Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Mẫu giáo bé Skkn một số biện pháp giúp trẻ 3 4 phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể ch...

Tài liệu Skkn một số biện pháp giúp trẻ 3 4 phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo

.DOCX
23
47
70

Mô tả:

I. PHẦN THỨ NHẤT ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Đối với trẻ mầm non, sự phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động bắt chước lời nói, việc làm của các nhân vật hoặc những cách diễn đạt trong tác phẩm là rất hữu ích. Chính quá trình trẻ được nghe qua lối diễn cảm, được trực tiếp tham gia vào hoạt động đọc, kể lại truyện, thơ từ cô giáo, cha mẹ, bạn bè sẽ giúp trẻ tích lũy và phát triển thêm nhiều từ mới. Điều này giúp trẻ có thể dễ dàng hơn trong việc rèn luyện khả năng biểu cảm trong ngôn ngữ nói, ngôn ngữ miêu tả, ngôn ngữ đối thoại. Đặc biệt thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo sẽ giúp trẻ phát triển tính tư duy, óc tưởng tượng và đặc biệt là đi sâu về khả năng nói cho trẻ, với sự phát triển của trẻ em nói chung và trẻ mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vị thế hết sức quan trọng. Nó là một trong những cơ sở, tiền đề để cho trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần. Ngôn ngữ giúp cho sự phát triển tư duy của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện giúp cho chúng ta và nhất là trẻ em giao tiếp với mọi người và giúp trẻ dễ dàng hoà đồng vào cuộc sống một điều cần thiết khi giao tiếp. Đồng thời, thông qua giao tiếp giúp trẻ phát triển trí tuệ để nhận biết thế giới xung quanh và phát triển tình cảm của trẻ Là 1 giáo viên, nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ với các em, tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ và hiểu biết của mình với trẻ nhằm đưa ra một số biệt pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo. Nếu là các bậc phụ huynh, thầy cô, tôi mong muốn qua bài sáng kiến kinh nghiệm này, chúng ta hãy để trẻ tham gia vào các lớp học có các hoạt động kể chuyện phong phú và để trẻ trải nghiệm nhiều hình thức khác nhau trong cuộc sống của chúng ta. Sẽ thật may mắn nếu chúng ta được sống trong một môi trường, mà chúng ta với vai trò là cha mẹ, thầy cô, có rất nhiều chọn lựa và cơ hội để cho trẻ thấy thế giới văn học, đặc biệt là kể chuyện sáng tạo tuyệt vời đến thế nào trong việc mở mang trí tuệ, tâm hồn và hoàn thiện cuộc sống của chúng ta. Với mục đích mong muốn hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo bằng nhiều phương pháp hình thức mới mẻ, độc đáo, mới lạ cũng như mong muốn trẻ phát triển tốt hơn và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ, khẳng định vị thế của trường mầm non trong sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo”. 2. Mục đích nghiên cứu Tôi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo” nhằm mục đích nghiên cứu tìm kiếm biện pháp để phát huy tính tích cực cho trẻ 3- 4 tuổi, tạo tiền đề phát triển ngôn ngữ, từ đó giúp trẻ kích thích sự sáng tạo, tự tin, kiên trì, có khả năng tập trung sáng tạo, tìm tòi phát triển nhận thức, năng khiếu và nhân cách của trẻ. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: Đối tượng khảo sát thực nghiệm: Trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 phát triển ngôn ngữ 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp trực quan thính giác (trực quan truyền cảm), gợi lên những tâm trạng, cảm xúc, tình cảm đa dạng, gần gũi trẻ. - Phương pháp dùng lời: Lời nói cụ thể và có hình ảnh của cô là một trong những phương tiện nhận thức đặc biệt gần gũi, dể hiểu. - Phương pháp thực hành nghệ thuật: Trẻ trực tiếp thực hành, trải nghiệm, hoạt động sáng tạo dưới sự hướng dẫn của cô và thông qua tư duy của trẻ. 5. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu Thời gian nghiên cứu đề tài trong 1 năm học, bắt đầu từ 9/2018 và kết thúc vào tháng 4/2019. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu cơ sở lí luận về vấn đề. - Khảo sát đánh giá thực trạng của vấn dề. - Đề xuất những biện pháp (giải pháp), ứng dụng cải tạo hiện thực liên quan. II. PHẦN THỨ HAI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo là thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của ngành học Mầm non đó là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ – giáo dục nghệ thuật. Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của ngành giáo dục mầm non đã triển khai thì giáo viên là người tổ chức cho trẻ hoạt động, nắm bắt và lĩnh hội các tri thức, kĩ năng về sự vật hiện tượng xung quanh thông qua hoạt động dạy và học dưới hình thức như làm quen với tác phẩm văn học, hoạt động tạo hình, hoạt động phát triển thể chất, khám phá… sẽ giúp trẻ phát triển trí tuệ, óc sáng tạo, nhân cách con người, kể chuyện sáng tạo là một hình thức để trẻ tham gia hoạt động văn học và đó là một hoạt động không thể thiếu được đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non, vì thông qua hoạt động văn học trẻ có thể nhân ra rằng đây là loại hình nghệ thuật đặc sắc không thể thiếu được trong đời sống con người, rèn cho trẻ tính tập trung, thái độ nghiêm túc khi tham gia vào các hoạt động cũng như thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ của giáo viên đề ra và hình thành cho trẻ trở thành 1 con người năng động, tự tin giao tiếp trong mọi tình huống và lĩnh hội kiến thức trong các lĩnh vực. Đây là yêu cầu rất quan trọng đòi hỏi người giáo viên phải nhận thức được và xác định vai trò, trách nhiệm của mình trong tổ chức các phương pháp, hình thức hoạt động chung cho trẻ ở trường mầm non để không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, đưa ra các hình thức, phương pháp tổ chức cho trẻ lĩnh hội kiến thức mang phong cách, cá tính của riêng trẻ một cách nhẹ nhàng mà đạt kết quả cao.Phát triển ngôn ngữ góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ ở trường Mầm non Trẻ ở độ tuổi trẻ mầm non chủ yếu sử dụng ngôn ngữ nói để giao tiếp và tìm hiểu về thế giới xung quanh và là thời kỳ “vàng “ đê tích luỹ vốn từ của trẻ. Để trẻ không bị mắc các tật về ngôn ngữ sau này, thời kỳ này các giáo viên cần hết sức chú ý đến rèn luyện phát âm và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. II. Cơ sở thực tiễn Ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin, người lớn vô tinh biến các thiên thần nhỏ của mình trở thành những cỗ máy, việc các con tiếp xúc sớm với các sản phẩm công nghệ như những chiếc điện thoại thông minh hay việc các con ngồi hàng giờ chơi game trên máy tính hay gián mắt vào chiếc Tivi hiện không còn xa lạ. Sau những giờ học trên lớp điều các con cần là một bầu không gian thoáng đãng để có thể thoải mái nô đùa, chạy nhảy, hoà mình vào cùng thiên nhiên trong lành, đó sẽ là khoảng thời gian tuyệt vời để các con có thể rèn luyện nâng cao sức khoẻ. Đồng thời, việc giúp các con tiếp xúc với những bộ môn nghệ thuật sớm sẽ tạo cơ hội cho các con kết bạn để trở nên mạnh dạn, tự tin hơn và khám phá những cảm xúc mới lạ của bản thân, nâng cao những kỹ năng sống cần thiết. Nếu trẻ được tạo nhiều cơ hội tham gia giao tiếp, trải nghiệm khám phá, thì như vậy trẻ đã có thể được phát triển tư duy sáng tạo, giúp trẻ có nhiều cơ hội phát triển ngôn ngữ, tình cảm xã hội, phát triển thẩm mỹ, thể chất, phát triển nhận thức. Trong thực tế việc dạy trẻ Mầm non phát triển ngôn ngữ chỉ mang tích chất đáp ứng đủ chương trình mà chưa chú ý đến tính sáng tạo như hoạt động kể chuyện sáng tạo hay đơn giản là việc hình thành cảm thụ văn học cho trẻ, chưa chú ý đến vẻ đẹp nội dung cũng như hình thức của các tác phẩm văn học trong quá trình dạy, giáo viên còn thiếu sự nhạy cảm và linh hoạt trong việc sử dụng biện pháp thủ thuật khi dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Bên cạnh đó còn nguyên nhân khách quan là giáo viên mới thực hiện chương trình Giáo dục Mầm non còn hạn chế về hình thức tổ chức, cách lựa chọn nội dung theo chủ đề, theo hướng mở nên phần nào ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với văn học trong nhà trường. Thực tiễn của toàn ngành giáo dục nói chung và Quận Hoàng Mai nói riêng thì việc đi sâu lấy trẻ làm trung tâm luôn được đề cao, tạo điều kiện cho mỗi đứa trẻ được hoạt động tích cực phù hợp với sự phát triển của bản thân trẻ, đáp ứng tối đa nhu cầu và hứng thú của trẻ trong quá trình giáo dục. Để nâng cao chất lượng giáo dục và đạt được kết quả như mong đợi thì theo chương trình giáo dục mầm non được Bộ GD&ĐT ban hành vai trò của người giáo viên được khẳng định là vô cùng quan trọng trong phong trào đổi mới về phương pháp dạy học, đó là làm gì để phá vỡ sự thụ động của người học, phá vỡ kiểu dạy truyền thống của giáo viên. Nhận thức tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo lớp công dân tí hon đáp ứng với yêu cầu và xu thế hội nhập của toàn ngành giáo dục hiện nay. Thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp giảng dạy trong toàn ngành Giáo dục nói chung và bậc học mầm non nói riêng. Tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ và hiểu biết của mình về “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo”. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi luôn trăn trở để tìm ra hướng đi, giải pháp phù hợp với đặc điểm của trẻ tại lớp. Để việc đổi mới không chỉ là phong trào, không chỉ được nhìn thấy trên bề nổi mà còn được nhân rộng ở các nhà trường, ở từng lớp học a. Thuận lợi: * Về cơ sở vật chất: - Môi trường sư phạm sáng- xanh - sạch - đẹp - an toàn. - Sân trường tạo khung cảnh thiên nhiên sinh thái, cây bóng mát, cây ăn quả, sân cỏ nhân tạo, có khu vui chơi thể chất và đồ dùng tập thể hình cho trẻ đạt hiệu quả. - Môi trường nhóm, lớp sắp xếp trang trí thẩm mỹ, màu sắc trang nhã. - Đồ dùng đồ chơi mới lạ, có độ bền cao, sắp xếp quy mô, khoa học và hợp lý. - Nhà trường đầu tư Tài liệu hướng dẫn đảm bảo, theo chương trình Giáo dục Mầm non. Giáo viên được học tập bồi dưỡng thường xuyên về các chuyên đề cho trẻ làm quen với chuyên đề văn học và các chuyên đề khác * Về phía giáo viên: - Giáo viên tại lớp tôi công tác là 3 giáo viên đã đạt trình độ Đại học. Có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, yêu nghề, mến trẻ có tố chất tốt, tích cực tham giá các hoạt động, luôn luôn sáng tạo - Giáo viên nắm vững phương pháp trong các lĩnh vực. Biết thiết kế và xây dựng môi trường lớp phù hợp với độ tuổi - 100% giáo viên soạn bài bằng máy tính, nhiều giáo viên biết soạn giáo án điện tử, biết sử dụng công nghệ thông tin vào tổ chức hoạt động cho trẻ. - Giáo viên tại lớp có khả năng tạo hình và có ý thức cao trong việc sưu tầm các nguyên vật liệu mang tính mở - Giáo viên có ý thức nghiên cứu đầu tư thời gian, công sức trong việc tạo đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu khác nhau - Qua các năm thực hiện chuyên đề cho trẻ làm quen TPVH- LQCV, giáo viên đã thực sự có nhiều đầu tư vào việc nâng cao các phương pháp, hình thức cho trẻ LQTPVH đã chú trọng nhiều đến việc đọc, kể diễn cảm và dạy trẻ kể lại chuyện, kể sáng tạo dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú * Về phía trẻ: - Học sinh của lớp nhanh nhẹn, có sức khoẻ tốt để tham gia vào các hoạt động của lứa tuổi. - 100% trẻ ăn bán trú tại trường, số cháu được phân chia theo đúng độ tuổi, tạo thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động đồng đều theo quá trình phát triển tâm lí của trẻ. * Về phía phụ huynh: Đa số phụ huynh của lớp nhiệt tình, quan tâm chu đáo tới con em và thường xuyên trao đổi với giáo viên về tình hình học tập của con em mình. Đa số họ còn là những người có nhận thức cao trong việc giáo dục con cái nên việc phối hợp giữa nhà trường và gia đình để chăm sóc giáo dục trẻ gặp nhiều thuận lợi. b. Khó khăn : * Về cơ sở vật chất: - Còn có những nguyên vật liệu cũ, sử dụng nhiều năm. - Đồ dùng, đồ chơi cần tăng thêm sự phong phú, đa dạng về chủng loại và đồ chơi phát triển trí tuệ. * Về phía giáo viên: Một số giáo viên trẻ mới ra trường chưa có kinh nghiệm trong giảng dạy thực tế, thực hiện tiết học máy móc, thiếu sự sáng tạo, không xác định rõ ràng đâu là biện pháp chính nên đã không khai thác triệt để được phương pháp đó dẫn đến chưa làm nổi bật đặc trưng của tiết học. - Tiết học trở nên khô cứng chưa khai thác các biện pháp tích hợp lồng ghép các nội dung khác vào tiết học để kích thích tư duy của trẻ. - Bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên khả năng còn cảm nhận các tác phẩm văn thơ truyện còn hạn chế giọng đọc và cách phối hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ, minh họa chưa bộc lộ cảm xúc hấp dẫn cuốn hút trẻ - Phương pháp lồng ghép tích hợp chưa linh hoạt sáng tạo kết quả trên trẻ chưa cao, trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ dùng dạy