Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành theo quyết định số 16/2006/QĐBGĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: Phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc
điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh
phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học
tập cho học sinh.
Như vậy, mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ
thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp
dạy học tích cực tự giác nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng
vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực
tiễn. Làm cho Học là quá trình kiến tạo; học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai
thác và xử lí thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học.Nếu rèn luyện
cho học sinh có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho
học sinh lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả sẽ
được nhân lên gấp bội. Tuy nhiên, để phát huy tối đa hiệu quả của phương pháp tự
học, đáp ứng yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học lại là vấn đề trăn trở của
nhiều nhà trường hiện nay, nhất là với các trường mới thành lập khi cơ sở vật chất
còn thiếu thốn, chất lượng đầu vào của học sinh còn rất thấp, độ ngũ giáo viên còn
non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy thì lại càng là vấn đề băn khoăn, bức
xúc hơn bao giờ hết.Trong đó, môn ngữ văn lại là bài toán nan giải với các nhà
trường hơn cả. Bởi dưới tác động của nền kinh tế thị trường, xu thế phát triển của
xã hội, nhiều học sinh ngại học văn, nhiều phụ huynh không muốn cho con em
mình thi vào các ban khoa học xã hội, vì cho rằng học ban này sẽ thi được ít vào
các trường đại học, cao đẳng và cơ hội tìm việc làm sau khi ra trường là rất khó.
Mặc dù cũng đứng trước những khó khăn, thách thức chung như các nhà
trường hiện nay, song vấn đề đổi mới phương pháp dạy học,phát huy tính tích cực
tự học trong môn ngữ văn ở trường THPT Trần Phú Nga Sơn bước đầu đã vượt qua
khó khăn, đạt được một số kết quả đáng tự hào, chất lượng môn ngữ văn đã được
nâng lên vượt bậc so với các môn học khác trong nhà trường.Trở thành một trong
những bộ môn dẫn đầu kết quả các kì thi học sinh giỏi, thi tốt nghiệp, thi vào các
trường đại học, cao đẳng và tốt nghiệp.Tuy chất lượng giải chưa cao nhưng so với
một trường còn non trẻ thì kết quả đó là bằng chứng của quá trình học hỏi ,đúc rút
kinh nghiệm, đổi mới phương pháp dạy học và sự nổ lực cố gắng của thầy và trò.
2. Phạm vi đề tài
Đối với phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm do yêu cầu riêng, bài viết này
không đề cập những vấn đề ở cấp lí luận, mà tôi chỉ trình bày một số kinh nghiệm
nhỏ về vấn đề n tính tự học môn ngữ văn ở trường THPT Trần Phú.
3. Mục đích của đề tài
Sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đề cập đến một số kinh nghiệm, phương
pháp phát huy tính tự học môn ngữ văn ở trường THPT Trần Phú nhằm trao đổi
với đồng nghiệp, giúp ích trong quá trình giảng dạy, góp phần tháo gỡ những khó
khăn trong việc dạy học văn hiện nay, đặt biệt là để thực hiện có hiệu quả việc đổi
mới phương pháp dạy học theo phương pháp dạy học tích cực.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp phân tích- tổng hợp: phân tích các cứ liệu đã thu thập để làm
sáng tỏ từng luận điểm, khái quát thành các luận điểm.
- Phương pháp đối chiếu- so sánh.
Nội dung
1.Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
1.1.Tự học và một số yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học
a.Tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy
học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh- với sự bùng nổ thông tin, khoa
học, kĩ thuật công nghệ phát triển như vũ bão- thì không thể nhồi nhét vào đầu óc
học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều, mà phải quan tâm dạy cho học sinh
phương pháp học.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi, trọng tâm là phương pháp tự học.Tự
học là phương pháp học tích cực. Dưới sự thiết kế, tổ chức, hướng dẫn của giáo
viên, học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu, kiến
thức, kĩ năng, thái độ của chương trình, bài học.Tự học giúp học sinh phát huy tính
tính cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, tìm tòi, phát hiện, khai thác, xử lí thông tin, tự
hình thành hiểu biêt, năng lực và phẩm chất. Đặt biệt, nó còn tạo cho học sinh lòng
ham học, khơi dậy nội lực, khả năng vốn có của mỗi người, kết quả học tập sẽ
được nâng lên.
Tự học không chỉ là việc tự học ở nhà trước và sau bài học trên lớp mà tự
học trong cả tiết học trên lớp có sự hướng dẫn của người thầy.
b.Một số yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học
* Yêu cầu chung
- Dạy học tiến hành thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh.
- Dạy học kết hợp giữa học tập cá thể với học tập hợp tác; giữa hình thức học
cá nhân với hình thức học theo nhóm, theo lớp.
- Dạy học thể hiện mối quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh, giữa học
sinh và học sinh.
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực, tăng cường
thực hành và gắn nội dung bài học vào thực tiễn cuộc sống.
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự học,
tự nghiên cứu; tạo niềm vui, hứng thú, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong
học tập của học sinh.
- Dạy học chú trọng đến việc sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bị dạy
học, đặc biệt chú ý đến những ứng dụng của công nghệ thônh tin.
- Dạy học chú trọng đến việc đa dạng nội dung, các hình thức, cách thức
đáng giá và tăng cường hiệu quả việc đánh giá.
* Yêu cầu đối với học sinh
- Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động để tự khám phá và lĩnh
hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn.
- Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập; thực hành vận dụng kiến thức
đã học để phân tích, đáng giá, giải quyết các tình huống và các vấn đề đặt ra từ
thực tiễn.
- Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm các nhân, tích cực thảo
luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy, cho bạn.
- Biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm hoạt
động học tập của bản thân và bạn bè.
* Yêu cầu đối với giáo viên
- Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập với
các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài học,
với đặc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện cụ thể của lớp, trường và địa
phương.
- Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và tạo điều kiện cho học sinh được
tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh hội
kiến thức; tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học
tập cho học sinh; giúp các em phát triển tối đa năng lực tiềm năng của bản thân,
- Thiết kế và hướng dẫn học sinh thực hiện đa dạng các câu hỏi và bài tập
phát triển tư duy và rèn luyện kĩ năng; tổ chức có hiệu quả các giờ thực hành;
hướng dẫn học sinh có thói quen vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực
tiễn.
- Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lí,
hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với đặc trưng môn học; nội dung, tính chất của bài
học…
1.2. Mục đích và những yêu cầu, nguyên tắc cơ bản của việc tự học văn
Phát huy tính tự học trong môn ngữ văn có một ý nghĩa cực kì quan trọng,
đáp ứng yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học. Để khuyến khích và phát huy
tính tự học văn của học sinh,người giáo viên phải dựa trên những nguyên tắc chung
của lí luận dạy học, đổi mới phương pháp dạy học( như đã nêu ở phần 1) và đặc
trưng bộ môn.
Trước hết, là phải dạy học theo đặc trưng bộ môn.Môn ngữ văn trong nhà
trừơng là một bộ môn khoa học nghệ thuật. Cho nên điều mà người ta quan tâm
trước hết là tính chất văn, tính nghệ thuật ngôn từ,bản chất thẩm mĩ của nó, đây
cũng là điểm khác với các bộ môn khác.Nhưng điều không kém phần quan trọng
cần nêu lên nữa là tính chất môn học, tính chất sư phạm của môn văn.Mỗi một
phân môn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tự học theo đặc trưng của phân môn
đó.Chẳng hạn, với các tiết đọc văn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc tác phẩm
từ trước,hay tìm đọc các tác phẩm có cùng chủ đề, đề tài… thiên về khả năng tự
cảm thụ, tự chiếm lĩnh các vấn đề đặt ra trong tác phẩm và trong đời sống. Các tiết
làm văn thiên về rèn luyện kĩ năng thực hành…
Thứ hai,phát huy chủ thể học sinh trong quá trình tự học.Không có sự vận
động của bản thân chủ thể học sinh thì mọi hoạt động từ phía giáo viên đều trở
thành áp đặt. năng lực chủ quan . Những năng lực chủ quan của học sinh có được
phát huy thực sự thì việc chiếm lĩnh tri thức, việc thưởng thức tác phẩm, hứng thú
học tập mới thực sự có được. và hiệu quả giảng dạy mới bền vững. Yêu cầu phát
huy chủ thể học sinh trong quá trình tự học gắn liền với tài năng sáng tạo của giáo
viên làm sao có thể khơi động được hoạt động tâm lí học sinh nhất là tâm lí cảm
thụ, khả năng tự nắm bắt khiến thức để học sinh từng bước lớn lên về mặt hiểu biết,
tâm hồn, kĩ năng và nhân cách. Giáo viên là người nhạc trưởng điều khiển mọi
nhạc công sử dụng hài hoà nhạc cụ của mình. Nhạc trưởng không biến thành nhạc
công. Học sinh không phải là bình chứa mà là những ngọn lửa. Giáo viên là người
thắp sáng lên những ngọn lửa.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng có khả năng tự học giống nhau.Vì
thế, trong các tiết học , bài học, giáo viên phải phân loại đối tượng học sinh, để từ
đó mới có thể hướng dẫn học sinh tự học theo khả năng của mình.Nếu không sẽ
phản tác dụng của việc tự học.
Thứ ba, dạy văn gắn với đời sống. Vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, môn
văn có những điều kiện thuận lợi để kết hợp việc học tập trên lớp với hoạt động xã
hội.là môn học, ngoài việc cung cấp tri thức cho học sinh, giáo viên thường xuyên
hướng dẫn, rèn luyện và kiểm tra những kĩ năng cơ bản cho học sinh trên lớp. Sau
quá trình lĩnh hội, học sinh có thể vận dụng tri thức và kĩ năng đã học vào hoạt
động ngoài đời. Có thể xem hoạt động văn học ngoài xã hội của học sinh là khâu
vận dụng tri thức và kĩ năng tự do để phát huy năng khiếu và thiên hướng văn học
của học sinh. Vận dụng tri thức vào hoạt động học tập trên lớp là bắt buộc với mọi
học sinh, đồng thời giáo viên khuyến khích học sinh tham gia công tác xã hội bằng
hoạt động văn học, Công việc này vừa có ý nghĩa gắn liền việc dạy- học văn gắn
với đời sống vừa có ý nghĩa vận dụng cụ thể tri thức học sinh đã lĩnh hội vào thực
tiễn.
Thứ tư, phối hợp các phương pháp . Mỗi phương pháp có vị trí và tính năng
riêng của nó cần được vận dụng sáng tạo trong từng bài học và từng trường hợp cụ
thể.Để tránh tâm lí mệt mỏi thụ động và gây được hứng thú, ấn tượng cho học
sinh, giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động tự học của học sinh. Cũng cần nói
thêm là việc sử dụng phương pháp nào cũng còn tuỳ thuộc vào sở thích, sở trường
của mỗi giáo viên. Nghề dạy văn là một nghề sáng tạo, cho phép cá nhân giáo viên
được tương đối tự do trong việc lựa chọn những phương pháp tối ưu.
2.Thực trạng của vấn đề
Nói một cách tổng quát thì nhiệm vụ của môn văn trong nhà trường phổ
thông là góp phần hình thành và phát triển nhân cách xã hội chủ nghĩa cho học sinh
bằng phương tiện đặc thù của môn văn. Khái niệm phát triển trong giáo dục được
hiểu một cách động và toàn diện trên nhiều phương diện( hiểu biết, tâm hồn, kĩ
năng, phẩm chất và hành động).Nói đến tính chất của bộ môn văn trong nhà trường
là nói đến yêu cầu về nội dung nhận thức cho học sinh. Dạy văn có nhiệm vụ cung
cấp cho học sinh những hiểu biết về thế giới bên ngoài, xã hội và con gười.Hiểu
biết thế giói bên ngoài để hiểu chính bản thân mình. Nhận thức để tự nhận thức.Tác
phẩm văn chương chỉ thực sự phát huy được sức mạnh của nó khi nào nó khơi dậy
được từ bên trong người tiếp nhận những hoạt động tâm lí sáng tạo. Cho nên cung
cấp kiến thức cốt là để từ đó học sinh tự ý thức về mình để sống có nhân cách
hơn, cao thượng hơn, trong sạch hơn,có bản lĩnh hơn. Mục đích cao nhất của dạy
văn không phải chỉ là thông báo một số kiến thức mà là cung cấp những khả năng
tự học sinh giải quyết các vấn đề bài toán cuộc đời của bản thân họ.
Tuy nhiên, để thực hiện được vấn đề này lại là điều không đơn giản khi mà
trong thực tế hiện nay một bộ phận không nhỏ học sinh và chính cảc bản thân phụ
huynh ngại, thậm chí không muốn cho con em mình học văn nói riêng và ban
KHXH nói chung trước áp lực thi cử và chọn ngành nghề.Bởi thế,công việc giảng
dạy môn ngữ văn trong các nhà trường phổ thông hiện nay gặp rất nhiều khó khăn.
Các em học theo kiểu đối phó để có đủ điểm điều kiện dự thi tốt nghiệp.Trong các
giờ học thường không tập trung, chú ý, không có ý thức phát biểu xây dựng bài
thậm chí còn mang môn khác ra làm( tình trạng này thường xảy ra ở học sinh học
các lớp chọn của ban KHTN, các em chỉ đầu tư vào môn thi đại học mà không
quan tâm đến môn trái ban); về nhà không soạn bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Trong các giờ kiểm tra thường sao chép tài liệu... Làm thế nào để các em yêu thích
môn học? Làm thế nào để bản thân các em học sinh thấy được tầm quan trọng và ý
nghĩa của bộ môn văn?...Đây quả là những câu hỏi làm đau đầu những người thầy,
người cô trực tiếp đứng lớp.
Ngoài ra, về phía giáo viên trước áp lực của cuộc sống và tâm lí ngại học
văn của học sinh thì một bộ phận đã không chuyên tâm vào công việc giảng dạy,
đầu tư chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học, chỉ dạy cho bài, hết tiết cho nên
nhiều giờ học trở nên buồn tẻ, không cuốn hút được học sinh, hiệu quả không cao...
Bên cạnh đó, ở một số trường phổ thông cơ sở vật chất còn nghèo nàn chưa
trang bị đủ các điều kiện về máy móc, băng đĩa, tranh ảnh, phim tư liệu, các
phương tiện hỗ trợ khác đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. Chính vì
vậy mà việc đổi mới phương pháp dạy học- tự học môn văn nói chưa được chú ý,
quan tâm thoả đáng của cả hai phía người dạy và người học.
3. Giải pháp và`các biện pháp để tổ chức thực hiện
3.1.Tự học thông qua việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh
Qua thực tế giảng dạy, chúng ta thấy khâu chuẩn bị bài ở nhà của học sinh
thường bị coi phụ, giáo viên không hướng dẫn cụ thể cho học sinh.Mấy phút còn
lại cuối cùng còn lại của giờ học, giáo viên chỉ dặn học sinh soạn những câu hỏi
trong sách giáo khoa và kết quả học sinh chuẩn bị đến đâu giáo viên cũng không
quan tâm. Việc chuẩn bị của học sinh ở nhà thường không ăn khớp gì hoặc có liên
quan gì mấy đến hoạt động của thầy và trò trên lớp.Nhưng thực tế đã chứng minh
ngược lại, sự thành công của một giờ học trên lớp phụ thuộc rất lớn vào sự chuẩn
bị bài ở nhà của học sinh.Bởi thời gian học ở trên lớp là rất hạn chế mà kiến thức
bài học đòi hỏi phải lĩnh hội là vô cùng lớn. Do vậy việc tự học ở nhà của các em là
hết sức quan trọng.
Chuẩn bị bài ở nhà là bước tập dượt cho sự cảm thụ , tiếp nhận, lĩnh hội, tri
thức trên lớp được sâu sắc hơn. Bằng kinh nghiệm sống và kinh nghiệm văn học
của bản thân, học sinh trực tiếp đi sâu vào thế giới tác phẩm, vào vấn đề trọng tâm
của bài học một cách dễ dàng.
Ngay từ bước chuẩn bị bài ở nhà, vẫn cần được định hướng vào quỹ đạo cần
thiết. Điều đó không hề mâu thuẫn gì với xu hướng tự bộc lộ, tự học của học sinh
nếu giáo viên biết khơi gợi, dẫn dắt sự cảm thụ chủ quan trực tiếp của bản thân các
em. Nội dung công việc chuẩn bị ở nhà của học sinh có nhiều mặt, đa dạng,tuỳ
thuộc vào từng bài học, tiết học.Có thể là đọc tác phẩm, đọc trước bài học, trả lời
các câu hỏi trong sách giáo khoa hay câu hỏi, bài tập do giáo viên định hướng
trước hoặc tìm hiểu điển cố, từ ngữ khó, suy nghĩ về chi tiết nghệ thuật, một kiến
thức cụ thể, cần thiết có liên quan đến bài học v.v… Nhưng nội dung chủ yếu vẫn
là nhằm khơi dậy hứng thú, tâm thế của học sinh và định hướng học sinh vào
những vấn đề then chốt của nội dung bài học trên lớp. Câu hỏi chuẩn bị tuyệt đối
không được tuỳ tiện. Mỗi câu hỏi cho học sinh vừa có tác dụng khơi gợi hứng thú,
vừa hướng dẫn đi vào thế giới trung tâm của tác phẩm, của bài học, vừa có tác
dụng chuẩn bị cho hoạt động khám phá của giáo viên và học sinh ở trên lớp.
Đến lớp giáo viên phải kiểm tra công việc chuẩn bị bài của học sinh ở
nhà.Đây không chỉ là một công việc thường nhật của thầy giáo trước khi bắt tay
vào dạy bài học mới. Đây còn là bước cần thiết để tạo tâm thế,dẫn dắt học sinh đi
vào bài học mới một cách đầy hứng khởi, say mê.
Ngoài ra,giáo viên còn phải giới thiệu các tài liêu tham khảo, hướng dẫn các
em tự học, tự đọc một cách có hiệu quả.
Ví dụ: sau khi học xong tiết 77 bài Hầu trời của Tản Đà( Ngữ văn 11- tập 2)
giáo viên dành 5 phút hướng dẫn học sinh chuẩn bị Tiết 78-79 bài Vội vàng của
Xuân Diệu với những nội dung như sau:
1. Tóm tắt những nét cơ bản về cuộc đời, con người và sự nghiệp văn học
của nhà thơ Xuân Diệu.
2. Giải thích vì sao Xuân Diệu “ là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”(
Hoài Thanh).
3.Bài thơ Vội vàng có thể chia làm mấy phần? nêu ý chính của từng đoạn.
4. xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ có tâm
trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian?
5. Hình ảnh thiên nhiên và sự sống quen thuộc được tác giả cảm nhận như
thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sống,
tuổi trẻ và hạnh phúc.
6. Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu trong đoạn
cuối bài thơ. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà anh/chị cho là mới mẻ, độc
đáo nhất.
7. Tìm đọc những bài về Xuân Diệu và những bài nghiên cứu thơ Xuân
Diệu( Xuân Diệu- tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục.H.năm 2000. Thi nhân Việt
Nam, Hoài Thanh-Hoài Chân, Nxb Văn hoá thông tin TP HCM...)
8.Chuẩn bị giấy A4- mỗi học sinh một tờ, giấy Ao- mỗi tổ một tờ.
Chắc chắn với sự chuẩn bị như trên tiết học của buổi tiếp theo sẽ rất thành
công- khi cả giáo viên và học sinh đều có tâm thế tốt cho bài học.
2.2.Tự học trên lớp của học sinh ( trong các giờ học chính khoá)
Tự học không chỉ là việc tự học ở nhà trước và sau mỗi bài học trên lớp mà
tự học trong cả tiết học trên lớp có sự hướng dẫn của người thầy.Trước đây, nhiều
người có quan niệm sai lầm cho rằng tự học chỉ là việc học ở nhà của học
sinh.Hiện nay trước yêu cầu của đổi mới giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học,
chúng ta đang nỗ lực chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động, dạy
và học chú trọng rèn luyện phương pháp và phát huy năng lực tự học của học
sinh.Trong các tiết học trên lớp, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng
dẫn các hoạt động độc lập theo nhóm nhỏ để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học
tập.Trên lớp, học sinh hoạt động là chính. Giáo viên với vai trò là người gợi mở, cố
vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh.
Giáo viên phải có trình độ sư phạm lành nghề, có trình độ chuyên môn sâu rộng và
có sự chuẩn bị bài dạy thật chu đáo mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động
của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm của giáo viên.
Một giờ học chính khoá trên lớp của các em là vô cùng quan trọng và hữu
ích. Vì thế, giáo viên phải tổ chức, điều khiển tốt việc tự học của học sinh.Trước
hết, giáo viên cần phải tạo được tâm thế, hứng thú cho học sinh vào bài học
mới.Tuỳ thuộc vào nội dung,yêu cầu của bài học mà sử dụng các hình thức,
phương pháp cho phù hợp.Có thể sử dụng phương pháp phát vấn, thảo luận nhóm,
phiếu học tập…nhưng điều quan trọng, giáo viên phải đưa ra được ra được những
câu hỏi có vấn đề, câu hỏi gợi mở,liên quan đên vấn đề trọng tâm của bài học để
thu hút sự tranh luận, tìm tòi của học sinh và tạo ra được khoảng lặng để học sinh
suy nghĩ và những phút ồn ào, sôi nổi của học sinh thảo luận: tránh sự áp đạt, khiên
cưỡng. Mặt khác, để việc tự học phát huy tối đa hiệu quả, còn phải luôn chú ý đến
đối tượng học sinh, làm thế nào mà tất cả học sinh trong lớp từ giỏi- khá- trung
bình- yếu đều có cơ hội được thể hiện hiểu biết của mình.cơ hội được tiếp nhận
kiến thức bài học.Cuối mỗi giờ học, giáo viên phải luôn chú ý đến việc củng cố
phát triển kiến thức bài học và chuẩn bị cho việc học tập bài mới.. Đây không phải
là công việc vội vã lấy lệ khi trống hết giờ đã điểm.Đây là khâu quyết định phần
lớn hiệu quả của giờ học sắp tới.Học sinh có hứng thú chờ đợi giờ văn hay không,
những vấn đề trong bài học đã lay động suy nghĩ của học sinh hay chưa… Đó là
những tiền đề tâm lí cần thiết để học sinh bước vào giờ học tới.
Ví dụ: thiết kế bài dạy tiết 37- Sóng của Xuân Quỳnh( ngữ văn 12- tập 1).
Đây là một bài thơ tình hay của Xuân Quỳnh trong thời lượng 45 phút của một tiết
học để đạt được mục tiêu cần đạt của bài học là điều không dễ, nó đòi hỏi người
thầy phải có một phương pháp thích hợp, phát huy được tích tích cực, chủ động của
học sinh, đặc biệt là khả năng tự học.
Hoạt động 1. Kiểm tra bài cũ( hình thức vấn đáp)
Tư tưởng đất nước của nhân dân được thể hiện như thế nào trong đoạn trích
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm?
Hoạt động 2. Dẫn vào bài mới
Gv cho học sinh nghe bài hát Thuyền và biển ( lời thơ Xuân Quỳnh, nhạc
Phan Huỳnh Điểu).
Hoạt động 3.
Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm.
1. Cảm nhận của anh/chị về cuộc đời và phong cách thơ Xuân Quỳnh qua
phần tiểu dẫn.
2. Giới thiệu xuất xứ, vị trí của bài thơ Sóng
Hoạt động 4.Đọc hiểu văn bản.
* Đọc diễn cảm bài thơ
* Tìm hiểu bài thơ
Giáo viên chia lớp thành 4 tổ thảo luận nhóm với các 4 câu hỏi sau:
1. Anh/chị có nhận xét gì về âm điệu, nhịp điệu của bài thơ? Âm điệu, nhịp
điệu ấy được tạo nên bởi những yếu tố nào?
2. Hình tượng bao trùm, xuyên xuốt bài thơ là hình tượng Sóng. Mạch liên
kết các khổ thơ là những khám phá liên tục về sóng. Hãy phân tích hình tượng này.
3. Giữa sóng và em trong bài thơ có mối liên hệ như thế nào? Anh/chị có
nhận xét gì về nghệ thuật kết cấu của bài thơ?
4. Bài thơ là lời tự bạch của một tâm hồn phụ nữ đang yêu. Theo cảm nhận
của anh/chị , tâm hồn của người phụ nữ đó có đặc điểm gì?
Học sinh thảo luận, sau đó cử đại diện trình bày. Giáo viên theo dõi, đưa ra
những gợi mở và định hướng. Và có thể chọn một khổ thơ bình giảng cho các em
nghe.
Hoạt động 5. Tổng kết
Khái quát về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Sóng?
Hoạt động 6. Luyện tập và củng cố ( Yêu cầu học sinh về nhà làm)
1. Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Sóng
2. Phân tích hình tượng Sóng để làm rõ tâm hồn người phụ nữ trong tìmh
yêu.
3. Cách thể hiện tình yêu và nỗi nhớ của Xuân Quỳnh trong đoạn thơ sau
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhứ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về em một phương
4. Cảm nhận về đoạn thơ:
Cuộc đời tuy dài thế
...
Mây vẫn bay về xa
2.3. Tự học thông qua hoạt động ngoại khoá, câu lạc bộ văn học
Ngoài các giờ học chính khoá trên lớp, giáo viên cần tổ chức cho học sinh tự
học thông qua các hoạt động hữu ích ngoài giờ lên lớp.Bởi thực tế, theo phân phối
chương trình của bộ quy định có nhiều tiết, nhiều bài không thể trong 45 phút của
tiết học, giáo viên có thể hướng dẫn, tổ chức cho học sinh có thể tự lĩnh hội hết
được các yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng và thái độ trong bài học.
Mặt khác, là môn học có tính nghệ thuật,văn học có quan hệ gần gũi với các
môn nghệ thật khác như sân khấu, kịch, điện ảnh, các phương tiện nghe nhìn khác
như đài truyền thanh, vô tuyến truyền hình nên khả năng mở rộng hoạt đông văn
học cho học sinh ngoài đời sống là có cơ sở thực tế.Có nhiều hình thức để kết hợp
việc tự học trên lớp và tự học qua các hoạt động văn học ngoài xã hội học sinh sẽ
được mở rộng và khơi sâu khiến thức văn học đã được thu nhận ở trường. Hình
thức thứ nhất, có thể cho học sinh đi xem phim, xem kịch chuyển thể từ văn bản
để nhận thức rõ hơn, cảm thụ sâu hơn những phương tiện ngôn ngữ nghệ thuật
khác nhau. Qua đó cảm xúc thể loại của học sinh cũng được thử thách nhiều hơn.
Chẳng hạn, khi học đến thể loại chèo của văn học dân gian, giáo viên có thể tổ
chức cho học sinh xem các trích đoạn từ các vở chèo tiêu biểu như: Kim Nham,
Quan âm thị Kính…Hay khi học đến thể loại kịch, học sinh có thể xem các trích
đoạn từ các vở kịch: Vũ Như Tô-Nguyễn Huy Tưởng, Hồn Trương Ba, da hàng
thịt- Lưu Quang Vũ…
Hình thức thứ hai là bằng các hoạt động văn học: ngâm thơ, đọc thơ hoặc
sắm vai trên khấu.Các em có thể thuyết trình tác phẩm, kể chuyện, nói chuyện văn
học, gặp gỡ bạn yêu văn v.v…Hình thức này có thể tổ chức thông qua các buổi
ngoại khoá theo các chuyên đề ( có thể theo từng lớp, khối lớp). Chẳng hạn:
- Lớp 10: Chuyên đề ca dao Việt Nam, truyện cổ tích Việt Nam, tác gia
Nguyễn Trãi, tác gia Nguyễn Du, Thơ Đường v.v…
- Lớp 11: chuyên đề Thơ mới, văn học hiện thực Việt Nam 1930- 1945, văn
xuôi lãng mạn Việt Nam, tác gia Xuân Diệu, Nam Cao v.v…
- Lớp 12: chuyên đề hình ảnh người lính trong thơ ca Việt Nam 1945- 1975,
Tình yêu quê hương đất nước trong thơ ca kháng chiến v.v…
Hoặc thông qua hình thức các câu lạc bộ văn học như: câu lạc bộ văn học dân gian,
Vườn ươm văn học, hay các cuộc thi, các liên hoan, hội diễn văn nghệ.Ở đây, các
em vừa được kiểm tra kiến thức đã học, vừa được thể hiện tài năng, năng khiếu văn
chương và các khả năng khác của bản thân mà sau này rất có ích trong cuộc sống
như: tập làm người dẫn chương trình, làm diễn viên, khả năng tổ chức, điều khiển
các hoạt động tập thể, khả năng thuyết trình trước đám đông v.v…
Hình thức thứ ba là bằng các hoạt động tham quan, píc níc, học tập thực tế
ngay trên quê hương.Ở quê hương Nga Sơn, giáo viên có thể tổ chức cho các em đi
đến các địc chỉ: động Từ thức, đền- núi Mai An Tiêm… kết hợp học tập và tham
quan.
Ví dụ: Tổ chức ngoại khoá chuyên đề tác giả Nam cao - ngữ văn 11- chương
trình nâng cao. Có thể áp dụng trong một lớp hoặc một vài lớp tiêu biếu trong khối
11,và tuỳ vào thời gian để lựa chọn câu hỏi và nội dung chương trình cho phù hợp
điều kiện cụ thể ở từng lớp, từng trường.
* Câu hỏi và nội dung chuẩn bị:
1. Nêu những nét cơ bản về cuộc đời, con người Nam Cao.
2. Nêu vắn tắt sự nghiệp văn học của Nam Cao.
3. Trình bày quan điểm nghệ thuật của Nam Cao và kể tên những tác phẩm
được xem là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn trước và sau cách mạng tháng tám
năm 1945.
4. Tóm tắt tác phẩm Đời thừa và gải thích ý nghĩa nhan đề.
5. Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo và nêu chủ đề của tác phẩm.
6. Phân tích về những giấc mộng văn chương của nhà văn Hộ trong Đời
thừa
7. Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người cảu Chí Phèo trong tác
phẩm cùng tên của Nam Cao.
7. Phân tích bi kịch tinh thần của nhà văn Hộ.
8. Hãy giải thích tại sao Chí Phèo lại khao khát trở về cuộc sống Lương thiện
9. Hãy nêu giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo.
10. Vì sao sau khi giết được Bá Kến Chí Phèo lại tự kết liễu đời mình.
11. Sau lúc ở tù về Chí Phèo đã đến nhà Bá Kiến mấy lần. Kể lại ngắn ngọn
nội dung sự việc mỗi lần đến của Chí Phèo.
12. Cảm nhận của anh/chị về nước mắt và tiếng khóc của Chí Phèo.
13. Quá trình tha hoá và thức tỉnh của Chí Phèo.
14. Hãy phân tích quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trong tác phẩm Đời
thừa: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay ... sáng tạo những gì
chaưa ai có”
15. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo kể từ khi gặp
Thị Nở cho đến kết thức cuộc đời. ...
* Chương trình buổi ngoại khoá
Phần 1. Kiểm tra kiến thức - Hình thức trắc nghiệm khách quan.( 10 điểm)
Giáo viên dựa vào phần câu hỏi tổng hợp đã cho học học sinh chuẩn bị ở
trên, ra 10 câu hỏi ngắn cho học sinh trả lời nhanh tròng 30 giây, mỗi câu trả lời
đúng được 1 điểm.
Phần 2. Năng khiếu - Hình thức đóng kịch ( 20 điểm)
Giáo viên cho học sinh lựa chọn đóng 2 trích đoạn : Qúa trình thức tỉnh của
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở và bi kịch tinh thần đau đớn của nhân vật Hộ sau khi
lấy tiền nhuận bút và đến lúc tỉnh rượu.
Phần 3. Tài năng - Hùng biện (20 điểm)
Giáo viên cho học sinh bốc thăm câu hỏi và thuyết trình trong khoảng 5-7
phút ( câu hỏi ở phần chuẩn bị),mỗi đội chọn một học sinh tiêu biểu nhất.
* Hình thức tổ chức:
Có thể chia làm 2,3 hoăc 4 đội tuỳ vào tình hình cụ thể ở từng lớp, trường.
Đây sẽ là những sân chơi bổ ích giúp các em thay đổi không khí học tập sau
những giờ học tập căng thẳng trên lớp, nhưng quan trọng là sẽ giúp các em tự học
một cách có hiệu quả, mở rộng, khắc sâu kiến thức ngoài các tiết học trên lớp, rèn
luyện các kĩ năng giao tiếp ứng xử,áp dụng kiến thức trong sách vở vào thực tiễn
cuộc sống,tìm được niềm say mê. yêu thích môn học. Tuy nhiên, muốn thực hiện
và tổ chức thành công hình thức tự học này, bản thân giáo viên phải đầu tư thơì
gian, công sức, trí tuệ. Phải hết sức linh hoạt, chủ động lên kế hoạch báo cáo tổ
chuyên môn, Ban giám hiệu,phối hợp với đồng nghiệp,tổ chuyên môn, các tổ chức
đoàn thể: thanh niên, công đoàn… mới có thể được hỗ trợ về cả về vật chất lẫn tinh
thần.
2.4. Tự học thông qua việc chấm trả bài làm văn
Theo chúng tôi khâu ra đề và chấm trả bài cho học sinh cũng hết sức quan
trọng trong việc giúp học sinh tự học. Về phía người thầy phải đầu tư thời gian,
công sức, trí tuệ trong việc ra đề và chấm bài., không được ra đề một cách tuỳ tiện
cho học sinh làm bài rồi cho điểm, không nhận xét khen chê. Khi ra đề phải bám
sát nội dung chương trình học, phù hợp với trình độ học sinh, đề ra có tính chất
phân hoá đối tượng học sinh theo các mức giỏi- khá -trung bình, khuyến khích sự
sáng tạo của học sinh tránh được việc học sinh chép bài trong các tài liệu.
Sau mỗi tiết kiểm tra, luyện tập,thu bài chấm, giáo viên phải biết trân trọng
thành quả lao động của các em. Chấm bài phải phê, nhận xét những mặt ưu, nhược
điểm, sửa các lỗi sai về chính tả, câu, từ… rồi mới cho điểm. Có như vậy các em
mới biết được mình đã làm được gì, chưa làm được gì, thiếu sót gì để có hướng
khắc phục cho các bài tiếp theo, và đây cũng là một hình thức học rất có hiệu quả
2.5. Tự học thông qua việc luyện đề thi.
Ngoài các tiết kiểm tra theo phân phối chương trình học trên lớp,để phát huy
tính tự học, đặc biệt là rèn luyện kĩ năng viết bài, giáo viên cần cho học sinh làm
quen với các dạng đề thi các cấp như: đề thi học sinh giỏi, tốt nghiệp, đại học, cao
đẳng. Qua việc luyện đề như vậy chắc chắn các em rèn luyện được năng lực phân
tích đề, diễn đạt,cách sắp xếp ý, cách huy động kiến thức ở bề sâu cũng như bề
rộng… Tất nhiên, hình thức tự học này không phải bắt buộc cho tất cả các đối
tượng học sinh mà chỉ dành cho học sinh khá, giỏi.
Ví dụ sau khi học xong Tiết 22 và 25-26 ( tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt
Bắc), giáo viên ra đề cho học sinh ôn luyện ở nhà nhằm cũng cố, khắc sâu và mở
rộng kiến thức cũng như khả năng vận dụng kiến thức ở các mức độ thông hiểu,
vận dụng thấp, vận dụng cao.
1. Tóm tắt các chặng đường thơ Tố Hữu và chứng minh rằng thơ Tố Hữu
gắn liền với những mốc lịch sử quan trọng của đất nước.
2. Những nét chính trong phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.
3. Trình bày cách hiểu của anh (chị) vể nhận định của Xuân Diệu: “ Tố Hữu
đã đưa thơ trữ tình chính trị lên đến trình độ rất đỗi trữ tình”
4. Phân tích những biểu hiện của tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
5. Nêu hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa, vị trí của bài thơ VIệt Bắc.
6. Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
7. Cảm nhận của anh /chị về cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc qua
đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
Ta về, mình có nhớ ta
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
8. Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt bắc của Tố Hữu.
Nhớ gì như nhớ người yêu
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
9. Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu.
Những đường Việt Bắc của ta
...
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng
10.Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu.
Mình đi có nhớ những ngày
...
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Lưu ý : Không bắt buộc học sinh làm tất cả các đề trên mà tuỳ vào đối tượng
học sinh, từng lớp mà yêu cầu các em làm theo khả năng của mình.Chẳng hạn đối
với học sinh trung bình chỉ cần các em làm các đề 1,2,5,8,9,10. Còn các đề 3,4,6,7
dành cho học sinh khá giỏi. Bài làm dưới hình thức dàn bài chi tiết. Và điều quan
trọng là giáo viên không phải chỉ ra đề cho học sinh tự làm, rồi các em muốn làm
hay không làm cũng không quan tâm. Mà giáo viên phải thu, chấm bài cho học
sinh và phải tranh thủ trong các tiết học phụ đạo, học bồi dưỡng chữa một số đề
khó cho các em. Có như vậy thì hình thức tự học này mới mang lại hiệu quả.( Hình
thức tự học này bản thân tôi đã áp dụng rất có hiệu quả trong việc bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Văn cấp trường, cấp tỉnh hàng năm trong hoàn cảnh các em phải học
nhiều môn học, lịch học ở trên trường dày kín.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Kết quả từ quan sát thực tế
Quan sát việc học tập trong các giờ học, giờ ôn tập, ngoại khoá và vở soạn,
vở bài tập về nhà của học sinh kết quả như sau :
- Trong các giờ học không khí học tập sôi nổi, nghiêm túc và có tinh thần tự
giác cao.
- Học sinh chủ động ,tự tin và sáng tạo trong các giờ học. Đặc biệt nhiều tiết
ngoại khoá đã để lại trong lòng các em những ấn tượng sâu đậm, những kỉ niệm
khó quên( tâm sự của học sinh sau các buổi học ).
- Bài tập, câu hỏi giao về nhà, đa phần các em đều hoàn thành ; các phương
tiện, dụng cụ chuẩn bị cho bài học các em đều có ý thức chuẩn bị chu đáo.
4.2. Nghiên cứu qua sản phẩm
Trong quá tình giảng dạy môn ngữ văn, chúng tôi đã áp dụng triệt để phương
pháp trên. Kết quả, kể từ khi thành lập trường, tháng 8 năm 2000 đến nay, đặc biệt
từ năm 2006, khi chúng ta tiến hành thay SGK, đổi mới phương pháp dạy học trải
qua các kì thi học sinh giỏi tỉnh, thi vào các trường đại học, cao đẳng và thi tốt
nghiệp, môn văn của chúng tôi luôn có những thành tích đáng khen ngợi.
Bảng 1: Kết quả các kì thi
Năm học
Kết quả thi
HS giỏi tỉnh
Đại học
Tốt nghiệp
2006- 2007 2 giải
27 học sinh
100 %
2008- 2009 3 giải
31 học sinh
100 %
2010- 2011 2 giải
31 học sinh
100 %
2009-2010
3 giải
34 học sinh
100 %
2012-2013
4 giải
Bảng 2: Kết quả giảng dạy ( trung bình chung cho các lớp dạy qua các năm học)
Năm học
Điểm
8.0- 10 6.5- 7.9
5.0- 6.4
4.9- 3.0
Dưới 3.0
2008- 2009 8 %
45 %
40 %
7%
0%
2009- 2010 10 %
46 %
39 %
5%
0%
2010- 2011 9 %
46 %
41 %
4%
0%
2011- 2012 11 %
47 %
39%
3%
0%
2012- 2013 12 %
50 %
37%
1%
0%
Hàng năm, số lượng học sinh đăng kí vào các lớp ban KHXH rất đông, trung
bình mỗi khối các năm trước là 3 lớp; hai năm trở lại đây là 2 lớp, trong khi đó
nhiều trường số lượng các em đăng kí học ban này là rất ít, nhiều khi không đủ đủ
để xếp một lớp. Con số đó đã nói lên kết quả giảng dạy đổi mới phương pháp dạy
học, phát huy tinh tự học môn ngữ văn ở trường chúng tôi đã tạo được niềm tin, sự
say mê, yêu thích môn học của học sinh.
Kết luận
Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tự học môn ngữ văn là công
việc không giản đơn, có con đường chung nhưng cũng có nghệ thuật riêng ở từng
người, từng trường, áp dụng cho từng lứa học sinh qua mỗi năm.Do vậy, ở đây
chúng tôi chỉ xin nêu ra một số kinh nghiệm trong việc phát huy tính tự học môn
ngữ văn ở một trường THPT còn non trẻ nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn
ngữ ngữ văn, khơi dậy niềm đam mê, yêu thích môn học của học sinh hướng tới
mục tiêu giáo dục của bộ môn là góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn
diện cho học sinh.Muốn làm được điều này, nó đòi hỏi người giáo viên phải có sự
kiên trì, phấn đấu không mệt mỏi và một niềm lạc quan, tin tưởng, yêu nghề, yêu
người.
Kiến nghị, đề xuất
* Đối với trường:
-Tăng cường chăm lo, xây dựng cơ sở vật chất, đồ dùng, thiết bị, tài liệu
phục vụ giảng dạy và học tập.
- Hỗ trợ kinh phí học tập ( cho các buổi ngoại khoá, hoạt động ngoài giờ lên
lớp…)
* Đối với Sở GD&ĐT Thanh Hoá
- Tổ chức các chuyên đề, hội nghị trao đổi phổ biến kinh nghiệm, phương
pháp đổi mới dạy học văn.
- Biên soạn và cung cấp các tài liệu tham khảo về cho các nhà trường.
Trên đây là một số kinh nghiệm, phương pháp đổi mới phương pháp dạy
học, phát huy tính tự học môn ngữ văn mà chúng tôi đã thực hiện trong quá trình
giảng dạy nhằm khơi dậy niềm đam mê, yêu thích môn học, giúp các em học sinh
nắm vững kiến thức tham dự các kì thi học sinh giỏi, tốt nghiệp, đại học … Tuy
rằng đã đạt một số kết quả ban đầu, nhưng đây chỉ là một sáng kiến kinh nghiệm
của bản thân và tổ chuyên môn được áp dụng ở trường THPT Trần Phú, chắc chắn
sẽ không tránh khỏi thiếu sót hạn chế. Vì vậy, chúng tôi rất mong được bạn bè
đồng nghiệp tham khảo và cho ý kiến để chúng tôi có thể giảng dạy đạt kết quả cao
hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Nga Sơn, ngày 25 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Người thực hiện
Trần Thị Mai
- Xem thêm -