Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy các biểu tượng hình học cho học si...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1

.DOC
22
80
52

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY CÁC BIỂU TƯỢNG HÌNH HỌC CHO HỌC SINH LỚP 1 Môn: Toán Cấp học: Tiểu học Tên tác giả: Cao Thị Thu Hà Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Trung Tự Chức vụ: Giáo viên cơ bản NĂM HỌC 2018 – 2019 MỤC LỤC STT 1 Phần I: Mở đầu 2 Nội dung Trang 2 1. Lý do chọn đề tài 2 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng nghiên cứu 3 4. Phương pháp nghiên cứu 3 5. Phạm vi nghiên cứu 3 Phần II: Nội dung 4 1. Cơ sở lý luận 4 2. Có sở thực tiễn 4 3. Nội dung chương trình sách giáo khoa Toán 1 5 4. Thực trạng vấn đề nghiên cứu 5 5. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1. 7 5.1. Biện pháp 1: Hướng dẫn HS hình thành các biểu tượng hình học 7 5.2. Biện pháp 2: Vận dụng tốt các phương pháp dạy học Toán 8 5. 3. Biện pháp 3: Tổ chức dạy học theo nhóm 11 5.4. Biện pháp 4: Tăng cường sử dụng các trò chơi học tập 13 6. Kết quả 14 7. Giáo án minh họa 15 1/21 3 Phần III: Kết luận 20 4 Tài liệu tham khảo 21 PHẦN I - MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài : Xuất phát từ vị trí, vai trò của môn Toán ở bậc tiểu học. Một trong những bộ phận cấu thành chương trình Toán ở bậc tiểu học là "Những yếu tố hình học". Bộ môn này được dạy học ở tiểu học mang ý nghĩa chuẩn bị cho việc học môn hình học ở bậc học phổ thông cơ sở, đồng thời giúp học sinh những hiểu biết cần thiết khi tiếp xúc với những tình huống toán học trong cuộc sống hàng ngày. Đặc điểm cấu trúc của chương trình Toán lớp 1 thì "Các yếu tố hình học" lại nằm xen kẽ ở các nội dung khác, điều này thể hiện tính thống nhất, tích hợp trong cấu trúc nội dung nên được coi là một ưu điểm. Tuy nhiên cũng tạo ra một số khó khăn cho cả giáo viên cũng như học sinh trong quá trình truyền đạt và lĩnh hội tri thức. Dạy học các yếu tố hình học được tri giác như một toán thể gắn liền với hình dạng của chúng, chưa chú ý đến việc phân tích các yếu tố, các đặc điểm của hình (học sinh nhận diện phân loại hình trong một tập hợp vật thật, hình vẽ khác nhau về kích thước, màu sắc...). Trong thực tế, việc đổi mới phương pháp dạy học của chương trình thay sách đã có nhiều phương pháp giúp học sinh học tốt môn toán nói chung, các yếu tố hình học nói riêng. Song để phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình dạy tôi đã tìm tòi và mạnh dạn áp dụng cách truyền đạt gần nhất để các em hiểu bài. Tuy chưa phải là tối ưu nhưng cũng là tâm huyết của bản thân góp phần vào việc tháo gỡ khó khăn khi dạy các yếu tố hình học trong môn toán cho học sinh lớp 1. Xuất phát từ những lí do trên và cũng là để góp phần nâng cao chất lượng dạy học các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1, đề tài : "Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1" được nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu : Giúp học sinh phần nào tháo gỡ những khó khăn do sự phát triển tâm sinh lý chưa đầy đủ để học sinh có phương pháp học toán, chiếm lĩnh tri thức một cách có 2/21 hệ thống, khoa học, phát triển năng lực trí tuệ. Bên cạnh đó góp phần hỗ trợ phần nào cho giáo viên trong việc dạy về các yếu tố hình học ở lớp 1 một cách tích cực góp phần nâng cao hiệu quả toán học. Hơn nữa giúp học sinh có hứng thú học Toán nhằm xoá đi mặc cảm về sự tự ti của bản thân để hoà mình vào tập thể, đón nhận tiếp thu kiến thức một cách hào hứng, tự giác, đúng hướng. Cũng qua đề tài sáng kiến kinh nghiê ̣m này, tôi muốn có trong tay một vốn kinh nghiệm phục vụ cho việc dạy học sau này. 3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 1A - trường Tiểu học Trung Tự - Năm học 2018 – 2019 4. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn hành đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu để tìm ra nguyên tắc sắp xếp các yếu tố hình học; nghiên cứu cơ sở lý luận để tìm ra giải pháp dạy các yếu tốt hình học. - Phương pháp điều tra, quan sát. - Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm. 5. Phạm vi nghiên cứu Các dạng toán biểu tượng hình học của môn toán lớp 1. 3/21 PHẦN II - NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận: Cùng với sự phát triển của xã hội, khả năng nhận thức của học sinh cũng có những bước phát triển rõ rệt. Vì vậy, vấn đề đổi mới phương pháp dạy toán nói riêng được các nhà giáo dục cũng như nhiều giáo viên quan tâm. Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về nhiều lĩnh vực trong việc giảng dạy toán ở Tiểu học và trong số đó không ít người nhiều sáng kiến mang lại hiệu quả cao trong việc giảng dạy toán ở Tiểu học. Thông qua tiết toán về các biểu tượng hình học, việc dạy các yếu tố hình học góp phần kích thích sự phát triển tư duy của học sinh. Các yếu tố hình học sẽ giúp các em nhận thứcvà phân tích tốt hơn thế giới xung quanh. Không ít giáo viên đã nhận thức được điều này, nhưng do điều kiện nên chưa có giáo viên nào nghiên cứu vấn đề này. Đây cũng là vấn đề mà các nhà sư phạm cần quan tâm. Với đề tài: "Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1" là một vấn đề mới, nên tôi sẽ quyết tâm nghiên cứu vấn đề này. Một trong những tiêu chí đánh giá tính khoa học của bộ môn toán là mức độ hoàn thiện các phương pháp dạy học môn toán cũng như phương pháp dạy học bộ môn khác. Sự đổi mới của xã hội dẫn đến yêu cầu cao đối với chất lượng dạy và học trong nhà trường đối với việc đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật đòi hỏi phải đổi mới nội dung và phương pháp dạy học. Biện pháp là: Cách sử liệu đối với việc nâng cao chất lượng dạy học các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1. Nâng cao chất lượng là: Đưa chất lượng dạy học các biểu tượng hình học lên mức cao. Biểu tượng hình học là: Hình ảnh biểu hiện các hình học. Trong quá trình nghiên cứu lịch sử vấn đề và các cơ sở lí luận vấn đề "Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1". Tôi nhận thấy rõ hơn về vai trò của môn toán đặc biệt "Các yếu tố hình học" giúp các em nhận biết Thế giới xung quanh và học tốt các môn học khác. 4/21 2. Cơ sở thực tiễn: Dựa vào quan sát thực tế học sinh lớp 1A tôi thấy: Trình độ nhận thức của học sinh trong cùng một độ tuổi bị chênh lệch đa số các em còn mải chơi. Chính vì vậy, khi giảng dạy về biểu tượng hình học trong toán 1, đòi hỏi người giáo viên phải biết vận dụng toàn bộ phương pháp dạy học hiện đại. Đồng thời người giáo viên phải truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách trực quan sinh động trong giờ học, gây sự say mê hứng thú học môn toán. Chất lượng học tập của các em hiện nay đòi hỏi cao, kết quả học tập rõ rệt các em có ý thức học tập, luôn học bài, làm bài đầy đủ trước khi đến lớp. Bên cạnh đó một số em chưa có ý thức trong việc học hành, dành ít thời gian ôn bài, việc tiếp thu kiến thức còn hạn chế, dẫn đến tình trạng rỗng kiến thức. Mặt khác phương pháp dạy "Lấy học sinh làm nhân vật trung tâm, chủ đạo trong học tập, còn giáo viên chỉ là người gợi mở, hướng dẫn" chưa áp dụng triệt để mà hầu như giáo viên vẫn dùng phương pháp diễn giải, phần nào còn áp đặt. Các em lười động não, chưa chịu tư duy, suy luận. Do vậy, việc vận dụng khắc sâu kiến thức, niềm say mê tìm tòi sáng tạo ở học sinh chưa khơi dậy được khả năng vận dụng chất xám ở học sinh. Song song với quá trình xem xét thực tế, tôi thấy việc "nâng cao chất lượng dạy về các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1" cũng như việc sử dụng phương pháp "Lấy học sinh làm nhân vật trung tâm". Để giảng dạy đựơc áp dụng hoàn toàn lấy hoạt động học tập của học sinh là hoạt động chủ đạo dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh sau đó hướng dẫn cách làm, làm mẫu cho học sinh thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy trình. 3. Nội dung chương trình sách giáo khoa Toán 1: Trong sách giáo khoa toán 1 thì phần "Các yếu tố hình học" được phân bổ như sau: Tiết 3: Hình vuông, hình tròn, hình tam giác. Tiết 69: Điểm, đoạn thẳng. Tiết 70: Độ dài đoạn thẳng. Tiết 71: Thực hành đo độ dài đoạn thẳng. Tiết 98: Điểm ở trong, điểm ở ngoài một hình. 4. Thực trạng vấn đề cần nghiên cứu: 4.1. Về phía học sinh: Qua nhiều năm dạy các yếu tốt hình học ở lớp 1, tôi nhận thấy: 5/21 Những khái niệm cơ bản của phần hình học lớp 1 là: Điểm, đoạn thẳng, hình vuông, hình tròn, hình tam giác... Đó là những kiến thức rất đơn giản, nghe qua, nhìn qua tưởng là nhớ ngay và các em cũng dễ thực hành ngay được. Nhưng ngay chính những kiến thức này, các em dễ bộc lộ những chỗ hổng kiến thức. Với học sinh trung bình thì chỉ ít ngày sau khi học, các kiến thức trên đã lẫn lộn, không nhớ hoặc nhớ không chính xác các kiến thức đó nữa. Cụ thể: Khi dạy bài "Hình vuông, hình tròn, hình tam giác" các em không hiểu được cạnh của các hình là một đoạn thẳng hay các em không hiểu được các đỉnh của các hình là một điểm. Ở các em sự nhận thức chủ yếu bằng trực giác. Ví dụ 1: Khi làm bài tập về đoạn thẳng, các em còn chưa xác định chắc chắn đoạn thẳng được nối bởi hai điểm. Giáo viên hỏi: Hình vẽ dưới đây có bao nhiêu đoạn thẳng? O H K G L Đa số học sinh có đáp án (4 đoạn thẳng). Các em không nhận ra được HO và KO cũng là đoạn thẳng. Ví dụ 2: Tô màu các hình vuông dưới đây: a b c Đa số các em chỉ tô màu hình a ; b mà không tô màu hình c. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh thấy được hình c cũng là hình vuông, hình này chỉ khác hình a ; b là vị trí của hình nằm nghiêng. 4.2. Điều tra tình hình lớp đầu năm học: Ngày từ đầu năm học, khi nhận lớp 1A, tôi đã tiến hành điều tra tình hình lớp, đồng thời khảo sát việc nắm các biểu tượng hình học cơ bản mà các em đã 6/21 được làm quen ở lớp mẫu giáo. Qua đó, tôi nhận thấy lớp mình dạy còn tồn tại một số khó khăn như: Một số em hiếu động, mải chơi, thiếu sự quan tâm của gia đình nên cô giáo khá vất cả trong việc tạo ra hứng thú và lôi cuốn các em vào việc học toán; việc nắm các biểu tượng hình học cơ bản ở lớp mẫu giáo còn nhiều hạn chế. Cụ thể: Khảo sát đầu năm Số lượng Tỷ lệ Số HS nắm chắc các biểu tượng hình học cơ bản 08 16% Số HS mơ hồ các biểu tượng hình học cơ bản 35 70% Số HS chưa nắm được các biểu tượng hình học cơ bản 07 14% 4.3. Về phía giáo viên: Thực tế cho thấy giáo viên tuân thủ theo nội dung, phương pháp của sách giáo viên hiện hành, ít có sự suy nghĩ cải tiến. Mặt khác các bài tập có liên quan đến các yếu tố hình học thường được sắp xếp vào cuối bài và xuất hiện rải rác nên giáo viên thường coi đó là bài tập khó dành cho học sinh khá giỏi. Những nguyên nhân trên tác động tổng hợp làm cho học sinh thiếu tự tin, không cố gắng vươn lên, kết quả học tập không ổn định. Biết được các nguyên nhân đó trước thực trạng đặt ra đòi hỏi người giáo viên phải tự xem xét qúa trình giảng dạy của mình cũng như thường xuyên theo dõi học sinh. Đây là việc làm vô cùng khó khăn, khó khăn hơn nữa là việc tìm hiểu xem nên áp dụng biện pháp sao cho phù hợp nhất (do đó cần áp dụng hài hoà các phương pháp giảng dạy và giáo dục). 5. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1: 5.1. Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh hình thành các biểu tượng hình học Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 1, tôi nhận thấy việc hình thành các biểu tượng hình học là việc làm quan trọng, quyết định sự thành công trong việc dạy các yếu tố hình học. Nếu giáo viên giúp học sinh hình thành tốt các biểu tượng hình học sẽ giúp các em vận dụng tốt vào việc giải các bài tập có liên quan đến các yếu tốt hình học. Muốn làm được điều đó người giáo viên cần nắm vững mức độ cần đạt của việc hình thành biểu tượng hình học để định hướng đúng phương pháp giảng dạy, không làm quá tải các kiến thức cần truyền đạt. Mặt khác, con đường hình thành kiến thức cho học sinh lớp 1 tuân theo sơ đồ: Thao tác trên đồ vật  Mô hình sơ đồ  Kí hiệu (hoặc khái quát khái niệm, 7/21 kiến thức) toán học. Do đó việc hình thành các biểu tượng hình học, tôi thường tuân theo quy trình sau: - Đặt vật mẫu hoặc nêu hình ảnh cụ thể trên màn hình. - Giúp học sinh tự phát hiện, hình thành biểu tượng. - Khắc sâu biểu tượng. Ví dụ: Dạy bài Hình vuông – Hình trong (hình tam giác) Hình vuông, hình trong, hình tam giác được giới thiệu như một “toàn thể” gắn liền với hình dạng của chúng (không yêu cầu phân tích các yếu tốt đặc điểm của hình). Cụ thể với bài “Hình tam giác”: - Mực tiêu của bài này là giúp học sinh: + Nhận ra và nêu đúng tên hình tam giác. + Bước đầu nhận ra hình tam giác từ các vật thật. - Tôi hình thành biểu tượng hình tam giác như sau: + Tôi đưa tấm bìa hình tam giác và giới thiệu tên hình: “Đây là hình tam giác” nhằm giúp học sinh nhận ra một “vật mẫu”. Sau đó tôi dịch chuyển mẫu vật đến những vị trí khác nhau hoặc đưa ra một số hình tam giác khác, cho học sinh quan sát và trả lời: “Đó cũng là những hình tam giác”. + Cho học sinh chọn trong hộp đồ dùng học toán một số hình tam giác. Gọi một số giơ hình tam giác lên và nói “hình tam giác”. Sau đó tìm trong thực tế những đồ vật có dạng hình tam giác như lá cờ đuôi nheo, biển báo giao thông... Học sinh quan sát và thao tác trên các mẫu vật đồng thời tiếp nhận thông tin của giáo viên, từ đó có biểu tượng cụ thể về “hình tam giác”. Tôi vẽ hình tam giác trên bảng và nói “Đây là hình tam giác” trên cơ sở đó học sinh sẽ tri giác trên những mô hình hình học. Giáo viên cần chú ý xếp đặt các hình cạnh nhau (vd: hình vuông đặt cạnh hình tròn) để học sinh tập so sánh, đối chiều các hình. 5.2. Biện pháp 2: Vận dụng tốt các phương pháp dạy học toán Để giúp học sinh nắm vững, khắc sâu các biểu tượng hình học cơ bản và làm được tất cả các bài tập trong sách giáo khoa, tôi đã vận dụng một số phương pháp sau vào các tiết dạy có chứa các yếu tố hình học: * Phương pháp trực quan; Đối với học sinh lớp , việc nhận thức của các em còn mang tính cụ thể, luôn gắn liền với các hình ảnh và biểu tượng cụ thể nên việc sử dụng phương pháp trực quan là rất cần thiết. 8/21 Nhờ phương pháp này, các biểu tượng hình học sẽ được hình thành qua những hình ảnh cụ thể và dễ dàng khắc sâu vào tâm trí các em. Từ đó các em được bổ sung thêm vốn hiểu biết thực tế cũng như phát triển được năng lực tư duy trừu tượng và trí tưởng tượng phong phú. Khi sử dụng phương pháp trực quan tôi luôn chú ý các yêu cầu sau đây; - Chuẩn bị chu đáo các phương triện và đồ dùng trực quan phù hợp với từng giai đoạn học tập của học sinh. - Xác định rõ ràng mục đích cũng như cách thức và tiến trình sử dụng, trình diễn các phương tiện, đồ dùng trực quan. - Xây dựng hệ thống câu hỏi và hoạt động làm mẫu nhằm giúp học sinh thực hiện các hoạt động thực hành trên các phương tiện đồ dùng trực quan. Dự kiến những khó khăn sai lầm mà học sinh có thể mắc phải. - Bố trí, sắp đặt vị trí các phương tiện đồ dùng trực quan một cách hợp lí để thuận tiện trong sử dụng. Với bất kì đồ dùng dạy học nào, tôi cũng cố gắng làm thật chuẩn, kích thước và màu sác có thể khác nhau những không quá cầu kì để làm nổi bật các dấu hiệu bản chất của khái niệm. Điều quan trọng nhất là tôi luôn động viên, hướng dẫn các em tự sử dụng bộ đồ dùng học Toán của mình để tự phát hiện, tìm tòi biểu tượng hình học của bài. Ví dụ: Dạy bài Hình vuông – Hình tròn, tôi sử dụng phương pháp trực quan vào việc hình thành biểu tượng hình vuông như sau: - Gắn các tấm bìa hình vuông có màu sắc và có kích thước khác nhau lên bảng rồi yêu cầu học sinh quan sát. - Giới thiệu tên gọi “Đậy là hình vuông” và yêu cầu học sinh nhắc lại tên gọi đó. - Xoay hình vuông ở các vị trí khác nhau cho học sinh nhắc tên hình vuông. - Yêu cầu các em lấy đúng hình vuông trong bộ học Toán và giơ lên. Nếu em nào lấy sai, tôi sẽ cho các em khác phát hiện và nhận xét nhưng hình mẫu có màu sắc, kích thước khác nhau nhằm khắc sâu biểu tượng hình học vừa học. - Cho học sinh tìm trong thực tế các đồ vật có dạng hình vuông. * Phương pháp thực hành, luyện tập: Phương pháp này tôi thường sử dụng khi cho học sinh lựa chọn đúng các hình theo yêu cầu, thực hành vẽ lại các hình đã học, chọn và tô màu hình theo yêu cầu hoặc làm thêm bài tập nâng cao. Khi đó, tôi thường cho học sinh làm việc cá nhân hoặc thực hành theo tổ, nhóm. 9/21 Với những bài toán đến số đoạn thẳng, số hình tam giác, số hình vuông có hình tạo bởi nhiều hình thì trước hết tôi yêu cầu các em phải phân biệt và nhận biết chính xác từng hình rồi mới đếm. Nếu hình vẽ có hình tạo bởi một số hình khác thì tôi có thể cho học sinh đánh số các hình rời rạc sau đó mới nhận biết các hình ghép bằng cách vẽ riêng ra hoặc cắt ghép hình bằng giấy. Ví dụ: Bài 5-trang 42-Toán 1. Hình vẽ bên có mấy hình tam giác ? - Hướng dẫn: Giáo viên vẽ hình lên bảng  Cho học sinh đánh số vào các hình giác đơn lẻ: 1, 2. - Dùng phấn mầu tô vào tam giác 1 và 2  Từ đó ta có tam giác thứ 3. Vậy hình trên có 3 hình tam giác (giáo viên có thể mô tả bằng cách cắt giấy, ghép hình cho học sinh quan sát rõ hơn). 1 2 Với các bài sắp xếp hình theo mẫu, tôi luôn nhắc các em tìm ra quy luật rồi mới xếp. Việc rèn luyện thường xuyên như vậy đã giúp các em được củng cố và khắc sâu thêm từng biểu tượng hình học và không bị nhầm lẫn giữa các biểu tượng đã học. Để học sinh được thực hành, vận dụng kiến thức phù hợp với đối tượng học sinh khá giỏi, ngoài các bài tập trong sách giáo khoa, tôi còn đưa thêm các tiết hướng dẫn học một số bài tập như sau: - Tô màu hình tam giác: - Tô màu hình vuông: 10/21 - Dùng thước thẳng và nối để được 6 đoạn thẳng: a, M b, A B N P Q D C - Hình vẽ bên: + Có .... đoạn thẳng. + Có .... hình tam giác. + Có .... hình vuông. Việc thêm một số bài tập có yếu tố hình học trong các tiết hướng dẫn học như vậy giúp các em củng cố khắc sâu biểu tượng hình học, rèn luyện trí tượng hình học không gian. * Phương pháp gợi mở, vấn đáp: Sử dụng phương pháp này tôi đưa một số câu hỏi để hướng dẫn cho học sinh suy nghĩ và lần lượt trả lời từng câu hỏi. Qua đó tạo cho học sinh tính tích cực, chủ động độc lập suy nghĩ giúp cho không khí lớp học thêm sôi nổi, sinh động. Khi sử dụng phương pháp này, tôi chú ý động viên các em nhận xét đúng, sai cho bạn, sau đó mới tổng kết lại. Đặc biệt, tôi còn khuyến khích các em tự đặt câu hỏi để các bạn khác trả lời. Ví dụ: - Nối 3 điểm khác nhau, bạn được hình gì? - Muốn xếp được hình tam giác, bạn cần mấy que tính ? - Đố bạn, khăm mùi xoa này hình gì ? ... Trong mỗi tiết dạy có chứa các yếu tố hình học, tôi đều cố gắng kết hợp khéo léo cả ba phương pháp trên để tiết dạy đạt kết quả cao nhất. Tuy nhiên, phương pháp trực quan vẫn được tôi áp dụng nhiều nhất. Trong giai đoạn hình thành biểu tượng cho học sinh, ngoài việc đồ dùng trực quan một cách hợp lí, tôi còn chú ý nâng cao kiến thức bằng cách gợi ý để học sinh tìm ra nhiều ví dụ minh họa trong thực tế cuộc sống hàng ngày như: Điểm (đầu đinh, đầu mũi kim...), đoạn thẳng 11/21 (một sợi chỉ, một sợi dây chun (căng giữa hai đầu đinh)), hình tròn (miệng giếng, nắp lọ mực, bánh xe đạp...), hình vuông (viên gạch lát nền, khăn mùi xoa...). 5.3. Biện pháp 3: Tổ chức dạy học theo nhóm Dạy học theo nhóm là hình thức giảng dạy học sinh vào môi trường học tập tích cực, trong đó học sinh được khuyến khích thảo luận và hướng dẫn làm việc hợp tác với nhau. - Tác dụng của dạy học hợp tác theo nhóm trong môn Toán: + Góp phần tạo ý thức tự chủ, độc lập cho học sinh. + Tạo cơ hội để học lắng nghe ý kiến của người khác, tập thể hiện ý kiến của bản thân. + Tạo cơ hội để học sinh nâng cao năng lực hợp tác, biết đánh giá ý kiến của bạn, xác định trách nhiệm của cá nhân trong tập thể. - Muốn hoạt động nhóm đạt kết quả tốt cần đảm bảo các yêu cầu sau: + Mỗi thành viên trong nhóm đều biết và hiểu công việc của nhóm, của bản thân (làm bài tập, đo, vẽ, gấp...), không ỷ lại vào thành viên khác trong nhóm. + Mọi thành viên đều lắng nghe ý kiến của nhau, thoải mái khi phân tích và nói ra những điều mình suy nghĩ. + Vai trò của từng thành viên trong nhóm được thực hiện luân phiên. + Tránh lạm dụng chia nhóm một cách tự nhiên không cần thiết, không mất thời gian. Chính vì thế giáo viên cân có sự chuẩn bị kĩ càng trước khi lên lớp từ cách tổ chức, gio việc để tránh gây lộn xộn hoặc học sinh không nắm bắt được yêu cầu kiến thức của tiết học. Muốn vậy giáo viên cần chú ý: - Mệnh lệnh đưa ra rõ ràng, ngắn gọn (chia nhóm nhỏ, lớn). - Giao việc cụ thể cho từng nhóm. - Phân công nhiệm vụ cho các em. Ví dụ: Dạy bài Luyện tập chung (Tiết 23-Tuần 6) Với bài 5: Xếp các hình theo mẫu: Tôi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm đôi để tìm ra quy luật sắp xếp: Cứ xếp hai hình vuông lại xếp 1 hình tròn theo hàng ngang. Sau đó học sinh xếp theo mẫu. 12/21 Như vậy với việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm trong dạy học các yếu tố hình học, học sinh được trao đổi, bày tỏ ý kiến, hợp tác với bạn bè để tìm ra cách kẻ, vẽ, xếp hình... để giải quyết một bài tập. Không những thế học sinh còn biết nhiều cách kẻ, vẽ, xếp hình... với cùng một bài tập. Từ có phát huy được trí tưởng tượng hình học không gian, phát triển được ngôn ngữ toán học. 5.4. Biện pháp 4: Tăng cường sử dụng các trò chơi học tập Một trong các yêu cầu dạy toán ở lớp 1 là phải “hấp dẫn’ được trẻ, tạo hứng thú học tập cho trẻ, phải phù hợp lứa tuổi của trẻ mới qua “mẫu giáo” bước vào “phổ thông”. Đối với lớp 1, chơi cũng là một nhu cầu không thể thiếu được. Vì vậy việc sử dụng các trò chơi học tập trong giờ học toán là hết sức cần thiết và có ích. * Trò chơi học toán có tác dụng giúp học sinh: - Thay đổi hình thức hoạt động trên lớp, làm không khí lớp học thoải mái, dễ chịu, học sinh tiếp thu kiến thức tích cực hơn. - Tăng cường khả năng thực hành, vận dụng các kiến thức đã học. - Phát triển hứng thú, tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy luận. - Trò chơi chứa đựng các yếu tố hình học trò chơi còn giúp cho học sinh phát huy tính tích cực, phát triển trí tưởng tượng. Chính vì vậy trong các tiết học có liên quan đến các yếu tố hình học hoặc các tiết hoạt động tập thể, tôi thường đưa ra các trò chơi có chứa đựng các yếu tố hình học. * Khi tổ chức trò chơi giáo viên cần lưu ý: - Công tác chuẩn bị phải chu đáo. Dụng cụ của trò chơi phải đơn giản, dễ làm, đẹp mắt. - Tổ chức cách chơi cần đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, thu hút được nhiều học sinh tham gia. - Luôn quan tâm, khích lệ, động viên, khuyến khích tinh thần “thi đua” của học sinh tham gia, nhưng phải tránh làm lúng túng những học sinh không hoàn thành nhiệm vụ. * Cách tổ chức trò chơi: - Giới thiệu và nêu cách chơi. - Tiến hành chơi. - Đánh giá kết quả chơi. 13/21 Ví dụ: Trò chơi Ghép hình (dạy cuối bài Luyện tập – Trang 9) * Mục đích: Rèn luyện trí tưởng tượng, linh hoạt, sáng tạo cho học sinh. * Chuẩn bị: - Mỗi học sinh chuẩn bị 1 hình vuông, 2 hình tam giác (trong bộ đồ dùng học Toán) như sau: - Giáo viên vẽ sẵn các hình sau trên bảng: * Cách chơi: - Chơi theo nhóm, mỗi nhóm 6 học sinh. - Mỗi nhóm sẽ dùng các hình vuông và hình tam giác để ghép thành 6 hình mà giáo viên đã vẽ mẫu ở trên (mỗi hình đều được ghép bởi 2 hình tam giác và 1 hình vuông). Nhóm nào làm xong trước sẽ thắng cuộc. 6. Kết quả: Với việc áp dụng thường xuyên các biện pháp trên, việc học các yếu tốt hình học của học sinh lớp tôi đã đạt được một số tiến bộ, tiết học đạt hiệu quả hơn thể hiện qua một số điểm sau: - Học sinh chăm chú say mê học Toán, các em không ngại khi giải các bài toán có chứa các yếu tố hình học. Học sinh tích cực, chủ động tìm tòi, sáng tạo xây dựng kiến thức của bài học. - Trong mỗi tiết học, giáo viên và học sinh dễ phối hợp làm việc nhịp nhàng, tạo ra không khí học tập sôi nổi, hào hứng, thu hút được cả những em còn mải chơi, lười suy nghĩ. - Các bài tập đến, nhận dạng hình, xếp hình... đa dạng, phong phú trong suốt chương trình học Toán đã giúp các em luôn được củng cổ và khắc sâu các biểu tượng hình học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học các khái niệm mới ở lớp trên. 14/21 Kết quả cụ thể như sau: Đầu năm SL TL 08 16% 35 70% 07 14% Các đợt khảo sát Số HS nắm chắc các biểu tượng hình học cơ bản Số HS mơ hồ các biểu tượng hình học cơ bản Số HS chưa nắm được các biểu tượng hình học cơ bản Cuối HK I SL TL 45 90% 05 10% 0 0 7. Giáo án minh họa: ĐỘ DÀI ĐOẠN THẲNG I. Mục tiêu: - Giúp học sinh có biểu tượng về "Dài hơn - ngắn hơn" từ đó có biểu tượng về độ dài đoạn thẳng thông qua đặc tính dài ngắn của chúng. - Học sinh biết so sánh độ dài hai đoạn thẳng tuỳ ý bằng hai cách : So sánh trực tiếp hoặc so sánh gián tiếp qua độ dài trung gian. - Học sinh có ý thức tham gia tích cực các hoạt động học tập. II. Đồ dùng: - Giáo viên: 2 băng giấy xanh - đỏ dài ngắn khác nhau, 2 bút chì. - Học sinh: Bút màu xanh - đỏ ( để chơi trò chơi), VBT. III. Các hoạt động dạy – học: Hoạt động Hoạt động TL Nội dung của giáo viên của học sinh ' 5 A. Kiểm tra bài cũ: - Giáo viên vẽ 4 điểm lên bảng - Gọi hai học sinh lên bảng vẽ - 2HS vẽ hai đoạn thẳng lên bảng (AB,CD) A C 1' B, Bài mới. * HĐ1: Giới thiệu bài: 12' * HĐ2: Nội dung B D - Lớp nhận xét, giáo viên nhận xét chung đánh giá. Để biết cách so sánh dộ dài hai đoạn thẳng. Hôm nay các em học bài: Độ dài đoạn thẳng. 15/21 - HS lắng nghe a) Dạy biểu tượng Giáo viên dán 2 băng giấy "Dài hơn - ngắn hơn" xanh - đỏ lên bảng ( như hình và so sánh độ dài qua vẽ). hai đoạn thẳng. Hỏi: Làm thế nào để biết băng giấy nào dài, băng giấy nào ngắn? - Giáo viên gợi ý học sinh để hai đầu bằng nhau... - Gọi học sinh nêu kết quả so sánh: Băng giấy mầu xanh ngắn hơn băng giấy mầu đỏ và ngược lại. b) So sánh độ dài bằng cách đo dán tiếp qua độ dài trung gian ( Gang tay ). - Học sinh so sánh. - HS thực hành so sánh 2 đoạn thẳng AB và CD trong sách. - 2 HS lên bảng so sánh 2 que tính (bút chì) khác màu nhau. - HS quan sát - Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát cách đo trong sách giáo khoa. Giáo viên : Người ta có thể so sánh độ dài đoạn thẳng với độ - HS trả lời : 3 gang dài gang tay. tay Hỏi: Đoạn thẳng đã cho dài - HS quan sát hình cón mấy gang tay? lại trong sách , tự rút ra kết luận: Đoạn trên dài 1 ô li, đoạn dưới dài 3 ô li (Đoạn trên ngắn hơn đoạn dưới Ngược lại)  Giáo viên chốt: Có thể so sánh độ dài 2 đoạn thẳng bằng cách tính số khoảng (hay ô li) 16/21 * Trò chơi giữa giờ: * HĐ3: Thực hành. Bài 1. Bài 2. Bài 3. Bài 4. c) Củng cố - dặn dò. có trong mỗi đoạn. - Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Phổ biến luật chơi: Có 2 đội mỗi đội 2 em. Có 2 bút xanh và 2 bút đỏ - Tô màu xanh vào hai băng giấy, băng giấy ngắn tô màu đỏ, băng giấy dài tô màu xanh. Từng em tô một. - Giáo viên nhận xét tuyên dương đội thắng. - Giáo viên làm mẫu phần a. - HS tiến hành chơi: Gv treo 2 bảng dán sẵn băng giấy. Dứt hiệu lệnh 2 bên lên tô. - Đội nào tô nhanh ngắn, gọn sẽ thắng. - HS lắng nghe - Học sinh tự làm vào vở. - Các cặp đổi vở kiểm tra, báo cáo. - Giáo viên chữa bài - Nhận xét chung kết quả, kích lệ một số em làm tốt. - Giáo viên treo bảng phụ vẽ sẵn hình (như sách) - Gọi 3 em lên bảng - lớp làm VBT. - 3 HS lên bảng Gv kết luận chung. - Thực hện như bài tập 2 xong - Hs nêu nhận xét. 2 em lên tô màu xem em nào đúng và nhanh hơn. - Giáo viên động viên, tuyên dương. - Giáo viên kiểm tra trong lớp ai đúng , ai sai - Học sinh làm vào vở. Hỏi: Có mấy cách để biết - Đổi vở kiểm tra, đoạn thẳng nào dài, đoạn chữa bài. thẳng nào ngắn? - Dặn học sinh về nhà tập so sánh độ dài các cạnh của quyển sách, vở, bàn.. 17/21 ĐỀ KIỂM TRA (PHIẾU) Yêu cầu: Học sinh làm loại toán các yếu tố hình học Bài 1: Đúng ghi (đ), sai ghi (s) vào ô trống: 1 2 3 4 1- Đoạn 1 ngắn nhất 2- Đoạn 4 dài hơn đoạn 1 3- Đoạn 4 ngằn hơn đoạn 3 4- Đoạn 3 dài hơn đoạn 2 5- Đoạn 3 dài bằng đoạn 2 6- Đoạn 4 dài nhất Bài 2: Dùng bút và thước để nối: 1) Thành đoạn thẳng A B C D 2) Có đoạn thẳng C O B A D 18/21 Bài 3: A B C D Đoạn thẳng AB dài cm. Đoạn thẳng CD dài cm. Cả hai đoạn thẳng AB và CD dài cm. Đoạn thẳng AB dài hơn đoạn thẳng CD cm. ĐÁP ÁN BIỂU ĐIỂM Bài 1: 3 điểm (Mỗi ý đúng 0,5 điểm) Đúng: 1, 2, 5, 6 Sai: 3, 4 Bài 2: 3 điểm (Mỗi ý đúng 0,5 điểm) 1- Có 6 đoạn thẳng (thiếu 1 đoạn thẳng trừ 0,25 điểm) 2 - Có 6 đoạn thẳng (thiếu 1 đoạn thẳng trừ 0,25 điểm) A B C O B A D D C Bài 3: 4 điểm (Mỗi ý đúng 1 điểm) - Đoạn thẳng AB dài 4 cm. - Đoạn thẳng CD dài 2 cm. - Cả 2 đoạn thẳng AB và CD dài 6 cm. - Đoạn thẳng AB dài hơn đoạn thẳng CD 2 cm. 19/21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng