Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 36 tháng qua các hoạt động ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 36 tháng qua các hoạt động trong ngày ở trường mầm non

.DOCX
24
103
135

Mô tả:

ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ mầm non nói riêng thì ngôn ngữ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng “Trẻ lên ba cả nhà học nói”. Câu nói ấy một lần nữa đã khẳng định vị trí quan trọng của ngôn ngữ đối với sự phát triển toàn diện ở trẻ em. Ngôn ngữ có vai trò là một phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng của các sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Như vậy “Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy”, là công cụ để giúp phát triển tư duy và là phương tiện để giáo dục tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu, mong muốn của mình với mọi người xung quanh, ngôn ngữ còn giúp cá nhân trẻ phát huy được năng lực của mình. Nhưng thực tế phần lớn các bố mẹ đều bận rộn, lo toan cho cuộc sống, thời gian bố mẹ trò chuyện với trẻ để phát triển vốn từ còn ít. Một số cha mẹ của trẻ nhận thức về tầm quan trọng của ngôn ngữ còn hạn chế. Do vậy vốn từ của trẻ em ngày nay phát triển chậm và nghèo nàn, chủ yếu trẻ được tiếp xúc và phát triển ngôn ngữ thông qua ti vi, điện thoại chưa được sự chỉ bảo, uốn nắn của người lớn. Rất nhiều phụ huynh khi đưa con tới lớp ở lứa tuổi nhà trẻ 24-36 tháng thường trao đổi với tôi những băn khoăn của họ như: Con chưa biết nói cô ạ. Bạn này nói ít lắm. Phải làm sao để con nói được nhiều hơn nữa hả cô?... Bên cạnh đó việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 23-36 tháng ở trường mầm non chưa thực sự được quan tâm, chú trọng. Giáo viên chưa quan tâm được đến từng cá nhân trẻ. Đa số trong hoạt động nhật biết trẻ chưa được nói nhiều, chưa được trải nghiệm hết các giác quan: Nhìn, sờ, nếm, ngửi. Chủ yếu trẻ chỉ được nhìn và được nói tập thể nhiều lần. Trước thực trạng trên tôi luôn trăn trở làm sao để các con có vốn ngôn ngữ phát triển tốt theo yêu cầu của độ tuổi? Làm thế nào để các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt? Làm thế nào giúp các con tự tin trong giao tiếp, biết diễn đạt tình cảm, ý muốn của bản thân bằng lời nói... Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng qua các hoạt động trong ngày ở trường mầm non”. 2. Mục đích của đề tài Đề xuất một số biện pháp giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng qua các hoạt động trong ngày ở trường mầm non. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng qua các hoạt động trong ngày ở trường mầm non. 4. Kế hoạch nghiên cứu Trong năm học 2018-2019 từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận Ngôn ngữ là một phương tiện để trẻ giao tiếp với người xung quanh bằng cách trẻ nói, hỏi, trả lời, trẻ thể hiện nhu cầu, khả năng của bản thân. Trẻ dùng ngôn ngữ để biểu đạt cảm xúc, tình cảm của trẻ với người xung quanh. Trẻ dùng ngôn ngữ để tiếp nhận thông tin, lĩnh hội kiến thức về thế giới xung quanh. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc chúng ta làm phong phú vốn từ cho trẻ để trẻ có thể diễn đạt được ý muốn của bản thân, các sự vật, hiện tượng thông qua ngôn ngữ. Đồng thời giúp trẻ hiểu được nghĩa của từ để từ, trẻ biết sử dụng từ phù hợp với hoàn cảnh, tình huống, giúp trẻ sử dụng câu chính xác, từ câu đơn giản đến câu đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ. Giáo dục ngôn ngữ còn là giáo dục văn hóa giao tiếp cho trẻ. Trẻ ở độ tuổi 24 đến 36 tháng có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ 22 tháng tuổi đến 30 tháng tuổi, vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại khác như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên vốn từ của mỗi trẻ đa số là còn ở mức nghèo nàn, cùng với mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ còn rất hạn chế, chưa kể đến tình trạng trẻ phát âm không đúng, nói không đủ câu, nói lắp, nói ngọng,...Chính vì vậy phụ huynh và giáo viên hướng dẫn trẻ như thế nào để ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt là điều rất quan trọng. Tại ngôi trường nơi tô công tác, tôi nhận thấy một thuận lợi là trẻ ở trường với cô cả ngày nên việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các hoạt động trong ngày là rất hợp lí. Ngay từ giờ đón trẻ, tôi có cơ hội giao tiếp với trẻ một cách tích cực, tôi luôn khơi gợi và tạo cho trẻ những cảm xúc tốt đẹp ngay từ buổi sáng. Đây là tiền đề để trẻ tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động khác trong ngày như: Hoạt động có chủ định, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời. Việc tạo cho trẻ môi trường ngôn ngữ tích cực sẽ giúp trẻ bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ, giao tiếp trong học tập cũng như vui chơi. Từ đó trẻ có vốn từ phong phú, nói rõ ràng, khă năng nghe và hiểu tốt hơn sẽ giúp trẻ tự tin hơn trong giao tiếp, giao tiếp chủ động và tích cực hơn. 2. Thực trạng vấn đề 2.1. Thuận lợi a. Cơ sở vật chất: - Nhà trường được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp như: UBND quận, PGD &ĐT quận, Đảng ủy, UBND phường, hội cha mẹ học sinh. - Cơ sở 1 và cơ sở 2 của nhà trường được đầu tư xây dựng mới nên có đầy đủ các phòng chức năng, lớp học rộng, thoáng, đầy đủ đồ dùng đồ chơi. - Sân trường rộng, thoáng, xanh, sạch, đẹp. b. Giáo viên: - Giáo viên trong lớp đều có trình độ, nghiệp vụ sư phạm vững vàng, năng động, sáng tạo, có năng khiếu làm đồ dùng, yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục mầm non. c. Học sinh: - Lớp tôi đang dạy là lớp nhà trẻ có độ tuổi từ 24-36 tháng với 34 trẻ, 100% các cháu đúng độ tuổi, sức khỏe bình thường, khả năng vận động tương đối đồng đều. - Trẻ ở lớp với cô cả ngày, nên thuận lợi trong việc giáo dục rèn luyện có tính xuyên suốt. d. Cha mẹ học sinh: - Cha mẹ học sinh nhiệt tình phối hợp với trường lớp trong các nội dung chăm sóc giáo dục của nhà trường với con em mình. 2.2. Khó khăn a. Giáo viên - Đây là năm đầu tiên trường có lớp nhà trẻ vì vậy giáo viên gặp nhiều khó khăn. b. Trẻ: - Ngôn ngữ của trẻ đầu năm còn hạn chế, trẻ chỉ nói được 1 đến 2 từ đơn giản như: Ạ, vâng, bố, mẹ, bà, cô. - Các trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin c. Phụ huynh học sinh: - Đa số phụ huynh ở khu vực này là đi chợ buôn bán cả ngày, họ thường ít có thời gian bên con, trò chuyện với con. - Có một số phụ huynh còn xem nhẹ khả năng nói của con, họ nghĩ để con phát triển tự nhiên, dần dần sẽ tự biết nói. 2.3. Khảo sát điều kiện thực trạng Năm học 2018 - 2019, tôi tiến hành khảo sát trên 34 trẻ nhà trẻ 24-36 tháng như sau. Phân loại khả năng ngôn ngữ của trẻ Tốt SL Trung Khá % SL % bình SL % Yếu SL Vốn từ 4 9 10 11 Khả năng phát âm 4 9 9 13 5 8 10 11 3 7 11 13 Khả năng nghe và hiểu ngôn ngữ Khả năng nói đủ câu, rõ ràng, mạch lạc % Căn cứ vào kết quả trên đây tôi nhận thấy khả năng ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế. Tỉ lệ tốt đạt kết quả thấp, tỉ lệ yếu cao. Tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi qua các hoạt động trong ngày ở trường mầm non như sau: 3. Các biện pháp đã tiến hành. 3.1. Biện pháp 1: Xây dựng góc trọng tâm trong năm học. Dựa trên chuyên đề trọng tâm của năm học đó là: Chuyên đề phát triển ngôn ngữ và phát triển nhận thức, ngoài việc xây dựng môi trường góc theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm, tôi đã lựa chọn và xây dựng trên lớp mình góc chuyên đề trọng tâm trong năm học nhằm tạo cho trẻ có cơ hội trải nghiệm, phát triển ngôn ngữ, phát triển vốn từ cho trẻ trong các hoạt động. a. Góc: “Cô kể bé nghe” Tôi nhận thấy góc chơi này vừa cung cấp cho trẻ những từ ngữ mới, vừa ôn luyện, củng cố cho trẻ những từ, câu đã học, trẻ được vận dụng vào thực tế thông qua hình ảnh minh họa, tranh truyện minh họa, tranh nhận biết tập nói...qua các bộ rối tay, rối ngón tay, rối bông... Tôi đã xây dựng môi trường góc chơi áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Tất cả các góc chơi sắp xếp một cách hợp lí, trang trí thẩm mĩ, thân thiện, phù hợp với lứa tuổi. Tại góc chơi này tôi tạo cho trẻ không gian mở với các khu vực riêng như: Khu vực có nhiều gối để trẻ có thể thư giãn, thoái mái ngồi, nằm xem tranh truyện. Bên cạnh đó là chiếc bàn nhỏ xinh để trẻ có thể đặt sách truyện lên và “đọc sách”. Tiếp đến là khu vực dành cho những con rối đáng yêu, với ngôi nhà rối ngộ nghĩnh, tôi còn tạo ra khung rối phù hợp với trẻ để trẻ tập kể chuyện. Những chiếc gối nhỏ dành cho khán giả nào thích xem các bạn tập kể. Đặc biệt tôi chuẩn bị thêm các đồ dùng, đồ chơi tính mở như: Làm bộ sách theo từng chủ đề: Sách có tranh hoàn thiện, cũng có tranh chưa hoàn thiện để trẻ học bằng chơi. Trong giờ chơi cô chơi cùng trẻ để trẻ biết cách chơi, lần sau trẻ tự chơi, cô quan sát và gợi ý giúp trẻ có thêm ý tưởng. Ví dụ ngoài cách giở xem sách truyện trẻ có thể kể chuyện theo tranh, có thể đọc những câu đơn giản, phù hợp với bức tranh đó...Trẻ học bằng chơi nên qua từng trang sách trẻ nói được từ, câu đơn giản về con vật, cây, quả, những hành động của con vật.... Mỗi chủ đề tôi đều chuẩn bị thêm các con thú bông mới phù hợp với chủ đề đó. Tôi kể chuyện và sử dụng những con thú bông đó để gây chú ý đến trẻ. Giờ chơi trẻ sẽ bắt chước cô kể chuyện với thú bông rất ngộ nghĩnh lại ôn luyện vốn từ cho trẻ. Trong giờ chơi tại góc: “Bé chơi với hình và màu” tôi thường xuyên cho trẻ làm các bài gắn, đính, dán theo từng chủ đề. Sau đó cô ghi tít chữ dưới bài của trẻ, đóng thành sách, tranh thơ, truyện minh họa. Sách này phục vụ cho trẻ chơi tại góc: “Cô kể bé nghe”. Trẻ được xem sản phẩm mình làm ra, trẻ nói lại các câu đơn giản, các từ, hay đọc câu thơ, bài thơ với quyển sách đó. Ví dụ: Tên bộ đồ chơi Cách làm Cách chơi Tác dụng Ví dụ 1: Bộ sách cô tự làm về chủ đề động vật - Trẻ lật giở Bước 1: In tranh, ảnh sách minh họa về con vật. xem tranh và về con vật: Bước 2: Cắt, dán hình vào nói các câu Ví dụ: tờ A4. Ghi 1 câu đơn giản đơn giản. + Từ: gà con, vịt cho hình ảnh minh họa - Bước 3: Tiếp tục làm hoàn thiện + Câu: “Đây là con thêm các tờ tranh chưa bức tranh còn gà”, “ gà đi chơi”, “gà hoàn chỉnh để trẻ gắn. thiếu. mổ thóc”... Bộ sách. Ví dụ 2: Bộ sách cô và - Trẻ lật giở - Trẻ nói được từ, câu sách trẻ làm về chủ đề thực sách về hoa, quả, rau, củ... theo vật xem tranh và Ví dụ: từng Bước 1: Cô in tranh, ảnh nói các câu + Từ: Quả cam, quả chủ đề minh họa về hoa, quả, rau, đơn giản. táo, hoa hồng... Bộ sách theo từng chủ đề truyện Trẻ gắn - Trẻ nói được từ, câu con.... Bước 4: Làm bìa, đóng truyện củ. Bước 2: Trẻ tô màu, gắn, đính, dán trang trí Bước 3: Cô ghi từ, câu - Trẻ gắn + Câu: “Đây là qảu đơn giản dưới mỗi bức hoàn thiện cam”, “Quả cam màu tranh bức tranh còn xanh”, “Quả táo màu Bước 4: Cô cắt hình ảnh thiếu đỏ”... hoa, quả, cho trẻ ghép. Bước 5: Làm bìa, đóng sách. - Trẻ nói lời thoại của nhân vật. Ví dụ 3: Làm nhân vật - Làm động tác, tiếng rối cho câu chuyện Bộ Bước 1: In tranh, ảnh Rối minh họa về con vật. theo Bước 2: Cắt, dán hình lên từng bìa cứng. chủ đề Bước 3: Bồi cho nhân vật kêu của con vật. - Trẻ chơi kể Ví dụ: chuyện Trẻ kể chuyện: Quả với các nhân vật trứng rối. + Câu: “Quả trứng gì đúng được trên sa bàn to to”, “ Quả trứng của ai”?... + Bắt chước tiếng kêu gà trống: Ò ó o Sau mỗi giờ chơi Cô cùng trẻ sắp xếp lại đồ dùng đồ chơi. Đồ dùng dễ lấy, dễ cất nên trẻ rất hào hứng tham gia cùng cô. Qua hoạt động này trẻ hát cùng cô những câu hát: Bạn ơi hết giờ rồi, nhanh tay cất đồ chơi...Qua đó giúp trẻ phát triển các câu đơn giản như: “Hết giờ chơi rồi”. “Bạn ơi cất đồ chơi”.... b. Góc Nhận biết phân biệt. Tại góc chơi này tôi chuẩn bị các loại đồ chơi, đồ dùng mang tính mở như: Các bảng chơi gài. Trẻ sẽ chơi gài lô tô. Ví dụ: Chủ đề thực vật, Tôi chuẩn bị tranh lô tô các loại quả trẻ đã được học, trên bảng chơi tôi chuẩn bị sẵn lô tô cài trên bảng mẫu. Trẻ chơi góc đó sẽ chọn lô tô giống mẫu, nói tên loại quả đó và gắn vào các ô còn lại. Tên bộ đồ chơi Cách làm Cách chơi Tác dụng Ví dụ 1: Chủ đề động vật Bảng chơi Theo chủ đề - Trẻ lấy lô tô và nói Bước 1: Chuẩn bị - Trẻ chọn và gắn được từ, câu về con vật: lô tô về con vật. lô tô theo mẫu. Ví dụ: Bước 2: gài lô tô - Trẻ gắn lô tô + Từ: gà con, vịt con.... mẫu vào bảng chơi theo ý thích + Câu: “Đây là con gà”, Bước 3: Chuẩn bị “ đây là con vịt”, “đây là thêm nhiều lô tô con cá”... khác về con vật. Ví dụ 2: Bước 1: Chuẩn bị 1 bảng chơi với các Bảng màu cơ bản, Các lọ chơi màu với các màu kẹp cơ bản. màu, Lọ Bước 2: Chuẩn bị đựng các kẹp gỗ màu thẻ màu theo các màu cơ - Trẻ lấy kẹp màu, kẹp - Trẻ chọn kẹp và kẹp màu vào đúng màu tương ứng - Trẻ chọn thanh gỗ màu, để