học chưa có khoa học, dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý hiệu quả trên tiết học chưa cao. - Một số giờ văn học còn thiếu các yếu tố phụ trợ như: Âm thanh, cảnh trí, trang phục, ánh sáng, hiệ ứng… làm cho hoạt động học không thu hút được sự chú ý của trẻ. - Một số giáo viên, chưa mạnh dạn tự tin, còn rụt rè, nhút nhát, chưa dám thể hiện trước đám đông, chưa biết cách tạo cơ hội cho trẻ hoạt động tích cực. Một số khác còn nói nhiều, lúng túng trong việc vận dụng chương trình giáo dục mầm non mới vào thực tế giảng dạy. - Hình thức và phương pháp tổ chức các hoạt động trong chương trình còn chưa sáng tạo, khi thực hiện còn cứng nhắc, chưa linh hoạt. * Về phía trẻ : - Tuy trẻ cùng độ tuổi nhưng khả năng hòa nhập không đều. Một số trẻ nhút nhát và không đi học đều cũng làm ảnh hưởng đến quá trình học. Một số trẻ lười vận động. một số trẻ hơi hiếu động, tập trung thấp - Khả năng chú ý có chủ định của trẻ còn kém. Trẻ dễ dàng nhập cuộc chơi nhưng cũng nhanh chóng tự rút ra khỏi trò chơi nếu nó không còn hứng thú. Hơn nữa tâm lý trẻ mẫu giáo bé còn chưa ổn định, khả năng tập trung chưa cao. ở lứa tuổi này bé đang trải qua “Thời kì khủng hoảng tuổi lên ba” tính độc lập bắt đầu xuất hiện ở trẻ, nhu cầu muốn khẳng định mình là rất lớn, trẻ muốn cái gì cũng dành về mình, do đó tính ích kỉ càng có dịp phát triển. Trẻ không chịu phối hợp các hoạt động với các bạn trong lớp. - Trẻ phần lớn chưa được tiếp xúc với đồ dùng nguyên liệu mới - Một số cháu còn nói ngọng, gia đình chưa chú ý rèn luyện - Đa phần phụ huynh còn nghĩ con em mình còn quá nhỏ, chưa thể tự làm được 1 số việc, trẻ làm còn chậm, cẩu thả và không thể làm được nên phụ huynh vô tình làm luôn hộ trẻ, trẻ không còn được làm mọi việc, tạo thói quen ỉ lại từ người lớn. III. Các biện pháp thực hiện: 3.1 Biện pháp 1: Khảo sát thực trạng tại trường mầm non Để thực hiện được “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo”, tôi đã tiến hành khảo sát thực tế ở lớp và kết quả thu được như sau: * Khảo sát chất lượng giáo viên đầu năm lớp mẫu giáo bé số 1 (Số lượng giáo viên là 3): Nội dung khảo sát Giáo viên thường xuyên nghiên Đạt Còn hạn chế Số Tỉ Số Tỉ lượng lệ(%) lượng lệ(%) 3 100% 0 0% cứu tài liệu, lập kế hoạch trong các hoạt động Giáo viên biết vận dụng linh hoạt sáng tạo đồ dùng trong việc dạy 2 67% 1 33% 3 100% 0 0% 2 67% 1 33% 2 67% 1 33% học Khả năng bao quát trẻ Giáo viên biết tạo môi trường, lồng ghép các môn học khác cho trẻ hoat động kể chuyện sáng tạo Biết thể hiện ngữ điệu giọng, cử chỉ, ánh mắt, không nói ngọng * Khảo sát chất lượng học sinh đầu năm lớp Mẫu giáo bé số 1( Số lượng 48 trẻ) Nội dung khảo sát Trẻ nói rõ ràng, mạch lạc Trẻ tự tin khi trong quá trình giao tiếp cùng cô và bạn Trẻ hứng thú, biết tập trung khi tham gia giờ học Đạt Còn hạn chế Số Tỉ Số Tỉ lượng lệ(%) lượng lệ(%) 30 62,5% 18 37,5% 24 50% 24 50% 38 79,2% 10 20,8% 20 47,6% 28 52,4% 18 37,5% 30 62,5% Trẻ co kĩ năng sử dụng nguyên vật liệu trong các góc lớp để kể chuyện Trẻ có tính tư duy, sáng tạo, có khả năng tưởng tượng * Về phía phụ huynh: Một số phụ huynh còn chưa thực sự quan tâm đến việc học hành của con em mình chỉ nghĩ đến trường là chỉ đảm bảo việc ăn, ngủ, không quan tâm đến việc học hành của con em mình. Từ những nguyên nhân trên và thực tiễn đã áp dụng ở lớp học của mình dưới góc độ là một giáo viên tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo”. 3.2. Biện pháp 2: Tạo môi trường hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo. Mục đích: Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ đạt kết quả cao thì giáo viên phải chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động, vì môi trường đóng vai trò rất quan trọng nếu cô tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt được rất cao. Môi trường có phù hợp, đa dạng, phong phú thì sẽ gây hứng thú cho trẻ. Đây cũng là nội dung của phong trào thi đua“ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” mà những năm gần đây Bộ Giáo dục, Phòng Mầm non Sở GD&ĐT đã triển khai. Cách thực hiện: 1. Môi trường hoạt động cho trẻ hoạt động trong phòng, lớp. + Trang trí, sắp xếp phòng, lớp các góc chơi đảm bảo thẩm mĩ, thân thiện, an toàn, phù hợp với nội dung giáo dục bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào góc văn học và một số góc trong và ngoài lớp học thể hiện trên các mảng tường Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong không gian to đã giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu chuyện đó. Từ đó trẻ biết vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện sáng tạo một cách dễ dàng. + Có các đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu đa dạng, phong phú, hấp dẫn trẻ, tạo môi trường ngôn ngữ để trẻ tương tác và phát triển các kỹ năng, đi sâu làm một số đồ dùng trực quan cho trẻ hoạt + Tùy vào vị trí của lớp mà giáo viên bố trí góc văn học gần nơi có nhiều ánh sáng, yên tĩnh, ít người qua lại. Ở đó có thảm, đệm, gấu bông sẽ làm cho góc này trở nên ấm cúng hơn và mời gọi hơn với trẻ .Trẻ có thể theo đuổi các hoạt động đọc viết do trẻ tự khởi xướng hoặc tự thực hiện các kỹ năng phát triển của trẻ. + Hình thành góc đọc hấp dẫn nơi mà có những cuốn sách yêu thích của trẻ luôn có sẵn. Khuyến khích trẻ mang những cuốn sách hay từ nhà đến lớp để cùng chia sẻ. Luôn làm cho lớp học tràn ngập sách. Để sách ở những nơi vừa tầm với của trẻ. Có những cuốn sách mà cả lớp có thể đọc cùng nhau, những cuốn sách mà trẻ “có thể đọc được” và những cuốn tạp chí, sách nhiều tranh ảnh. + Khuyến khích trẻ cùng cô trang trí, sắp đặt các đồ dùng trong góc theo ý thích phù hợp dễ lấy, dễ cất, dễ sử dụng. + Trong lớp học, chúng ta cũng có thể tạo môi trường chữ viết xung quanh trẻ ví dụ như: ghi tên các góc chơi, tên các đồ dùng đồ chơi, ghi tên trẻ trên các sản phẩm Qua cách nghĩ và làm như vậy tôi đã tạo ra một góc văn học với đầy đủ chủng loại về đồ dung trực quan đa dạng phong phú, đã giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động và nhiều ý tưởng hay khi trẻ kể chuyện sáng tạo. 2. Môi trường hoạt dộng cho trẻ kể chuyện sáng tạo ngoài lớp học Trong giờ hoạt động ngoài trời tôi còn tận dụng những bức tranh tường ở trong trường bằng cách gợi mở cho trẻ cùng nhau kể chuyện về những bức tranh đó hoặc có các con vật trong sân trường tôi cũng gợi mở cho trẻ thi nhau kể chuyện về các con vật đó…hình thức này đã giúp trẻ em có nhiều ý tưởng sáng tạo hay và có ý thức thi đua để đạt kết quả tốt. Nhà trường đã xây dựng thư viện của nhà trường cho trẻ hoạt động. Đó là nơi tạo cơ hội cho trẻ được khám phá, tìm tòi, trải nghiệm, phát triển khả năng sáng tạo. Thư viện có thể tạo ra sự thay đổi tích cực đối với sự tự tin của trẻ, khả năng học tập độc lập và tinh thần trách nhiệm về việc học của bản thân trẻ, góp phần giúp nhà trường thực hiện tốt mục tiêu giáo dục toàn diện mầm non giúp trẻ tích cực, chủ động làm quen với “văn hóa đọc”, làm quen với cách “đọc” sách, làm quen với các câu chuyện, bài thơ… một cách tự nhiên và hứng thú hơn, ngoài ra nơi đây trẻ còn được tìm hiểu, khám phá và trải nghiệm những sáng tạo của bản thân, được hoạt động với đồ vật, đồ chơi, … tạo cơ hội để trẻ tích cực hoạt động kể chuyện sáng tạo. Thư viện được bố trí sắp xếp thuận tiện, hợp lý, đủ ánh sáng, tạo không gian mở cho trẻ dễ dàng tiếp cận các nguồn thông tin, tư liệu trong thư viện. Việc trang trí góc sách, đồ dùng đồ chơi phù hợp đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Tăng cường các điều kiện cho trẻ được hoạt động cá nhân và theo nhóm nhỏ. Trẻ được rèn luyện khả năng quan sát, cảm thụ, giúp trẻ yêu thích văn học, phát triển năng khiếu. 3. Môi trường hoạt dộng cho trẻ kể chuyện sáng tạo thông qua các hoạt động ngoại khóa Tùy theo các lứa tuổi của trẻ mà có thể tổ chức các HĐNK như : Thăm làng Gốm Bát Tràng, thăm khu nông trại Vieco, Erahouse 3, nông trại Vạn An, thăm nhà bạn, thủy cung, xem xiếc….đi Siêu thị, Tham quan khu phố cổ, Thăm khu hướng nghiệp tại Vince, Kinder Park, thăm doanh trại quân đội, thăm Lăng Bác Thông qua các buổi tham quan dã ngoại trẻ sẽ vẽ, kể lại cho mọi người thân, cô giáo nghe về những chuyến đi, nêu cảm xúc của bản thân, đôi khi có sự sáng tạo trong ngôn ngữ và lời kể, từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng phát triển ngày càng phong phú, hoàn thiện hơn. Ngoài ra ở trường tôi còn tổ chức cho trẻ hoạt động trải nghiệm xem phim để từ đó trẻ có thể về kể cho ông bà bố mẹ nghe hôm nay con được đi xem phi như thế nào, 1 cảm giác vui va thích thú như đi xem phim ngoài rạp chiếu phim cùng các bạn và những món ăn vặt mà trẻ yêu thích * Két quả: Việc xây dựng môi trường ngôn ngữ trong trường mầm non một cách hiệu quả sẽ tạo ra những đứa trẻ mạnh dạn, tự tin, năng động, sáng tạo, ham hiểu biết, có suy nghĩ và biết giao tiếp. 3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn trẻ cách sử dụng đồ dùng và tiến hành kể chuyện sáng tạo. * Mục đích: Với mong muốn giúp phát triển các cơ quan thụ cảm cho trẻ, những đồ chơi mô phỏng các đồ vật giúp trẻ nắm được hình dáng, cấu tạo, công dụng và phương thức sử dụng. Có những dồ dùng, dồ chơi thôi thúc trẻ tập nói, phát triển ngôn ngữ và làm phong phú thêm vốn từ. Đặc biệt, trẻ ở độ tuổi này rất thích tự tìm tòi, khám phá những điều mới lạ trong cuộc sống, qua thao tác với đồ chơi, trẻ sẽ tích lũy thêm kinh nghiệm và hiểu biết nhiều hơn, phát triển vốn từ cho trẻ * Cách thực hiện: 1. Hướng dẫn trẻ sử dụng đồ dùng trực quan. - Dạy trẻ sử dụng rối tay: dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời nói, ngôn ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động các con rối đi lại. - Dạy trẻ ghép tranh kể chuyện: chọn những tranh mà trẻ thích ghép thành một dải câu chuyện sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các nhân vật trong tranh. - Dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện: chọn những nhân vật mà trẻ thích, sau đó ghép các nhân vật với nhau tạo thành một câu chuyện theo ý tưởng của trẻ. - Dạy trẻ kể chuyện bằng sa bàn: chọn những nhân vật mà trẻ thích kết hợp di chuyển các nhân vật đó trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể đi theo nhân vật sử dụng. Ngoài ra tôi gom nhặt những loại phế liệu như lọ nhựa, can nhựa, vải nỉ vụn, mùn cưa, lá cây, bìa, giấy các loại, ống và chai tiếp nước, màu vẽ, vỏ thạch. Từ những thứ tưởng chừng như vô chi vô giác ấy nhưng bằng sự chịu khó, mầy mò, suy nghĩ: phải làm sao tạo cho nó một vẻ đẹp, và thổi vào đó cái hồn để thu hút sự chú ý của trẻ., các loại tranh ảnh, hình ảnh, các con vật, cây cỏ, hoa lá ... ngoài ra tôi cũng sưu tầm vỏ hến, ốc trai, sò, vỏ trứng, nút chai, ống hút, que đè lưỡi, vải từ quần áo cũ, nắp sữa, chai, lọ, hột hạt, khuy áo, nút chai...tôi vệ sinh sạch sẽ sau đó làm đồ dùng, đồ chơi phong phú vừa rẻ tiền vừa dễ kiếm.Sau khi hoàn thành các bức tranh do trẻ và cô cùng làm, tôi sử dụng luôn chính những bức tranh đó để vào góc văn học để cho trẻ hoat độn theo góc qua hình thức kể chuyện theo ý thích hoặc kể chuyện sáng tạo Tôi và trẻ cùng làm các con vật rối tay từ len, que đè lưỡi, xốp màu, trẻ dán và tạo thành sản phẩm mỗi khi kể chuyện theo ý thích, trẻ lại được kể cho cô và bạn nghe về sản phẩm trẻ làm ra nhân vật gì, dẫn dắt cô và bạn vào câu chuyện của trẻ 2. Cách tiến hành kể chuyện sáng tạo * Chuẩn bị: Khung cảnh câu chuyện, nhân vật trong chuyện trên nền mô hình, nhạc không lời, đến đồ dùng của các con,vườn hoa, khu rừng, đại dương, các con rối bằng vải nỉ, không gian thể hiện, đèn hắt tạo ánh sáng. * Tiến hành: – Chọn nhóm – Bầu nhóm trưởng – Đặt tên nhóm – Chọn nhân vật rối và bối cảnh, đạo cụ phù hợp – Thỏa thuận, bàn bạc về nội dung chuyện, phân vai, sáng tác lời thoại, tình huống… – Tập ghép lời thoại và sử dụng nhân vật với bối cảnh – Biểu diễn báo cáo quá trình làm việc của nhóm. Cô cho mỗi nhóm thời gian để tự thảo luận để sáng tác nội dung chuyện, lời thoại các nhân vật trong truyện. Trong lúc các con đang bàn luận, cô đến từng nhóm để hướng dẫn các con cách sử dụng đạo cụ và gợi ý về nội dung của một câu chuyện gần gũi với trí tưởng tượng của các con. Phần quan trọng nhất là phần thể hiện khả năng ngôn ngữ, tư duy và biểu diễn của các con qua việc trình bày lại câu chuyện nhóm mình vừa sáng tác. Từng nhóm lần lượt lên kể chuyện kết hợp sử dụng đồ dùng và đạo cụ, các con đều rất sáng tạo và có trí tưởng tượng vô cùng phong phú. Đồng thời, ngôn ngữ các con biểu đạt nội dung câu chuyện rất tốt. Các con tự sáng tác ra câu chuyện “Nàng công chúa bị lạc ở trong rừng”, “Những động vật sống dưới đại dương”, “Tình bạn đoàn kết”…Tâm hồn trẻ thơ được hiện lên qua từng thước phim hình ảnh mà trẻ tự sáng tạo qua ngôn ngữ của mình. Các con thực sự thích thú và tự tin thể hiện mình qua những trải nghiệm mới mẻ này. Ví dụ: Qua cách dạy trẻ tôi đã tiến hành tổ chức một giờ hoạt động có chủ đích kể chuyện sáng tạo, chủ đề “động vật” như sau: Bước 1: Hát bài “ Đố bạn”.Hỏi trẻ trong bài hát có những con vật gì. Bước 2: Nghe cô kể mẫu chuyện sáng tạo của cô, cô sử dụng rối kể 1 lần. Đàm thoại với trẻ về câu chuyện của cô (tên nhân vật, đặc điểm nhân vật, đặt tên cho câu chuyện). Bước 3: Trẻ đi chọn đồ dung trực quan mà trẻ yêu thích. Cô gợi mở ý tưởng cho trẻ bằng cách mượn một con vật mà trẻ đã chọn và kể ngắn gọn vài câu để trẻ biết cách kể chuyện sáng tạo. Bước 4: Trẻ kể chuyện sáng tạo theo nhóm, cá nhân. Cô cho trẻ đánh giá và nhận xét câu chuyện của bạn kể. Theo dõi cách sử dụng đồ dung trực quan của trẻ để cô góp ý nhận xét. Qua cách làm này, bước đầu tôi đã thành công trong việc thực hiện dạy trẻ kể chuyện sáng tạo, giúp trẻ linh hoạt sử dụng đồ dung trực quan kết hợp với ngôn ngữ nói rõ ràng mạch lạc, có kỹ năng tổng hợp về “ mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, tay sử dụng”. * Kết quả: Các cháu đã biết kết hợp với nhau sử dụng các nhân vật phù hợp ăn khớp với lời kể. Ngôn ngữ của các cháu được thể hiện một cách rất tự nhiên và phong phú. Trong quá trình nghiên cứu và tiến hành kể chuyện sáng tạo đến nay ở lớp tôi đa số trẻ đã kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình mà không cần sự gợi ý của cô. Từ những việc làm đó không những trẻ sử dụng thành thạo đồ dung trực quan về các con vật mà còn biết vận dụng sử dụng đồ dung trực quan ở các chủ đề khác. 3.4. Biện pháp 4: Đặt câu hỏi phù hợp khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. * Mục đích: Việc gợi mở cho trẻ bằng những câu hỏi là vô cùng quan trọn giúp người giáo viên khai thác được hiểu hiết của trẻ, vì vậy sử dụng những câu hỏi phù hợp với tre là vô cùng quan trọng. * Cách thực hiện: Có hai dạng câu hỏi chính: Câu hỏi đóng và câu hỏi mở: + Câu hỏi đóng: để đánh giá ở mức độ ghi nhớ thông tin, đòi hỏi tư duy rất ít (thường dùng trong phần giới thiệu bài hoặc kết luận). + Câu hỏi mở: là câu hỏi có nhiều đáp án đòi hỏi tư duy nhiều (thường dùng trong phần giới thiệu và phát triển bài). Để tạo ra các câu hỏi tốt giáo viên cần lưu ý khi đặt câu hỏi: Phải chú ý đến mục đích của câu hỏi: hỏi để làm gì? Để hướng dẫn, gợi mở hay để kiểm tra, đánh giá mức độ hiểu, hỏi cái gì? Câu hỏi phải phù hợp với trình độ, khả năng để trẻ có thể trả lời được và cố gắng để trả lời. Câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Phân bổ câu hỏi cho tất cả các đối tượng trẻ: trẻ nhút nhát đến trẻ tích cực. Nên dành thời gian suy nghĩ cho mỗi câu hỏi và sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ (ánh mắt, cười, gật đầu, vỗ tay…) để khuyến khích, khen ngợi trẻ. Khuyến khích trẻ đặt câu hỏi để học. Để có được câu hỏi tốt giáo viên có thể làm như sau: + Đặt ít câu hỏi hơn, nhưng câu hỏi phải khiến trẻ suy nghĩ, không hỏi tràn lan. + Dành thời gian để trẻ suy nghĩ trả lời. + Không nên vội đánh giá, hãy động viên, khuyến khích để nhận được câu trả lời tốt hơn từ trẻ. + Khuyến khích trẻ đặt câu hỏi. + Trân trọng câu hỏi và câu trả lời của trẻ. Ví dụ một số câu hỏi mở: Con nghĩ thế nào? Theo con các nhân vật này đã từng xuất hiện trong câu chuyện gì? Làm sao con biết? Tại sao con lại nghĩ như vậy? Nếu.. thì sao? Nếu không… thì sao? Theo con thì điều gì / cái gì sẽ xảy ra tiếp theo? Câu hỏi tốt thường là câu hỏi mở và có câu trả lời mở, đòi hỏi sự tư duy, tạo được một điều mới mẻ, ví dụ những câu hỏi như: Câu hỏi về so sánh: Hai hành động/ hai nhân vật/ hai bức tranh này giống nhau ở chỗ nào? Câu hỏi về đánh giá: Hành động nào tốt hơn? Vì sao? Bức ảnh nào đẹp hơn? Vì sao? Nhân vật nào xấu? Vì sao? Câu hỏi hạn chế tư duy của trẻ: là những câu hỏi không khuyến khích trẻ nỗ lực suy nghĩ học tập, ngược lại còn làm cản trở hoạt động trí tuệ. Đó là những câu hỏi có dạng: Những câu hỏi quá phức tạp, quá lớn, trừu tượng khiến trẻ không thể trả lời được ví dụ: “Gió là gì?” “ Tại sao có gió?” “Mưa là gì?” “ Ngày hôm qua là gì?” Những câu hỏi đóng và hẹp: “Đây là cái gì?”, “Kia là cái gì?”, “Cái này màu gì”, “Hai bức tranh này có giống nhau không?”, ”Con có thích không? * Kết quả: Tôi nhận thấy trẻ hào hứng hơn sau mỗi giờ học, có thêm sự hứng thú cho bản thân mỗi đứa trẻ, từ đó tính sáng tạ cao hơn, khả năng tư duy, óc tưởng tượng của trẻ phong phú hơn 3.5. Biện pháp 5: Phối kết hợp với phụ huynh học sinh Trong các giờ đón, trả trẻ hàng ngày, tôi trao đổi về tình hình chung của trẻ ở lớp, yêu cầu cần đạt về mọi mặt của độ tuổi nói chung, kỹ năng chơi các trò chơi nói riêng.Từ đó tôi đã phô tô, hướng dẫn phụ huynh xem bảng tuyên truyền, các trò chơi, các bài đồng dao, thơ, truyện cho phụ huynh ở nhà hướng dẫn trẻ thêm. Kết nối Zalo với phụ huynh nào khôn có thời gian đưa đón con hoặc trng giờ đón trả tre chưa kị trao đổi với giáo viên. Với một số trẻ nói ngọng, nói lắp, tôi trao đổi với phụ huynh chú ý sửa nói ngọng , nói lắp, đọc sai, hát sai lời mỗi khi trẻ đọc, hát ở nhà. Lắng nghe ý kiến của cha mẹ trẻ, chủ động xây dựng mối quan hệ tốt với phụ huynh, sẵn sàng tư vấn và giúp đỡ kiến thức khi gia đình có yêu cầu, thông tin đầy đủ cho cha mẹ trẻ về chương trình chăm sóc – giáo dục trẻ ở trường bằng nhiều hình thức khác nhau như họp phụ huynh, bảng thông báo, góc trao đổi với phụ huynh, giới thiệu những hoạt động trong ngày ở trường của giáo viên và của trẻ. Liên lạc thường xuyên với gia đình để tìm hiểu sinh hoạt của trẻ ở gia đình, thông tin cho cha mẹ trẻ biết về tình hình của trẻ ở lớp, những thay đổi của trẻ nếu có để kịp thời có biện pháp giáo dục cho phù hợp. Trong khi lập kế hoạch theo chủ đề, kế hoạch tuần, giáo viên cần đưa nội dung phối hợp với gia đình vào kế hoạch, cần nêu những yêu cầu cụ thể về vấn đề cần phối hợp với gia đình để thực hiện chủ đề đó. Ví dụ: + Từ ngày 05/10/2018 đến ngày 10 tháng 10 năm 2018 cần phụ huynh đóng góp vật liệu giấy báo cũ, bìa, lá cây, ống hút, hột hạt… để cô cùng trẻ tham gia làm sách báo chào mừng ngày 20/10. + Tuyên truyên PHHS ủng hô sách báo, gấu bông, gối ôm cho góc văn học của trường, lớp. (Giáo viên thông báo cho phụ huynh trong giờ đón trả trẻ và ở góc “tuyên truyền cho cha mẹ trẻ” ) Thông báo danh sách những phụ huynh đã thực hiện yêu cầu, hoặc nhắc lại yêu cầu với một số phụ huynh, giáo viên phải có phần nhận xét về công tác phối hợp với gia đình phục vụ cho việc thực hiện trong sổ “Bé chăm ngoan” (những gì đã thực hiện được, còn tồn tại gì, có gì cần rút kinh nghiệm, hướng giải quyết như thế nào?…). 4. Kết quả đạt được: => Kết quả khảo sát cho thấy: * Khảo sát chất lượng giáo viên cuối năm lớp mẫu giáo bé số 1 (Số lượng giáo viên là 3): Nội dung khảo sát Đạt Còn hạn chế Số Tỉ Số Tỉ lượng lệ(%) lượng lệ(%) 3 100% 0 0% 2 67% 1 33% 3 100% 0 0% 3 100% 0 0% 2 67% 1 33% Giáo viên thường xuyên nghiên cứu tài liệu, lập kế hoạch trong các hoạt động Giáo viên biết vận dụng linh hoạt sáng tạo đồ dùng trong việc dạy học Khả năng bao quát trẻ Giáo viên biết tạo môi trường, lồng ghép các môn học khác cho trẻ hoat động kể chuyện sáng tạo Biết thể hiện ngữ điệu giọng, cử chỉ, ánh mắt, không nói ngọng * Khảo sát chất lượng học sinh cuối năm lớp Mẫu giáo bé số 1( Số lượng 48 trẻ) Nội dung khảo sát Đạt Còn hạn chế Trẻ nói rõ ràng, mạch lạc Trẻ tự tin khi trong quá trình giao tiếp cùng cô và bạn Trẻ hứng thú, biết tập trung khi tham gia giờ học Số Tỉ Số Tỉ lượng lệ(%) lượng lệ(%) 40 83% 8 17% 30 63% 18 37% 40 83% 8 17% 25 52% 23 48% 30 62,5% 18 37% Trẻ có kĩ năng sử dụng nguyên vật liệu trong các góc lớp để kể chuyện Trẻ có tính tư duy, sáng tạo, có khả năng tưởng tượng Sau khi thực hiện tất cả các biện pháp trên tôi nhận thấy: 1. Đối với trẻ: - Trẻ hồn nhiên mạnh dạn trong mọi hoạt động, nói rõ ràng, mạch lạc - Hứng thú, tham gia tích cực vào các hoạt động. - Phát huy được tính tích cực, sáng tạo, mở rộng được sự hiểu biết trong các hoạt động chung, giờ hoạt động góc. - Tạo tính tập trung, rèn tính kiên trì - Củng cố kiến thức khéo léo, nhạy bén cho đôi tay - Trẻ biết hợp tác, trẻ biết lắng nghe Nếu như đầu năm lớp tôi còn có trẻ chưa biết nói thì nay 100% trẻ đã biết nói. Số trẻ nói ngọng hoặc nói chưa rõ từ cũng giảm nhiều so với đầu năm. Đa số trẻ đã nói được cả câu, diễn đạt mạch lạc. Một số trẻ còn biết kể lại truyện diễn cảm và sử dụng ngôn ngữ của mình để kể chuyện sáng tạo theo tranh. 2. Đối với phụ huynh
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan