc chìa khóa
Vật nổi: Bát nhựa, thuyền giấy, lông gà.
-Tiến hành:
+Cho trẻ cầm, sờ các vật đó và đoán xem vật nào sẽ nổi, vật nào sẽ chìm.
+Cho trẻ thả các vật đó vào nước và quan sát, Chọn riêng thành những vật
nổivà những vật chìm.
+ Cô khuyến khích trẻ so sánh kết quả sau khi thả các vật vào nước với dự
đoáncủa trẻ.
- Kết quả: Qua thí nghiệm này giúp trẻ hiểu những đồ vật làm từ những
nguyênliệu nặng như. sắt, thép, nhôm, inox, ….
Sẽ bị chìm khi thả vào nước, những đồvật làm từ nguyên liệu nhẹ: gỗ, xốp,
giấy, nhựa,….thì nổi trên nước .
Qua việc tạo các điều kiện cho trẻ tiếp xúc các sự vật hiện tượng và khámphá
khoa học bằng các thí nghiệm, thử nghiệm tôi thấy nhận thức của trẻ được mở rộng,
khả năng quan sát, tri giác của trẻ phát triển tốt đa số trẻ thể hiện đượctính tích cực
chủ động khi quan sát đối tượng.
Ví dụ 3:
Nước:
- Nước không có hình dạng nhất định:Cho trẻ đổ nước vào một số li, chai có
hình dạng khác nhau cô cho trẻ quan sátvà hỏi.+ Các con thấy nước có hình dạng
nhất định không? ( Nước ở thể lỏng không cóhình dạng nhất định)
Cô đưa một khay đá hình vuông hoặc hình tròn ra hỏi?:
+ Bây giờ nước có hình dạng như thế nào? (Khi nước ở thể rắn nước lại có
hìnhdạng nhất định) Cô giải thích: khi nhiệt độ ngoài trời xuống âm mấy độ thì nước
- Xem thêm -