vào lọ màu tương ứng đúng màu, lấy thanh gỗ thả vào hộp màu và nói từ, câu về màu sắc: Ví dụ: + Từ: Màu xanh, màu đỏ.... + Câu: “Đây là màu bản xanh”, “ đây là màu đỏ”, - Chuẩn bị các ... thanh gỗ màu. Bộ đồ - Trẻ chọn đúng - Trẻ lấy bóng màu to – chơi Ví dụ 3: bóng to thả vào ô nhỏ thả vào ô to – nhỏ chọn và Bước 1: Chuẩn bị 1 to. Bóng nhỏ thả theo màu tương ứng và thả thùng sữa, khoét lỗ vào ô nhỏ. Thả nói từ, câu. bóng to to - nhỏ. đúng theo màu. Ví dụ: Bước 2: Bọc màu - nhỏ (thả bóng theo màu) theo các màu cơ bản: Xanh, đỏ, vàng Bước 3: Chuẩn bị + Từ: Bóng to, bóng đúng màu tương ứng nhỏ, bóng xanh, bóng đỏ... + Câu: “Đây là ô màu các quả bóng to – xanh”, “ đây là bóng nhỏ các màu xanh, màu đỏ” đỏ, vàng 3.2. Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các hoạt động trong ngày ở trường mầm non. a. Phát triển ngôn ngữ thông qua các hoạt động có chủ định * Hoạt động nhận biết. Hoạt động nhận biết là hoạt động vô cùng quan trọng trong việc cung cấp từ mới về sự vật hiện tượng xung quanh trẻ, phát triển nhận thức của trẻ từ đó trẻ mới có những kinh nghiệm, trải nghiệm tốt cho bản thân. Tuy nhiên trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng, bộ máy phát âm còn chưa chuẩn nên trẻ rất hay nói ngọng, nói lắp, nói thiếu từ, nói không đủ câu. Chính vì vậy ở hoạt động nhận biết đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị thật tốt về đồ dùng trực quan, hình ảnh minh họa phải to, rõ nét, dễ nhìn và thu hút sự chú ý của trẻ. Đặc biệt với trẻ 24-36 tháng tôi luôn ưu tiên sử dụng vật thật khi dạy trẻ, giúp trẻ có những trải nghiệm thực tế, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tích cực. Song song với đồ dùng là hệ thống câu hỏi cô phải xây dựng ngắn gọn, dễ hiểu, và thật gần gũi với trẻ. Ví dụ 1: Khi dạy về con Thỏ: Tôi chuẩn bị một con thỏ thật. Tôi xây dựng hệ thống câu hỏi ngắn gọn: + Dây là con gì? + Tai con thỏ đâu nhỉ? (Trẻ vừa chỉ tay vừa nói: Tai con thỏ đây ạ) + Ai chỉ cho cô biết mắt thỏ đâu nào? (Trẻ chỉ tay và nói: Mắt thỏ đây ạ) + Đây là cái gì? (Đuôi thỏ đây ạ)... Khi trẻ trả lời cô phải hướng dẫn trẻ phát âm chính xác từ, nói đầy đủ câu đúng ngữ pháp. Để thay đổi không khí lớp học và luyện từ, ghi nhớ kiến thức. Tôi cho trẻ chơi trò chơi củng cố “Con thỏ”, qua trò chơi trẻ vừa phải vận động chân tay vừa phải nói lại các từ: Con thỏ - Tai dài. Mắt thỏ - Tròn xoe. Đuôi thỏ - Ngoe nguẩy. Nói được câu: Thỏ ăn cà rốt. + Cô nói:“Con thỏ, con thỏ”. Trẻ nói: “Tai dài tai dài” đồng thời đưa 2 bàn tay lên qua đầu vẫy vẫy làm tai thỏ. + Cô nói: “Chân thỏ, chân thỏ”. Trẻ nói: “Rất xinh, rất xinh” đồng thời 2 chân dậm 2 lần tại chỗ. + Cô nói: “Mắt thỏ, mắt thỏ”. Trẻ nói: “Tròn xoe, tròn xoe” đồng thời đưa 2 tay lên vòng quanh mắt. + Cô nói: “Đuôi thỏ”. Trẻ nói: “Ngoe nguẩy, ngoe nguẩy”. Trong khi chơi cùng trẻ tôi cố gắng quan sát, lắng nghe và chơi chậm để trẻ nói được các từ cùng cô và cô sửa cách phát âm cho trẻ. Tôi muốn cung cấp cho trẻ vốn từ và hiểu biết về món ăn của con thỏ, tôi cho trẻ trải nghiệm: Cho thỏ ăn cà rốt, sau khi đó tôi đặt câu hỏi: + Thỏ đang làm gì đấy? (Thỏ đang ăn ạ) + Các con vừa cho thỏ ăn gì nhỉ? (Trẻ nói câu: Thỏ ăn cà rốt ạ). Mọi thời điểm trong ngày tôi đặc biệt chú trọng việc trẻ trả lời cô đầy đủ câu, rõ ràng, và sửa phát âm cho trẻ. Ví dụ 2: Hoạt động nhận biết tập nói: Con vịt con 1. Kiến thức: - Trẻ nhận biết được con vịt con, nhận biết được tên gọi và một số đặc điểm của con vịt con: Đầu vịt, mỏ vịt, cánh vịt, chân vịt, lông vịt. 2. Kỹ năng: - Trẻ gọi đúng tên “vịt con” và tên một số bộ phận của con vịt: Đầu vịt, cánh vịt, chân vịt, mỏ vịt, lông vịt. - Trẻ nói được câu: “Đây là vịt con”, “Lông vịt màu vàng”. - Phát triển các giác quan cho trẻ qua hoạt động: nhìn, sờ, nghe. 3. Thái độ: - Trẻ tích cực tham gia các hoạt động của giờ học . - Giáo dục trẻ biết yêu các con vật. II. CHUẨN BỊ . 1. Địa điểm tổ chức: Trong lớp học. 2. Đội hình dạy trẻ: Trẻ ngồi quanh cô, trẻ ngồi hình vòng cung. 3. Đồ dùng: * Đồ dùng của cô: - 5 con vịt thật, 1 cái nơm, ao nhỏ thả vịt. - Màn hình ti vi, hình ảnh con vịt con, con vịt trưởng thành. - Nhạc bài hát: If you happy and you know - nhạc nước ngoài, lời việt. Nhạc bài hát “Đàn vịt con”. * Đồ dùng của trẻ: - Trang phục gọn gàng, sạch sẽ. III. CÁCH TIẾN HÀNH. Hoạt động của giáo viên Hoạt động của trẻ 1.Ổn định tổ chức: - Cô và trẻ cùng hát, vận động theo nhạc bài hát “If you - Trẻ vận động happy and you know” - Lời việt: Các con ơi! Chúng mình theo nhạc cùng cùng hát bài hát tặng các cô, các bác nhé. cô. 2. Phương pháp và hình thức tổ chức: 2.1. Hoạt động 1: Quan sát, nhận biết, tập nói về con vịt con. * Tiếng kêu của con vịt con. - Trẻ nghe, tìm - Cô cho trẻ lắng nghe tiếng kêu của con vịt con, trẻ tìm và và đoán. phát hiện ra các con vịt con. Cô hỏi trẻ: - Trẻ trả lời. + Đố các con đó là tiếng kêu của con gì? - Trẻ trả lời. + Tiếng kêu phát ra ở đâu? - Cô mở lồng vịt, cho 2 con vịt con ra chơi với trẻ và hỏi trẻ: + Đây là con gì? (Cô chỉ vào con vịt con) -Trẻ phát âm - Cô cho cả lớp, 4 - 5 trẻ phát âm: “vịt con”. Cô sửa phát âm - Trẻ trả lời. cho trẻ. -Trẻ phát âm + Vịt con kêu như thế nào? - Trẻ làm động - Cô cho cả lớp, 4 - 5 trẻ phát âm: “vít vít”. tác vịt kêu - Cô cho trẻ bắt chước tiếng vịt con kêu. * Một số bộ phận của con vịt con. - Trẻ trả lời. - Cô cho trẻ quan sát đầu vịt và hỏi trẻ: -Trẻ phát âm + Đây là gì? (Cô chỉ vào đầu vịt) - Cô cho cả lớp, 3 - 4 trẻ phát âm: “đầu vịt”. Cô sửa phát âm cho trẻ. - Trẻ trả lời. - Cô cho vịt ăn và hỏi trẻ: + Vịt con ăn bằng gì? -Trẻ phát âm + Mỏ vịt đâu nhỉ? (Cô chỉ vào mỏ vịt) - Cô cho cả lớp, 4 - 5 trẻ phát âm: “Mỏ vịt”. Cô sửa phát - Trẻ sờ lông vịt âm cho trẻ. - Trẻ trả lời. - Cô cho trẻ sờ lên người con vịt con và hỏi trẻ: - Trẻ trả lời. + Vịt con có màu gì? (Cô chỉ vào bộ lông vịt). -Trẻ phát âm + Các con sờ thấy lông vịt như thế nào? - Cô cho cả lớp, 3 - 4 trẻ tập nói câu: “Lông vịt màu vàng”. Cô sửa sai cho trẻ. -> Đây chính là bộ lông của vịt con đấy, lông vịt con có màu vàng, rất mềm mịn. - Trẻ trả lời. - Cô xòe cánh vịt ra cho trẻ nhìn và hỏi trẻ: + Đố các con biết đây là gì nào? (Cô chỉ vào cánh vịt). -Trẻ phát âm + Cánh vịt đâu nhỉ? - Cô cho cả lớp, 3 - 4 trẻ phát âm: “cánh vịt”. Cô sửa phát âm cho trẻ. - Cô cho trẻ bắt chước động tác: vịt vẫy cánh. - Trẻ trả lời. - Cho trẻ quan sát chân vịt và hỏi trẻ: - Trẻ trả lời. + Vịt con đi bằng gì? -Trẻ phát âm + Chân vịt đâu nhỉ? (Cô đưa vịt con lên cho trẻ nhìn rõ chân) - Cô cho cả lớp, 3 - 4 trẻ phát âm: “chân vịt”. Cô sửa phát - Trẻ quan sát âm cho trẻ. và trả lời * Dáng đi của con vịt con. - Cô cho trẻ quan sát vịt con đi và hỏi trẻ: -Trẻ phát âm + Vịt con đang làm gì nhỉ? + Vịt con đi như thế nào? -Trẻ bắt chước - Cô cho cả lớp, 5 - 6 trẻ phát âm: “lạch bạch”. Cô sửa phát động tác vịt đi. âm cho trẻ. -Trẻ trả lời - Cô cho trẻ bắt chước động tác vịt đi: lạch bạch. - Trẻ phát âm - Cô cho trẻ lùa vịt ra ao, quan sát vịt bơi và hỏi trẻ: + Vịt con đang làm gì đây các con? -Trẻ bắt chước - Cô cho cả lớp, 3 - 4 trẻ phát âm: “vịt bơi”. Cô sửa phát vịt bơi âm cho trẻ. - Trẻ xem hình - Cô cho trẻ bắt chước vịt bơi và về chỗ ngồi xem hình ảnh ảnh của vịt con trên màn hình. => Các con ạ! Đây là vịt con. Vịt con có: Đầu vịt, mỏ vịt, cánh vịt và chân vịt. Vịt có bộ lông màu vàng, vịt bơi được ở dưới nước nhờ đôi chân có màng đấy! * Giáo dục: - Vịt là con vật được nuôi trong gia đình. Các con cùng chăm sóc, yêu thương con vịt và những con vật xung quanh -Trẻ phát âm chúng mình nhé. - Cô cho trẻ nói: Bé yêu vịt. 2.2. Hoạt động 2: Ôn luyện, củng cố: - Trò chơi 1: Ai nhanh nhất + Cách chơi: Cô chỉ vào các bộ phận của vịt con, trẻ nói tên bộ phận đó. + Cô cho trẻ chơi 1 – 2 lần và sửa sai cho trẻ. - Trẻ chơi. - Trò chơi 2 “Vui cùng Vịt con”. + Cách chơi : Chúng mình vừa đi vừa làm động tác giống chú vịt con nhé. (Cô cho trẻ bắt chước vận động và tiếng kêu của vịt con: đi lạch bạch, vịt vẫy cánh, vịt kêu vít vít). - Trẻ chơi. + Cô tổ chức cho trẻ chơi 1- 2 lần, cô sửa sai cho trẻ. 3. Kết thúc: - Trẻ lắng nghe. - Cô nhận xét giờ học, khen ngợi, động viên trẻ. * Hoạt động thơ, truyện Giờ học thơ, kể chuyện là giờ học mà giáo viên không chỉ cung cấp cho trẻ những từ mới thường có những tính từ, động từ và từ láy khó phát âm mà còn phát triển khả năng nghe cho trẻ, luyện kĩ năng phát âm chuẩn xác, không ngọng và kĩ năng nói mạch lạc cho trẻ, cao hơn nữa là giúp trẻ thể hiện được ngữ điệu giọng phù hợp nội dung, hoàn cảnh giao tiếp. Vậy để đạt được mục đích trên với tất cả những bài thơ, câu chuyện tôi định cho trẻ làm quen tôi đều lựa chọn để phù hợp với độ tuổi và phải đảm bảo các yêu cầu: + Đồ dùng minh họa phải đảm bảo tính thẩm mỹ, an toàn và vệ sinh đối với trẻ. + Tranh minh họa truyện phải là tranh có hình ảnh to, rõ nét, sát với nội dung bài thơ, câu chuyện. + Bản thân giáo viên trước hết phải hiểu rõ nội dung bài thơ, câu truyện, thuộc thơ, thuộc truyện, có giọng đọc chuẩn, diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu giọng cũng như tính cách của nhân vật trong thơ, truyện. Ví dụ 1: Trong câu truyện: “Anh em nhà thỏ” ngoài việc giúp trẻ hiểu được nội dung giáo dục của truyện là biết trong gia đình các con cần phải biết chia sẻ, hòa thuận với anh chị, ngoan ngoãn, hiếu thảo và biết quan tâm tới ông bà, bố mẹ tôi còn đặc biệt chú trọng tới việc giúp trẻ thể hiện được ngữ điệu giọng, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện để trẻ bắt chước được câu nói của nhân vật tốt nhất qua đó trẻ sẽ học được cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm của bản thân trong mọi tình huống của mình bằng ngôn ngữ hay nói cách khác là dạy trẻ văn hóa giao tiếp, ví dụ tôi muốn dạy trẻ thể hiện được sự quan tâm của trẻ đối với mẹ của mình tôi sẽ đặt câu hỏi liên hệ cho trẻ: + Khi về nhà các con sẽ mời mẹ ăn cơm như thế nào? (Con mời mẹ ăn cơm ạ). Tôi sẽ nhắc lại lời nói của thỏ em một cách tình cảm, nhẹ nhàng. Sau đó tôi mời nhiều cá nhân trẻ nói. Trẻ nói thiếu từ tôi sẽ nói chậm để trẻ nói theo cô. Bên cạnh đó tôi phát hiện và cũng liên tục sửa nói ngọng cho trẻ đặc biệt là cháu Nguyễn Tiến Đạt, cháu Hải Đăng, Cháu Thu Trang để trẻ mạnh dạn hơn khi trả lời. Trẻ hay mắc lỗi khi nói: Thỏ - Ỏ Thỏ anh – Thỏ ăn (ỏ ăn) Củ cà rốt – Ủ à ốt Con mời mẹ - On mời mẹ Bác bồ câu – Bác bồ âu Khi trẻ nói sai tôi phải dừng lại và sửa lại cho trẻ nhiều lần, tôi nhìn thẳng vào mặt trẻ, yêu cầu trẻ nhìn vào miệng cô, và nghe cô phát âm, cô phát âm từng từ và yêu cầu trẻ phát âm lại từ đó. Để giúp trẻ nghe và hiểu ngôn ngữ, tăng khả năng phát âm khi dạy thơ, truyện tôi thường tạo ra các tình huống để thu hút sự chú ý của trẻ, để trẻ tập trung nghe: Ví dụ như truyện: Quả trứng. Tôi tạo tình huống bạn thỏ ngồi khóc hu, hu. Trẻ rất chú ý và quan tâm vì sao thỏ khóc? Trẻ sẽ hỏi thỏ + Vì sao thỏ khóc + Thỏ trả lời: Tôi đói lắm. Tôi khuyến khích trẻ mời thỏ những món ăn trẻ biết. Từ đó tôi thu hút trẻ vào câu chuyện của mình để trẻ nhận ra: Thỏ thích ăn cà rốt. Qua đó trẻ nghe và hiểu ngôn ngữ một cách tích cực. Khi khả năng nghe và hiểu ngôn ngữ của trẻ tốt, qua từng câu chuyện tôi cũng khơi gợi cho trẻ biết liên hệ thực tiễn qua các câu hỏi. Ví dụ trong chuyện: “Thỏ con ăn gì”. Tôi muốn trẻ biết nói lời cảm ơn khi nhận được sự giúp đỡ tôi sẽ đưa ra các câu hỏi: + Khi được các bạn giúp đỡ, bạn thỏ đã nói như thế nào? (Tôi cảm ơn bạn). + Khi cô cho các con quà các con sẽ nói như thế nào? (Con cảm ơn cô). + Khi bạn giúp con nhặt đồ chơi con sẽ nói như thế nào? (Tôi cảm ơn bạn). (Hình ảnh minh họa phần phụ lục) * Hoạt động phát triển vận động Để kích thích trẻ nói một cách tự giác, chủ động và hứng thú trong hoạt động phát triển vận động. Tôi luôn nghiên cứu, tìm tòi những bài tập phát triển chung, bài vận động cơ bản có lời dẫn tập thật dễ thương, thu hút trẻ, nội dung tập phù hợp với khả năng của trẻ. - Ví dụ tôi chọn bài vận động cơ bản: “Bước vào vòng” tôi sẽ chuẩn bị 3 chiếc vòng thể dục (màu xanh, màu đỏ, màu vàng), trước tiên tôi giới thiệu tên vận động, giới thiệu dụng cụ vận động là những chiếc vòng, khi tôi xếp vòng xuống sàn tôi sẽ hỏi trẻ lần lượt từng vòng: + Trên tay cô cầm chiếc vòng màu gì đây? (Vòng màu đỏ ạ) + Còn đây là chiếc vòng màu gì nhỉ? (Vòng màu xanh ạ) + Cô xếp vòng dưới sàn để làm gì nhỉ ? (Để nhảy hoặc để bước vào vòng...) Trong lúc trẻ bước cô vừa hướng dẫn kĩ năng bước vừa hỏi trẻ con bước vào vòng màu gì vậy? qua tiết học trẻ không chỉ được vận động chân tay mà trẻ còn được nói giúp trẻ rèn khả năng nói mạch lạc, đủ câu và ghi nhớ được hành động một cách sâu sắc hơn. b. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc Giờ hoạt động góc là giờ mà trẻ được vui chơi với những đồ chơi, với những trò chơi vô cùng phong phú và hấp dẫn đã được các cô giáo chuẩn bị chu đáo, trẻ được chơi cùng bạn, giao tiếp với bạn trong lớp nhiều hơn. Đây là khoảng thời gian thuận tiện để giáo viên phát triển ngôn ngữ cho trẻ, hình thành kỹ năng chơi ở trẻ, hình thành các câu hỏi, câu nói phù hợp khi trẻ chơi. Ví dụ 1: Chơi góc “Yêu em bé” trẻ được chơi với búp bê, nói chuyện với búp bê, chăm sóc cho búp bê, cách trẻ chăm sóc búp bê sẽ là điều kiện để phát triển thêm vốn từ và kĩ năng giao tiếp mạch lạc. Để phát huy được kết quả đó tôi luôn chú trọng việc chơi mẫu, nói mẫu cho trẻ xem và gợi mở cho trẻ cách chơi cho trẻ vì tôi nhận thấy trẻ lứa tuổi này chưa hình dung được chơi với em búp bê là sẽ làm những gì, nói chuyện với em như thế nào và nên nói những gì với em. Tôi chuẩn bị đầy đủ và giới thiệu đồ dùng cần có ở góc bế em, cho trẻ ngồi vòng cung phía trước để quan sát và lắng nghe cô chơi với em búp bê, nói với chuyện với em búp bê. Ví dụ: + Chào em búp bê? + Em ăn đi nhé? + Em uống sữa đi. + Em ăn giỏi quá. + Em ngủ đi nhé. À ơi, à ơi..... Khi trẻ vào góc chơi, tôi luôn bao quát trẻ, đến bên trẻ xem cách trẻ chơi, khuyến khích trẻ nói chuyện với búp bê, bế em búp bê đi dạo. Ví dụ 2: Chơi góc “Cô kể bé nghe” tôi luôn chuẩn bị rất nhiều tranh, ảnh chụp, sách truyện đa dạng, phong phú về nội dung theo chủ đề trong năm học của trẻ để hàng ngày trẻ có thể tự do, thoải mái xem sách, xem tranh ảnh, khi trẻ xem tham gia chơi góc này tôi luôn hỏi trẻ về nội dung sách, tranh, khuyến khích trẻ trả lời, trẻ tự kể về nội dung trong tranh từ đó tôi có thể kịp thời luyện cho trẻ phát âm chuẩn, và cung cấp thêm những từ mới. Những ảnh mới lạ mà trẻ chưa biết để mở rộng vốn từ cho trẻ. Ví dụ với chủ đề động vật thì tôi chuẩn bị rất nhiều những bộ sách truyện, tranh ảnh về thế giới động vật, những con thú bông bằng đồ chơi, những con rối tay là các con vật quen thuộc với trẻ, những bộ sưu tập tô màu, bộ sưu tập hình dán về động vật. Với những quyển truyện tranh, bộ sưu tập về thế giới động vật thì tôi cho trẻ ngồi ngay ngắn vào bàn nhỏ của trẻ để trẻ xem tranh ảnh và nói tên hình ảnh đó: Trẻ ngồi mở sách ra chỉ tay vào con voi và nói tên con gà, hoặc cô hỏi trẻ: “Đây là con gì? Gà con làm gì đấy? Nhà con có nuôi gà không? Gà con thích ăn gì nhỉ?”... Với những đồ chơi là thú bông tôi gợi ý trẻ gọi tên, tôi thường mời trẻ giới thiệu về con vật mà trẻ biết, trẻ yêu quý nhât, đố trẻ bắt chước tiếng kêu, động tác của con vật đó. Với những con rối tay là những con vật quen thuộc với trẻ tôi chọn cách ngồi chơi cùng với trẻ, ví dụ tôi đeo con rối tay là con mèo và chơi trò “Hãy lắng nghe tôi nói” : + Xin chào các bạn! tôi là mèo xinh xắn. + Tôi có bộ lông màu vàng. + Tôi có cái tai nhỏ. Đuôi tôi rất dài + Bạn có nhìn thấy đôi mắt của tôi đâu không? + Tôi bắt chuột rất giỏi. Bạn có biết tôi kêu như thế nào không? + Đố bạn biết chân của tôi đâu? Tôi gợi ý cho trẻ chơi rối tay bằng cách 2 bạn ngồi với nhau, mỗi bạn 1 con rối tay ngồi nói chuyện với nhau (giơ ngón rối tay lên hướng thẳng vào rối tay của bạn) ví dụ một bạn cầm rối tay con thỏ, một bạn cầm rối tay con cá, cô có thể gợi ý hai bạn nói chuyện với nhau như sau: + Xin chào bạn! tôi là thỏ trắng. + Bạn là ai? + Chào bạn, tôi là cá vàng. +Tôi sống ở dưới nước + Tôi biết bơi. + Thỏ ơi, bạn thích ăn gì ? Vài lần tôi chơi mẫu và chơi cùng trẻ như vậy trẻ rất thích và sẽ bắt chước những câu nói giới thiệu của cô và tập nói, nói nhiều lần trẻ thuộc, từ đó vốn từ của trẻ trở nên phong phú hơn, nói câu rõ ràng, mạch lạc hơn. Khả năng nghe và hiểu ngôn ngữ của trẻ cũng tốt hơn. * Hoạt động ngoài trời Tôi nhận thấy trẻ sẽ vô cùng vui sướng và hào hứng khi được cô giáo cho ra ngoài sân trường, khi ra ngoài sân trường các con được tiếp xúc với không gian rộng rãi, cảm nhận được thời tiết trong ngày, được chơi với đồ chơi ngoài sân trường, được nhìn, được sờ vào rất nhiều cây, hoa và các loại rau, các loại quả có trong vườn trường. Ra ngoài trời trẻ được gặp gỡ tiếp xúc với các bạn, các anh chị trong trường, những cảm xúc và sự và sự giao lưu trực tiếp với thế giới xung quanh là điều kiện để trẻ học thêm những từ mới, học cách nói đủ câu, giúp trẻ ngày càng tự tin giao tiếp khi. Nắm được giá trị của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động ngoài trời như vậy nên tôi luôn có sự nhạy bén, quan tâm đến trẻ và đặt ra những câu hỏi về sự vật hiện tượng hiện ra ngay trước mắt trẻ để trẻ được nói nhiều, biết nhiều. Ngoài sân luôn có rất nhiều đồ chơi khác nhau nên tôi luôn khuyến khích trẻ nói tên đồ chơi: Đu quay, cầu trượt, xích đu, thú nhún, bập bênh.., đồng thời trò chuyện với trẻ về cách chơi đồ chơi đó. Khi cho trẻ quan sát cây xanh, hoa hoặc loại quả nào đó tôi luôn chú trọng cách đặt câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu và mời nhiều cá nhân, tập thể lớp phát âm: + Đố các con đây là cây gì? + Con hãy đọc theo cô nào. (trẻ nói theo cô, cô chú ý sửa sai) + Con nhìn xem lá cây màu gì? + Có bông hoa nào trên cành cây không? + Quả gì đây con? Quả bưởi có màu gì?.... Ngoài việc chú trọng đặt các câu hỏi trong phần quan sát có chủ đích tôi còn đặc biệt chú ý tới trạng thái cảm xúc của trẻ, tôi quan sát và khuyến khích trẻ chia sẻ cảm xúc của mình, trẻ bộc lộ cảm xúc của mình bằng lời nói: + Hôm nay thời tiết có mát mẻ không nhỉ? + Con có nhìn thấy ông mặt trời tỏa nắng không? + Hôm nay được ra sân chơi con có vui không? + Con thích chơi đồ chơi nào nhất? Tôi cũng luôn quan tâm tới hoạt động giao lưu, hoạt động lao động vệ sinh mà tôi đưa ra trong kế hoạch tuần. Ví dụ trong giờ hoạt động giao lưu, tôi tổ chức cho trẻ giao lưu với các anh chị lớp 5 -6 tuổi, tôi tổ chức cho trẻ trò chuyện với nhau, hỏi tên của nhau, mời anh chị hát tặng các em một bài hát, hay đọc một bài thơ, mời các em hát hoặc đọc bài thơ tặng anh chị một bài thơ, bài hát, và chơi trò chơi cùng nhau. Quá trình giao lưu với các anh chị có vốn ngôn ngữ tốt sẽ giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin, hòa đồng, trẻ thích nói nhiều hơn, cười đùa nhiều hơn với người xung quanh. Ví dụ trong giờ lao động vệ sinh, tôi muốn trẻ tham gia cùng tôi nhặt lá cây khô trong khu thể chất, tôi đưa cho trẻ rổ nhựa nhỏ để đi nhặt lá, trong lúc trẻ nhặt tôi luôn đặt câu hỏi: + Con đang làm gì vậy? + Con nhặt lá khô để làm gì? + Chúng mình phải đổ lá khô ở đâu nhỉ? Những câu hỏi tôi đặt ra không chỉ giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mà con giúp trẻ nhận thức về việc làm của mình, trẻ có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường, biết quan sát, biết lắng nghe để hiểu những sự việc đang diễn ra xung quanh trẻ. 3.3. Biện pháp 3: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua sự kết hợp với phụ huynh. Để tạo sự tin tưởng và thu hút sự tham gia của phụ huynh vào các hoạt động giáo dục trẻ. Tôi thường xuyên lắng nghe ý kiến của cha mẹ trẻ, chủ động xây dựng mối quan hệ tốt với phụ huynh, tư vấn và tuyên truyền các biện pháp về nhà dạy trẻ như thế nào để phối hợp với giáo viên phát triển ngôn ngữ cho trẻ. -Trong buổi họp phụ huynh đầu năm học: + Tôi tìm hiểu khả năng giao tiếp của từng trẻ khi ở nhà thông qua phụ huynh: Vốn từ, mức độ phát âm chuẩn xác hay không, trẻ hay mắc lỗi phát âm gì, hay nói ngọng từ nào, trẻ hay trò chuyện hay nhút nhát, ít nói. + Tìm hiểu về tâm sinh lý, sức khỏe của từng trẻ, tìm hiểu sự phát triển của các cơ quan tạo nên âm, tiếng như lưỡi, môi, thanh quản thông qua phụ huynh, ví dụ qua tìm hiểu tôi biết được cháu Tiến Đạt bị tật dính lưỡi rất khó khăn cho việc phát âm của con nhất là phát âm các từ có dấu hỏi, dẫu ngã. - Hàng tháng : + Tôi treo trên bảng tuyên truyền của lớp bài thơ, bài hát, câu chuyện để phụ huynh biết cùng phối hợp phát triển ngôn ngữ cho con khi ở nhà. +Tôi trao đổi với phụ huynh những cuốn sách hay, nội dung sách, tranh, ảnh phù hợp với độ tuổi nhà trẻ để phụ huynh tìm mua cho con xem thêm ở nhà. Bên cạnh đó tôi cũng chia sẻ những phương pháp tích cực nhất giúp phụ huynh phát triển ngôn ngữ cho trẻ. - Hàng tuần: + Tôi cũng thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ ở lớp, khả năng nói của trẻ ở lớp như thế nào, trẻ có gì cần quan tâm đặc biệt, trẻ có ưu điểm gì cần được khích lệ, động viên, trẻ có hạn chế gì cần chú ý sửa chữa và rèn luyện. 4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan