Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn một số biện pháp nâng cao vốn từ ngữ trong môn luyện từ và câu cho học sinh...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao vốn từ ngữ trong môn luyện từ và câu cho học sinh lớp 4

.DOC
14
1354
113

Mô tả:

ĐỀ TÀI MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO VỐN TỪ NGỮ TRONG MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC SINH LỚP 4 I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài : Vai trò của Từ trong hệ thống ngôn ngữ quy định tầm quan trọng của việc dạy Từ ngữ ở tiểu học. Không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp. Việc học Từ ở tiểu học sẽ tạo cho học sinh năng lực từ ngữ, giúp học sinh nắm tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện để học tập những cấp học tiếp theo và phát triển toàn diện. Vốn từ của học sinh càng giàu bao nhiêu thì khả năng lựa chọn từ càng lớn, càng chính xác, sự trình bày tư tưởng, tình cảm càng rõ ràng, sâu sắc bấy nhiêu. Vì vậy số lượng từ, tính đa dạng, tính năng động của từ được xem là điều kiện quan trọng hàng đầu để phát triển ngôn ngữ. Cũng chính vì vậy, ở tiểu học, từ ngữ không chỉ được dạy trong tất cả các phân môn Tiếng Việt mà nó còn được dạy trong tất cả các tiết học của các môn khác như Toán, Tự nhiên xã hội,…. Ở đâu có dạy nghĩa từ, dạy sử dụng từ, thì ở đó dạy Từ ngữ. Việc đổi mới phương pháp dạy học, thay sách giáo khoa của môn học Tiếng Việt hiện nay là một bước tiến quan trọng của nền giáo dục nước nhà nhằm thực hiện mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, đọc, nói, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua dạy và học Tiếng Việt còn góp phần rèn luyện cho các em các thao tác của tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt, về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Qua đó còn bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt cho các em và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ những mục đích giáo dục trên, việc dạy học phân môn “Luyện từ và câu” trong môn Tiếng Việt đóng vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Đây là sự kết hợp của hai phân môn riêng biệt đó là Từ ngữ, Ngữ pháp trong chương trình tiểu học trước đây. Nó phù hợp với yêu cầu giáo dục trong giai đoạn mới, thể hiện được quan điểm dạy học mới là gắn liền những kiến thức về lý thuyết ngôn ngữ với việc đưa chúng vào hiện thực sử dụng gắn lý thuyết với thực hành. Xuất phát từ những suy nghĩ trên đồng thời bản thân tôi cũng đang tập trung tìm hiểu vấn đề dạy cho học sinh sử dụng từ, phát triển kỹ năng sử dụng từ trong lời nói và viết của học sinh tiểu học nên tôi đã chọn đề tài : “Một số biện pháp nâng cao vốn từ ngữ trong môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4” để nghiên cứu. I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài : * Mục tiêu Nâng cao vốn từ nghĩa là dạy học sinh sử dụng từ, phát triển kỹ năng sử dụng từ trong lời nói và cách viết của học sinh, đưa từ vào trong vốn từ tích cực được học sinh dùng thường xuyên. Nâng cao vốn từ tức là dạy học sinh biết dùng từ ngữ trong nói năng của mình. Biện pháp giúp học sinh nâng cao vốn từ là cung cấp thêm cho học sinh về từ vựng học cơ bản như một số vấn đề cấu tạo từ và các lớp từ. Những khái niệm này sẽ giúp học sinh nắm nghĩa từ một cách sâu sắc và biết hệ thống hoá vốn từ một cách có ý thức. Nâng cao vốn từ cho học sinh không chỉ là cung cấp vốn 1 từ hay phát triển kỹ năng vốn từ mà điều quan trọng là dạy cho học sinh thực hành từ ngữ. Dạy thực hành từ ngữ chính là dạy từ theo quan điểm giao tiếp, dạy từ trên bình diện phát triển lời nói. Đó chính là công việc làm giàu vốn từ cho học sinh. * Nhiệm vụ: - Nghiên cứu lý thuyết về từ ngữ, cách dùng từ và một số vấn đề liên quan đến vốn từ. - Tìm hiểu thực trạng về việc học sinh sử dụng từ và vốn từ có sẵn của các em trong quá trình học tập. - Tìm hiểu và tiến hành xây dựng các biện pháp giúp học sinh tích cực hóa vốn từ... - Đề xuất một số ý kiến về nâng cao vốn từ ngữ cho học sinh trong giao tiếp ngôn ngữ cũng như trong trình bày văn bản. I.3. Đối tượng, pham vi nghiên cứu : Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các em học sinh tiểu học lớp 4B, Trường Tiểu học Thanh Tân. I. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Với thời gian và kiến thức của bản thân còn hạn chế nên đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi Trường Tiểu học Thanh Tân.Nội dung chủ yếu là tìm hiểu về thực trạng hiện nay việc dạy học và mở rộng từ ngữ trong phân môn “Luyện từ và câu” của học sinh lớp 4B, từ đó đề xuất một số biện pháp tổ chức giúp học sinh nâng cao vốn từ. I. 5. Phương pháp nghiên cứu: a.Phương pháp điều tra. Đây là phương pháp điều tra nghiên cứu từ thực tế hình thức tổ chức dạy học và mở rộng vốn từ cho học sinh lớp 4 đối với phân môn “Luyện từ và câu” trong môn Tiếng Việt ở trường tiểu học. b. Phương pháp lý thuyết : Là phương pháp nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến vốn từ và cách cung cấp vốn từ cho học sinh tiểu học. c. Phương pháp phân tích, tổng hợp : Sau khi nghiên cứu nội dung từ thực tế và tham khảo sách, tài liệu, tôi tiến hành phân tích tổng hợp việc dạy học sinh sử dụng từ và phát triển kỹ năng sử dụng từ trong học tập của môn “Luyện từ và câu” của học sinh tiểu học ở đơn vị mình. Từ đó có cơ sở để đề xuất ý kiến về việc tổ chức một số biện pháp nâng cao vốn từ trong phân môn “Luyện từ và câu” ở trường tiểu học hiện nay. Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp khác để bổ sung cho quá trình nghiên cứu của đề tài. II. PHẦN NỘI DUNG II.1. Cơ sở lí luận : Nâng cao vốn từ có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Việc giúp học sinh nâng cao vốn từ là giúp cho các em nắm ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp. Để học sinh nâng cao vốn từ thì trước hết phải dạy cho các em nắm được từ ngữ, tạo cho các em năng lực từ ngữ, giúp các em nắm được tiếng mẹ đẻ, nắm được các từ ngữ thông dụng tối thiểu về thế giới xung quanh công việc của học sinh ở trường, ở nhà, tình cảm gia đình và vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước con người… những từ ngữ đó gắn với việc giáo dục học sinh tình yêu gia đình, nhà trường, yêu tổ quốc, 2 yêu nhân dân, yêu lao động…chúng làm giàu nhận thức, mở rộng tầm mắt của học sinh, giúp các em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương đất nước, con người, dạy các em biết yêu và ghét. Việc dạy từ ngữ và nâng cao vốn từ được tiến hành trên những mẫu mực tiếng Việt hiện đại. Vốn từ của học sinh được làm giàu dựa trên những ngữ liệu chủ yếu là những bài tập đọc, những câu chuyện kể, các bài Tập làm văn. Từ lớp 2 tất cả các nội dung có liên quan đến từ ngữ đều được sắp xếp theo chủ đề. Nói cách khác cung cấp từ theo chủ đề là cơ sở của tính tuần tự trong dạy từ ngữ và nâng cao vốn từ ở tiểu học. II.2. Thực trạng: Trường Tiểu học Thanh Tân là một đơn vị đóng trên địa bàn nông thôn . Với 423 học sinh, đa số là con em gia đình nông nghiệp. Đội ngũ cán bộ giáo viên của trường có tay nghề vững vàng, nhiệt huyết với công việc. Ban lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm đúng mức đến chất lượng học tập và nề nếp của các em. Đầu năm học 2014-2015 tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 4B, tổng số học sinh của lớp 33em, trong đó nữ 17 em. Tất cả đều là dân tộc kinh .Các em ngoan, ham học . a. Thuận lợi – Khó khăn: * Thuận lợi: Ngay khi bắt đầu tiến hành nghiên cứu đề tài, tôi đã nhận được nhiều sự ủng hộ từ phía nhà trường cũng như một số giáo viên. Ban giám hiệu nhà trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và hướng dẫn chi tiết cho tôi cách trình bày nội dung đúng với hướng dẫn của Phòng giáo dục, cung cấp cho tôi những tư liệu cần thiết để nghiên cứu. Bên cạnh đó các anh chị em đồng nghiệp rất cởi mở và nhiệt tình giúp đỡ cho tôi hoàn thành nội dung nghiên cứu, nhiều giáo viên không ngại khó khăn đã cùng trao đổi với tôi rất nhiệt tình về những kinh nghiệm nghiệp vụ, hướng dẫn tôi một số biện pháp nâng cao vốn từ cho học sinh. Đặc biệt các em học sinh lớp 4B rất ham học và ngoan ngoãn, sẵn sàng hợp tác mỗi khi giáo viên dạy áp dụng các phương pháp vào bài dạy. * Khó Khăn: Bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn nhất định như : Đây là một lĩnh vực nghiêm cứu mới lạ, chưa có người làm nên tài liệu tham khảo cho quá trình nghiên cứu còn rất ít. Thời gian nghiên cứu có hạn không thể áp dụng xong sáng kiến và đánh giá chính xác 100% về mức độ đạt của học sinh dẫn đến chưa xác định được khả năng thành công của đề tài. Bên cạnh đó là do kinh tế gia đình các em còn khó khăn, phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em mình nên dẫn tới chất lượng học sinh không đồng đều cũng là một khó khăn cho việc nghiên cứu. b. Thành công – Hạn chế: * Thành công Ngay từ đầu năm học, khi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 4B nên tôi đã sắp xếp thời gian hợp lý tiếp cận với các em, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em trong học tập cũng như vui chơi. Cũng từ đó tôi đã lập cho mình một kế hoạch dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp. Trong đó việc nắm bắt mức độ vốn từ của mỗi học sinh và tôi quyết định nghiên cứu về lĩnh vực này. Sau đó tôi đã tiến hành khảo nghiệm trong mỗi bài dạy và cho thấy có sự thay đổi rõ nét, chất lượng tăng lên từng ngày. Đó cũng là thành công bước đầu của đề tài. 3 * Hạn chế : Hạn chế lớn nhất của việc nghiên cứu và áp dụng là thời gian lồng ghép những biện pháp trong đề tài vào quá trình giảng dạy bị hạn chế. Bên cạnh đó đối tượng học sinh trong lớp không đồng đều, đa số các em là con em gia đình làm nông nghiệp, kinh tế còn eo hẹp nên bố mẹ chưa quan tâm đến việc học tập của con em đúng mức. Tất cả những điều đó là những hạn chế lớn nhất trong việc nghiên cứu nội dung của đề tài này. c. Mặt mạnh – Mặt yếu: * Mặt mạnh: Việc sử dụng những biện pháp nhằm nâng cao vốn từ cho học sinh lớp 4 là một biện pháp mang tính thiết yếu trong quá trình dạy học hiện nay. Bởi yêu cầu của chất lượng học tập luôn được nâng cao trong khi đó thực tế của một số học sinh tại Trường Tiểu học Thanh Tân chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế trên mức đại trà. Do đó mặt mạnh của giải pháp là cung cấp thêm cho học sinh một số vốn từ ngữ trong quá trình học tập, rèn luyện kỹ năng sử dụng Tiếng Việt để trình bày văn bản và giao tiếp hằng ngày. Đồng thời xây dựng cho học sinh ý thức tự giác rèn luyện, tự nâng cao kiến thức cho bản thân qua học tập cũng như qua tiếp xúc với các nguồn thông tin đại chúng. * Mặt yếu: Bên cạnh những mặt mạnh của giải pháp nêu trên vẫn còn những mặt yếu: - Phải có sự đầu tư công phu và nhiều thời gian nên sẽ ảnh hưởng đến quỹ thời gian học tập chính thức của lớp, do đó giáo viên cần bố trí hợp lý vào các buổi thứ hai hoặc các buổi sinh hoạt ngoại khóa. - Sử dụng các phương pháp này đòi hỏi người giáo viên phải thật kiên nhẫn, chịu khó từng bước giúp đỡ thì hiệu quả của tiết dạy mới đạt, nếu chỉ áp dụng một cách thông thường thì hiệu quả sẽ không cao. - Để những biện pháp nêu trên đi sâu vào các tiết học, đòi hỏi phải trang bị thêm nhiều tài liệu tham khảo của môn Luyện từ và Câu. d. Các nguyên nhân: - Nguyên nhân của việc nghiên cứu đề tài này có rất nhiều nguyên nhân tác động. Nhưng tôi chỉ nêu ra một số nguyên nhân chính tác động đến việc tìm hiểu và nghiên cứu đến nội dung của đề tài như sau : - Ngay từ đầu năm học khi nhận lớp tôi đã tìm hiểu ngay về khả năng kiến thức của từng em và tôi nhận thấy trong lớp còn nhiều em có vốn từ rất nghèo nàn, nhất là khi viết bài văn tả hoặc tìm từ, đặt câu. Nguyên nhân thứ hai cũng là do tính thực tế nghề nghiệp của bản thân có lòng yêu nghề, mến trẻ, tôi rất băn khoăn khi thấy chất lượng học sinh trong lớp bên cạnh đó cũng muốn phấn đấu thi đua, đưa chất lượng của lớp nâng cao theo mục tiêu phấn đấu của nhà trường. chính vì thế tôi đã quyết định tìm hiểu và nghiên cứu nội dung “Một số biện pháp nâng cao vốn từ ngữ trong môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4” II.3. Giải pháp, biện pháp: a. Mục tiêu của giải pháp: Việc nâng cao vốn từ ngữ cho học sinh là một trong những yêu cầu quan trọng trong công tác giáo dục tại trường tiểu học. Nâng cao vốn từ không chỉ giúp học sinh có vốn từ ngữ để làm bài làm văn hay các bài tập ở môn Luyện từ và câu và nâng cao 4 vốn từ còn giúp cho học sinh có kĩ năng sống ,biết sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày và học tập các môn khác. Do đó mục tiêu của giải pháp là dùng các biện pháp thiết yếu và có tính khả thi để cung cấp thêm cho học sinh một số vốn từ ngữ, giúp các em làm tốt các bài tập trong môn Luyện từ và câu qua đó các em biết tích lũy kinh nghiệm, làm giàu vốn từ cho mình để giao tiếp và học tập tốt các môn học khác. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: * Hình thức tổ chức giờ dạy từ ngữ theo hướng tích cực hoá : Dạy từ ngữ dưới dạng nâng cao vốn từ ở tiểu học được tổ chức theo hai hình thức : đó là dạy bài lý thuyết về từ (Mở rộng vốn từ) và tổ chức thực hành từ ngữ làm giàu vốn từ cho học sinh. a) Dạy bài lý thuyết về từ : Mục đích cuối cùng của dạy từ là để học sinh sử dụng được từ trong hoạt động nói năng. Các đo nghiệm cho thấy rằng có một số lượng từ rất lớn học sinh hiểu được nghĩa nhưng chúng không đi vào vốn từ tích cực, không được học sinh sử dụng trong giao tiếp của mình. chính vì vậy, dạy sử dụng từ rất quan trọng. Nhiệm vụ cơ bản của dạy từ ngữ là chuyển vốn từ tiêu cực của học sinh thành vốn từ tích cực. Để thực hiện nhiệm vụ này, người ta đã xây dựng hệ thống bài tập sử dụng từ. Những bài tập này nhằm làm giàu vốn từ cho học sinh bằng cách hình thành ở các em những kỹ năng sử dụng từ. Các bài tập này vận dụng các quan hệ ngôn ngữ, cả quan hệ liên tưởng và quan hệ hình tuyến để lựa chọn và kết hợp từ. Chúng mang tính chất từ vựng – Ngữ pháp. Ví dụ : Qua bài học về mở rộng vốn từ : Cái đẹp (Tiếng Việt lớp 4, môn “Luyện từ và câu”, trang 52. sau nội dung bài học, có 2 bài tập nhằm làm giàu vốn từ cho học sinh : Bài tập 3 : Cho học sinh tìm các từ ngữ miêu tả mức độ cao của cái đẹp (HS suy nghĩ tìm ra : tuyệt vời, lộng lẫy,...) Bài tập 4 : Đặt câu với mỗi từ tìm được ở bài tập 3. (Những cây cảnh trước sân trường em đẹp tuyệt vời. Mái tóc nhung huyền, xoã ngang vai của chị tôi đẹp tuyệt vời,...) b) Tổ chức thực hành từ ngữ - làm giàu vốn từ cho học sinh: Các bài tập sử dụng từ sẽ giúp học sinh nắm nghĩa và khả năng kết hợp của từ. Các đo nghiệm cho thấy là do không nắm chắc nghĩa và khả năng kết hợp của từ mà học sinh tiểu học đã nói, viết những câu như : “Hôm nay em dũng cảm”, “Em rất đoàn kết”, “Em ở giữa tổ quốc”, “chị kiên nhẫn em bé”, “”em yêu các đất nước”, “em thăm tổ quốc Căm Pu chia”. Những bài tập được sử dụng ở tiểu học để dạy dùng từ là bài tập điền từ, bài tập tạo ngữ, bài tập đặt câu, bài tập viết đoạn văn, bài tập chữa lỗi dùng từ. Bài tập điền từ : Là kiểu bài tập được sử dụng nhiều ở tiểu học. Có hai mức độ : hoặc cho trước các từ, yêu cầu học sinh tìm trong số những từ đã cho những từ thích hợp để điền vào chỗ trống trong đoạn, bài cho sẵn hoặc không cho trước các từ để học sinh tự tìm trong vốn từ của mình mà điền vào. Đây là kiểu bài tập nâng cao vốn từ yêu cầu tính độc lập và sáng tạo của học sinh ở mức độ thấp, vừa sức với tuổi nhỏ. Khi tiến hành bài tập, giáo viên hướng dẫn học sinh nắm nghĩa của từ đã cho ( với bài tập cho sẵn 5 các từ cần điền ) và xem xét kỹ đoạn văn có chỗ trống (đã được giáo viên chép sẵn trên bảng phụ). Giáo viên cho học sinh đọc lần lượt từng câu của đoạn văn cho sẵn, đến những chỗ có chỗ trống thì dừng lại, cân nhắc xem có thể điền từ nào trong các từ đã cho để câu văn có nghĩa, phù hợp với toàn đoạn. Khi đọc lại, thấy nghĩa của câu, nghĩa của bài đều thích hợp thì bài tập đã được giải đúng. Ví dụ:Qua bài học về mở rộng vốn từ : Sức khoẻ (Tiếng Việt lớp 4, môn “Luyện từ và câu”, trang 19) sau nội dung bài học, có 1 bài tập kiểu điền từ : Tìm từ ngữ thích hợp với mỗi chỗ trống để hoàn chỉnh các thành ngữ sau : Khoẻ như.................. Nhanh như................ Bài tập tạo ngữ nhằm luyện cho học sinh biết kết hợp các từ. Bài tập này có hai mức độ: Mức độ thứ nhất cho sẵn hai dãy yếu tố, yêu cầu học sinh chọn từng yếu tố của dãy này ghép với một hoặc một số yếu tố của dãy kia cho thích hợp. Để làm những bài tập này, giáo viên hướng dẫn học sinh thử ghép ở mỗi từ ở dãy này với từng từ ở dãy kia, đọc lên rồi vận dụng kinh nghiệm nói năng của mình để xét xem những cách nói nào chấp nhận được để nói cho đúng. Bài tập dùng từ đặt câu: Là kiểu bài tập với một hoặc một số từ cho trước, yêu cầu học sinh tự đặt câu. Học sinh sẽ thể hiện sự hiểu biết của mình về nghĩa của từ, cách thức kết hợp từ với nhau, ví dụ bài tập:’đặt ba câu mỗi câu dùng một từ sau: khai giảng, dạy bảo, gọn gàng’, “Đặt câu với mỗi từ sau: vàng tươi, xanh ngắt”,… Những bài tập kiểu này có cả trong giờ ngữ pháp, chúng yêu cầu học sinh sử dụng cả kiến thức từ ngữ và ngữ pháp. Để làm những bài tập này, trước hết, giáo viên cần hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của những từ đã cho, nhớ lại xem từ đó đã được dùng như thế nào trong các bài tập đọc các em đã học, sau đó các em đặt được câu với những từ này. Để đặt được những câu khác nhau. Giáo viên phải hướng dẫn học sinh tự đặt câu hỏi( hoặc giáo viên đặt câu hỏi để cho các em trả lời, đặt thành câu). Ví dụ 1: Qua ví vụ trên bài học về mở rộng vốn từ : Cái đẹp (Tiếng Việt lớp 4, môn “Luyện từ và câu” trang 52. sau nội dung bài học, có 2 bài tập: - Bài tập 3 : Cho học sinh tìm các từ ngữ miêu tả mức độ cao của cái đẹp (HS suy nghĩ tìm ra : tuyệt vời, lộng lẫy,...) - Bài tập 4 : Đặt câu với mỗi từ tìm được ở bài tập 3. + Mái tóc nhung huyền, xoã ngang vai của chị tôi đẹp tuyệt vời. + Ánh trăng rằm toả xuống cách đồng lúa vừa mới mưa xong, toả ra những vệt sáng như ngọc bích, làm cho cánh đồng lúa trở nên đẹp lộng lẫy. Ví dụ 2: Ở bài tập 5 (Tiếng việt 4 Tập 2 – trang 83) có đề bài : Đặt câu với một trong các thành ngữ vừa tìm được ở bài tập 4. Như vậy ở dạng bài tập này, yêu cầu học sinh phải từ tìm cho mình những vốn từ ngữ mà các em tự hiểu và tiếp thu được qua học tập các môn học khác hoặc qua các thông tin bên ngoài môn học. Nhưng vốn từ này các em phải dựa trên yêu cầu chính là các thành ngữ có sẵn ở bài tập 4 đồng thời nội dung vừa đặt được phải thuộc chủ điểm “Dũng cảm”. Chẳng hạn, giáo viên có thể hướng dẫn cho các em một câu làm mẫu: “Ông nội em là người đã từng vào sinh ra tử ở chiến trường miền Nam” Bài tập chữa lỗi dùng từ : 6 Là bài tập đưa ra những câu dùng từ sai, yêu cầu học sinh nhận ra và sửa chữa. Trong các tài liệu dạy học, số lượng bài tập thuộc kiểu này không nhiều nhưng trên thực tế, có thể sử dụng bài tập này bất kì lúc nào thấy cần thiết, ở đâu có hoạt động nói năng của học sinh ở đó có thể sử dụng kiểu bài tập này. Những lỗi dùng từ cần lấy trong chính thực tế hoạt động nói, viết của học sinh. giáo viên cũng có thể đưa ra những lỗi học sinh dễ mắc phải. Nhiệm vụ của học sinh là phát hiện và tự chữa những lỗi này. Các kiểu bài tập này đều được vận dụng để xây dựng các bài tập từ ngữ. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách thức chung để tiến hành bài tập này. * Một số biện pháp nâng cao vốn từ cho học sinh: Để tổ chức một giờ bài tập từ ngữ, giúp học sinh nâng cao vốn từ, giáo viên phải nắm được mục đích, ý nghĩa, cơ sở xây dựng, nội dung bài tập và biết cách giải thích chính xác bài tập, biết trình tự cần tiến hành giải bài tập để hướng dẫn cho học sinh. Trong giáo án phải ghi rõ mục đích bài tập, lời giải mẫu, những sai phạm dự tính học sinh có thể mắc phải và điều chỉnh đưa về cách giải đúng. Tuần tự công việc giáo viên cần làm trên lớp này là ra nhiệm vụ (nêu đề ra), hướng dẫn và thực hiện kiểm tra đánh giá. 1) Giáo viên cần nêu đề bài một cách rõ ràng, nên yêu cầu học sinh nhắc lại đề ra, khi cần, phải giải thích để em nào cũng nắm được yêu cầu của bài tập. Có nhiều hình thức nêu bài tập : Chỉ dùng lời, viết lên bảng, yêu cầu học sinh xem đề ra trong sách học sinh hoặc vở bài tập. Nhưng dù đề bài được nêu ra dưới hình thức nào cũng cần kiểm tra xem tất cả học sinh đã nắm được yêu cầu của bài tập chưa. Có những trường hợp không thể sử dụng bài tập của sách học sinh như một đề bài mà phải có sự điều chỉnh cho hợp lý, có thể là phải chia cắt bài tập của sách học sinh thành những bài tập nhỏ hơn. Tuỳ thời gian và trình độ học sinh mà quy định số lượng bài tập cần tiến hành trong giờ học. Có thể lựa chọn, lược bỏ, bổ sung thêm bài tập của sách học sinh. khi giao bài tập cho học sinh cần lưu ý để có sự phân hoá cho phù hợp với đối tượng.Nhưng phải theo hướng đảm bảo chuẩn kiến thức - Kĩ năng trong từng tiết học. 2) Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên phải nắm chắc trình tự của bài tập. Cần phải dự tính trước những khó khăn và những lỗi học sinh mắc phải khi giải bài tập để chữa kịp thời. Việc thực hiện bài tập cũng có nhiều hình thức :nói, đọc, viết hoặc nối, tô, vẽ, đánh dấu. Có bài trả lời miệng, có bài viết, có bài gạch, đánh dấu trong vở bài tập. Với những kiểu bài tập mới xuất hiện lần đầu giáo viên cần hướng dẫn thật chi tiết. Khi hướng dẫn thực hiện cần chia thành nhiều mức độ cho phù hợp với các đối tượng học sinh khác nhau, cần giúp những học sinh yếu kém bằng những câu hỏi gợi mở. Trong quá trình tiến hành phải tăng dần mức độ làm việc độc lập của học sinh. 3) Kiểm tra đánh giá : Đây là một công việc quan trọng mà giáo viên không được bỏ qua hoặc xem nhẹ. Việc kiểm tra đánh giá là lúc giáo viên nắm bắt kết quả tiếp thu kiến thức của học sinh, cũng là lúc giáo viên tự đánh giá lại hình thức tổ chức dạy học của mình đã hợp lý chưa, phù hợp với từng đối tượng của học sinh trong lớp không. Vì thế phải có mẫu lời giải đúng và dùng nó đối chiếu với bài làm của học sinh, với những bài làm sai, giáo viên không nhận xét chung chung là sai mà phải dựa vào quy trình làm bài, chia ra từng bước nhỏ hơn để thực hiện, từ đó chỉ rõ lỗi sai của 7 học sinh một cách chi tiết, cụ thể và có thể sửa chữa được. Phải biết cách chuyển từ một lời giải sai sang một lời giải đúng như thế nào chứ không chỉ nói “em làm sai rồi” và chuyển sang gọi em khác. Như vậy khi chữa bài tập, giáo viên không chỉ biết đánh giá thế này là sai, thế kia là đúng mà phải cắt nghĩa được tại sao như thế là sai, tại sao như thế là đúng, nghĩa là lại một lần nữa lặp lại quy trình giải bài tập khi có học sinh làm chưa đúng. 4) Cuối cùng là thông qua hệ thống trò chơi : Tổ chức trò chơi trong giờ dạy - Học “Luyện từ và câu” là một hình thức rất bổ ích cho học sinh. Khi tổ chức thành công trò chơi trong giờ học sẽ mang lại hai tác dụng lớn : - Củng cố kiến thức, kỹ năng tiếp thu của học sinh qua giờ học, đồng thời giúp cho giáo viên đánh giá, nhận xét kết quả học tập của học sinh một cách nhanh nhất về những kiến thức đã truyền thụ và khả năng linh hoạt trong việc tìm tòi và xử lý khi tham gia trò chơi. - Thông qua trò chơi, tạo cho học sinh niềm vui, sự hứng khởi, thoải mái để tiếp tục tham gia học tập tốt các môn học khác. Chính vì vậy giáo viên cần chọn lựa những trò chơi vừa phù hợp với khả năng kiến thức của học sinh, vừa củng cố kiến thức cần thiết đã học. Cần cân nhắc về thời gian chơi cũng như về trật tự của lớp học để không ảnh hưởng đến những tiết học khác. Có rất nhiều hình thức tổ chức trò chơi cũng như rất nhiều trò chơi trong dạy-học “Luyện từ và câu”. Điều quan trọng là giáo viên phải biết nghiên cứu, tìm hiểu để lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp với đối tượng học sinh cũng như kiến thức cần củng cố. Ví dụ 1 : Ở lớp 4, sau khi dạy xong bài : Mở rộng vốn từ : Nhân hậu – Đoàn kết (tiếng Việt 4, trang 33). Giáo viên có thể tổ chức một trò chơi nhỏ (trò chơi điền từ) trong thời gian 5 phút để củng cố kiến thức cho học sinh : * Dùng 2 tấm bìa roky đã viết sẵn một số câu còn thiếu : Hiền như …… Lành như …… Dữ như …… Thương nhau như …… Ghét nhau như …… * Cắt một số từ : đất, cọp, bụt, phúc, hiền, ác, vui, buồn, dễ, khó,chị em gái,… * Để lẫn lộn các từ đó với nhau, sau đó chia thành hai phần. Chia học sinh thành hai nhóm thực hiện nhiệm vụ giống nhau, đội nào tìm và gắn từ chính xác nhiều hơn,nhanh hơn thì đội đó thắng. c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp : Để đề tài được áp dụng vào thực tế và có hiệu quả cao nhất, cần phải đáp ứng được những điều kiện sau : - Đối với nhà trường cần quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi về quỹ thời gian để giáo viên lồng ghép vào trong các tiết dạy vào buổi thứ hai. - Kiểm tra thường xuyên việc giảng dạy của giáo viên nhất là vào buổi học thứ hai để kịp thời phát hiện và sửa sai những thiếu sót trong quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. 8 - Với giáo viên phải kiên trì, chịu khó từng bước áp dụng đề tài. Luôn gần gũi và quan tâm giáo viên để tìm hiểu những tâm tư, nguyện vọng và có những hình thức tổ chức phù hợp bài dạy, đối tượng học sinh. Phải thường xuyên tham mưu với lãnh đạo nhà trường để có những ý kiến chỉ đạo kịp thời sát sao với nội dung bài dạy, nhằm giúp học sinh nắm vững những kiến thức mà đề tài muốn đề cập. d. Mối quan hệ giữa biện pháp và giải pháp : Việc triển khai những nội dung vào trong chương trình giảng dạy, giáo viên cần xác định cụ thể giữa hình thức tổ chức và các phương pháp tổ chức áp dụng nội dung. - Cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa biện pháp và giải pháp của đề tài. Cụ thể phải xác định quỹ thời gian của môn Luyện từ và câu trong chương trình để từ đó từng bước áp dụng giải pháp vào trong bài học. Có thể lồng ghép vào trong các bài tập thực hành trên những tiết học chính thức. Đồng thời xác định và phân loại từng đối tượng học sinh trong lớp, hoàn cảnh cuộc sống từng em để lồng ghép vào bài dạy. - Nếu việc xác định cụ thể các biện pháp áp dụng trong chương trình giảng dạy thì giải pháp đã nêu trong đề tài chắc chắn sẽ thực hiện có hiệu quả. e. Kết quả khảo nghiệm: Sau khi áp dụng những giải pháp đã nêu vào trong chương trình giảng dạy tôi thấy hiệu quả của đề tài rất rõ. Số lượng học sinh biết dùng từ đặt câu, hoặc tìm những từ ngữ mới, câu mới để điền vào bài tập hay hơn. Cụ thể tôi đã tiến hành tổ chức một tiết kiểm tra với đề bài sau: ĐỀ BÀI 1. Đặt hai câu kể, kể về các việc em làm hằng ngày sau khi đi học về. 2. Cho đoạn văn sau : “Trên nương, mỗi người một việc. Người lớn đánh trâu ra cày. Các cụ già nhặt cỏ, đốt lá. Mấy chú bé bắc bếp thổi cơm. Các bà mẹ tra ngô. Các em bé ngủ khì trên lưng mẹ. Lũ chó sủa om cả rừng.” Em hãy tìm trong đoạn văn trên các từ chỉ hoạt động. Đặt câu hỏi cho những từ chỉ hoạt động mà em đã đặt được. Sau khi học sinh làm bài xong, tôi đã nhận xét và tổng kết kết quả như sau : Lớp tổng số 33 học sinh trong đó 5 em làm bài tốt, 17 em làm bài phần tìm từ chỉ hoạt động còn thiếu 1 từ chỉ hoạt động, 8 em đặt câu hỏi cho cho những từ chỉ hoạt động còn thiếu 2 câu hỏi, 3 em làm bài bài 2 chưa đầy đủ.Tôi đã nhận xét từng bài và chỉ ra những lỗi sai của các em, hướng dẫn các em cách làm và yêu cầu các em về học thuộc các ghi nhớ cuối mỗi bài học. Kết quả chất lượng cuối học kì I như sau : Tổng số HS Giỏi Khá TB Yếu 33 8 17 8 0 III.PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ III.1. Kết luận của đề tài : Qua kết quả khảo sát từ thực tế việc tổ chức dạy học trong phân môn “Luyện từ và câu” ở Trường Tiểu học Thanh Tân và quá trình tự tìm tòi nghiên cứu tài liệu về biện pháp tổ chức dạy từ ngữ giúp học sinh nâng cao vốn từ, tôi nhận thấy rằng việc dạy nâng cao vốn từ ngữ cho học sinh tiểu học là một công việc không hề đơn giản bởi vốn từ ngữ của đất nước ta vô cùng phong phú, nghĩa của từ cũng đa dạng, các loại từ, từ loại rất phức tạp. Bên cạnh đó, đối tượng học sinh tiểu học còn ngây thơ, vốn từ các em còn nghèo nàn, sự tiếp thu về kiến thức từ vựng, ngữ pháp còn có 9 nhiều bất cập. Mặt khác đối với giáo viên tiểu học, vốn từ ngữ cũng còn hạn chế chủ yếu là dựa vào vốn từ trong sách giáo khoa. Đồng thời các phương pháp dạy học theo hình thức đổi mới dưới dạng lấy học sinh làm trung tâm thì giáo viên và học sinh cũng còn bỡ ngỡ. Đó chính là những nguyên nhân chính dẫn đến việc dạy từ ngữ mở rộng vốn từ, nâng cao vốn từ cho học sinh còn chưa đạt hiệu quả cao. Từ đó chúng tôi mạnh dạn đề cập đến những biện pháp thực hiện có tính khả thi và nêu lên trong đề tài. Tuy nhiên đó chỉ là những ý kiến đóng góp qua học tập nghiên cứu kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy của bản thân sau một thời gian công tác trong Trường Tiểu học Thanh Tân. Việc tổ chức dạy học bằng phương pháp nào cho đạt hiệu quả cao không phải là chuyện đơn giản chỉ nói qua lý thuyết mà cần phải có thời gian cũng như kinh nghiệm giảng dạy cộng với sự tìm tòi học hỏi không ngừng của người giáo viên thì hiệu quả của tiết dạy mới được nâng cao, chất lượng giáo dục mới đáp ứng được mục tiêu của ngành giáo dục. Giáo viên không phải là người hoàn hảo, nhưng cũng đóng một vai trò chủ đạo trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Cung cấp vốn từ ngữ trong môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 không những giúp cho các em nắm chắc kiến thức tiếng Việt mà còn học tốt các môn học khác, vì kiến thức ở tiểu học là phương tiện để hình thành kĩ năng, trong đó kĩ năng sống là tổng hợp các kĩ năng cơ bản cần thiết nhất. Chính vì thế mà giáo viên phải luôn có ý thức thay đổi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học qua mỗi tiết dạy thật linh hoạt sáng tạo theo hướng đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng để học sinh thực sự hứng thú trong việc học, học mà chơi, vui mà học. Qua đó nâng cao năng lực tự học, rèn luyện bản lĩnh tự tin và kĩ năng giao tiếp cho học sinh, để lớp học thực sự trở thành một lớp học thân thiện, thì mới đạt kết quả học tập tốt nhất. Bởi thế người giáo viên phải biết tìm tòi học hỏi không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và nhịp độ phát triển của thời đại III.2. Kiến nghị : 1) Đối với nhà trường : - Cần tổ chức thêm những buổi tập huấn về việc nâng cao chất lượng dạy – học môn tiếng Việt để giáo viên kịp thời bổ sung những phương pháp và biện pháp tổ chức dạy học mới nâng cao hiệu quả của tiết dạy. - Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham gia các lớp học chuyên đề, bồi dưỡng.v.v… để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cũng như nắm bắt đầy đủ các phương pháp , các hình thức tổ chức dạy học mới đáp ứng yêu cầu của nền giáo dục nước nhà trong giai đoạn hiện nay 2) Đối với giáo viên : - Cần tích cực tham gia tập huấn nhiều về những hình thức cũng như phương pháp dạy học để củng cố trình độ nghiệp vụ của bản thân - Quan tâm nhiều hơn đến học sinh trong lớp mình trực tiếp giảng dạy, thường xuyên theo dõi chất lượng học tập của các em, nhằm tìm ra những sai sót để có biện pháp uốn nắn kịp thời giúp cho các em có kiến thức cũng như tinh thần để học tốt môn khác. - Ngoài ra còn nhờ sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, chị em bạn bè đồng nghiệp và các cấp quản lý giáo dục. 3) Về phía học sinh: 10 - Cần ý thức được nhiệm vụ học tập và vị trí, vai trò của Từ ngữ rất cần thiết cho các môn học khác và yêu cầu cuộc sống. Do vậy, các em phải chủ động tìm ra những phương pháp học phù hợp nhằm đem lại kết quả cao trong quá trình học tập. Tôi xin chân thành cảm ơn. Thanh Tân ngày 30 tháng 3 năm 2015 Người thực hiện Đinh Thị Thu Hằng 11 Tài liệu tham khảo - Nhiều tác giả (2006). Sách giáo viên, sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 4– Nhà xuất bản giáo dục – Năm 2010. - Phương pháp dạy học Tiếng Việt tập 1, 2. Nhà xuất bản giáo dục. - Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng từ ngữ cho học sinh tiểu học: Các dạng bài tập và những vấn đề cần lưu ý. -Chuyên đề Giáo dục Tiểu học (Nhà xuất bản giáo dục Viêt Nam năm 2011) - Hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học các môn học cấp Tiểu học. -Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn ở Tiểu học lớp 4. - Giáo dục kĩ năng sống lớp 4. 12 - Những điều giáo viên chủ nhiệm cần biết ( Biên tập : Hồ Phương Lan- Nhà xuất bản Lao Động. ) 13 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất