BÀI THI
“Cuộc thi viết về giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học”
Thực hiện Kế hoạch số 53-KH/PGDĐT, ngày 20/12/2017 của Phòng
GDĐT huyện Năm Căn về “Cuộc thi viết về giải pháp nâng cao chất lượng
dạy và học” Năm học 2017 - 2018. Bản thân có một giải pháp như sau:
Trong quá trình dạy môn Tiếng Việt, nhiệm vụ của GV tiểu học là hình
thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Phân môn
Chính tả có nhiệm vụ rèn kĩ năng nghe, viết, đọc. Qua chữ viết đúng, đẹp GV
bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của Tiếng Việt cho HS.
Phân môn Chính tả lớp 2 có nhiệm vụ giúp HS nắm vững các quy tắc
Chính tả và hình thành kĩ năng Chính tả. Ngoài ra, nó còn rèn cho học sinh
một số phẩm chất như tính cẩn thận, óc thẩm mĩ.
Ngoài việc nắm vững vị trí, nhiệm vụ, tính chất, nội dung, chương
trình, phương pháp giảng dạy phù hợp, GV còn phải nắm vững các nguyên
tắc dạy chính tả Tiếng Việt.
Dạy chính tả theo khu vực phải xuất phát từ tình hình thực tế của học
sinh ở từng khu vực, từng vùng để hình thành nội dung giảng dạy.
Qua thực tế điều tra qua các bài viết của học sinh lớp 2 tôi nhận thấy
học sinh viết chữ sai lỗi nhiều nhưng sai chủ yếu là phụ âm đầu. Vì vậy tôi
quyết định xây dựng giải pháp: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 khắc
phục lỗi phụ âm đầu trong phân môn Chính tả Nghe – viết”.
1. Thực trạng chung:
Trường TH 1 xã Hiệp Tùng là một điểm trường năm trong khu kinh tế
nuôi trồng thủy sản, nơi tập trung dân cư của rất nhiều vùng miền trong cả
nước sinh sống ( miền Bắc, miền Trung, miền Nam và đa số là người địa
phương). Năm ở vị trí xa nơi trung tâm, việc giao lưu để phát triển vốn ngôn
ngữ còn nhiều hạn chế. Mỗi một vùng miền lại có những lỗi phát âm khác
nhau nên việc Nghe - viết, phát âm các em h/s còn nhiều hạn chế do phương
ngữ. Chính vì vậy, việc Nghe - viết chính tả các em thường mắc nhiều lỗi.
Mặt khác, đa số gia đình các em có đời sống khó khăn nên việc quan tâm đến
việc học tập của các em còn hạn chế.
Ngoài ra trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi băng 2 hoặc 3
dạng.
Ví dụ: /k/ ghi băng c, k, q, âm “gờ” ghi băng g, gh; âm “ng” ghi băng
ng,
ngh.
Phân môn Chính tả có một vị trí rất quan trọng ở lớp 2 bởi vì giai đoạn
tiểu học là giai đoạn then chốt trong quá trình hình thành kĩ năng chính tả cho
học sinh.
Mỗi tiết học trong phân môn Chính tả ở lớp 2 có hai phần đó là chính tả
đoạn bài và chính tả âm vần. Phần chính tả đoạn bài là học sinh Nghe - viết
(Tập chép) một đoạn văn, đoạn thơ (theo số lượng tiếng của từng bậc học
trong chuẩn KTKN) sau khi được đọc và tìm hiểu các hiện tượng chính tả
trong thời gian khoảng 10 phút. Nội dung các bài chính tả âm vần là luyện
viết đúng chữ ghi tiếng có âm, vần, thanh dễ viết sai chính tả. Thời gian dành
cho bài tập chính tả âm vần dù là rất ngắn so với chính tả đoạn bài song việc
rèn kỹ năng qua bài tập đó có ý nghĩa rất lớn đối với học sinh.
2. Thực trạng trong quá trình giảng dạy:
a. Đối với học sinh:
- Học sinh viết sai chính tả chủ yếu do các em bị mất căn bản từ lớp
dưới, chưa nắm vững âm vần, chưa phân biệt được cách phát âm của GV,
chưa hiểu rõ nghĩa của từ, chưa có ý thức tự học, tự rèn ở nhà, chưa chú ý khi
viết chính tả.
Qua thống kê các loại lỗi, học sinh thường mắc phải các loại lỗi sau:
- Lỗi do vô ý, chưa cẩn thận (như thiếu dấu phụ, thiếu dấu thanh,…
- Lỗi do không hiểu nghĩa của từ ( như để dành - tranh giành)
)
- Lỗi do không nắm được quy tắc chính tả ( như gh, ngh chỉ đứng trước
i, e, ê.)
g / gh: đua ge/ đua ghe
ng / ngh : củ ngệ/ củ nghệ
c / k: cây céo/ cây kéo
- Lỗi phát âm do sai phương ngữ (như l - n, s - x, tr - ch,v – gi – d,...)
ch / tr: con chăn/ con trăn
s / x: chim xẻ/ chim sẻ
Qua thực tế các lỗi về ch/ tr; s/ x; r/ g ; v/d/ gi , l/n là phổ biến nhiều
hơn cả.
* Nguyên nhân:
- Do các em phát âm theo thói quen địa phương (phương ngữ).
- Do các em chưa hiểu nghĩa từ.
- Về nhà chưa đọc bài, chuẩn bị bài.
- Khi thầy cô giảng bài phân tích các chữ khó các em không chú ý lắng
nghe để nắm và nhớ cấu tạo của tiếng.
- Do không thuộc các quy tắc chính tả.
b. Về phía phụ huynh:
- Phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc kiểm tra bài vở của con em
mình.
- Một số phụ huynh phát âm chưa chuẩn các âm đầu dẫn đến con cái
cũng bị ảnh hưởng phát âm sai.
c. Về dạy chính tả của giáo viên:
- Trong quá trình dạy phân môn chính tả, giáo viên chưa làm công tác
điều tra để phân biệt các nhóm đối tượng học sinh viết sai chính tả để giáo
viên có biện pháp giúp đỡ với từng nhóm đối tượng.
- Trong quá trình đọc cho học sinh viết giáo viên chưa quan tâm chú ý
đến cách đọc, giáo viên chủ yếu đọc theo cụm từ, tiếng để học sinh viết mà
chưa đọc trọn câu để học sinh nghe và hiểu rõ câu văn để viết đúng.
- Đối với các bài tập âm vần, giáo viên chưa giải nghĩa từ, khắc sâu
kiến thức băng cách đặt câu hoặc đặt từ vào một số tình huống cụ thể để học
sinh hiểu nghĩa của từ. Một số giáo viên chưa lựa chọn được các bài tập cần
làm phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình nên chưa phát huy hết tác
dụng của bài tập để sửa lỗi sai cho học sinh.
3. Biện pháp khắc phục lỗi Chính tả:
a. Đối với học sinh
- Rèn luyện kỹ năng: Nghe - Nhớ - Vận dụng thực hành đối với phương
châm “em nghe - em nhớ - em làm - em hiểu”.
- Ở nhà thường xuyên luyện viết, chuẩn bị trước bài ở nhà, học ở bất cứ
nơi nào, dù ở nhà hay ở trường cũng phải luôn nghiêm túc và tập trung trong
khi học tập.
- Cùng với lớp tham gia trò chơi, học tập thường xuyên để kiểm tra
kiến thức chính tả của mình qua việc bồi dưỡng học sinh yếu và học sinh giỏi
sau một tuần học tập .
b. Đối với phụ huynh :
- Phụ huynh cần trao đổi với giáo viên về cách đọc - viết của con em
mình ở nhà. Quan tâm kiểm tra tình hình học tập của con em hàng ngày.
- Khắc phục lỗi phát âm sai để con cái nêu gương, không bị ảnh hưởng
khi giao tiếp.
c. Đối với giáo viên dạy trên lớp:
* Tự bồi dưỡng:
Để dạy tốt Người giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu,
nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề, có kiến thức cơ bản về ngữ âm
học, từ vựng học, ngữ nghĩa học… có liên quan đến chính tả.
Nắm vững phương pháp đặc trưng của phân môn chính tả. Kết hợp linh
hoạt các phương pháp giảng dạy sao cho sát hợp với đối tượng học sinh của
lớp mình.
Học sinh có đọc đúng và ghi nhớ âm đúng thì khi giáo viên đọc, học
sinh sẽ tái hiện và viết đúng. Vì vậy trước hết giáo viên phải cố gắng phát âm
rõ ràng, tốc độ đọc vừa phải để học sinh dễ phân biệt các âm hay lẫn lộn dẫn
đến sai.
* Dùng các biện pháp hướng dẫn HS phân biệt các hiện tượng
chính tả, ghi nhớ quy tắc chính tả
* Phân tích so sánh
Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo
tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau
để học sinh ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “nặng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “nặn” giáo
viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này.
Nặng = N + ăng + thanh nặng
Nặn = N + ăn + thanh nặng
So sánh để thấy sự khác nhau, tiếng “nặng”có âm cuối là “ng”, tiếng
“nặn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ cách phát âm và cách viết sẽ không
viết sai.
* Giải nghĩa từ
Do phương ngữ của từng vùng khác nhau, cách phát âm đôi khi chưa
thống nhất với chữ viết nên học sinh cần nắm rõ nghĩa của từ để viết cho
đúng.
Ví dụ: vác nặng - vác lặng
Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu,
Tập đọc, Tập làm văn,… nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết
Chính tả khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay
phân tích cấu tạo tiếng.
* Hướng dẫn mẹo luật chính tả:
Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi
phối hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách
rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn
giản như: Các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với âm i, e, ê. Ngoài ra giáo viên
có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như sau :
Để phân biệt âm đầu s/ x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều
bắt đầu băng s : si, sồi, sả, sứ, sắn, sung, sao, sim, su su, sầu đâu, sơn trà, sậy,
sấu, sến, sam, sán, sầu riêng, so đũa, sáo, sâu, sên, sam, sán, sếu, sò, sóc, sói,
sứa, sáo, sư tử,…
Để phân biệt âm đầu tr/ ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên
con vật đều bắt đầu băng ch: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum,
chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, chuột, chó, chí, chồn, chuồn chuồn, chào
mào, châu chấu, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi,…
* Cho HS làm nhiều dạng bài tập chính tả:
Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập Chính tả khác nhau để giúp
học sinh tập tận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ
trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp các em rút ra các quy
tắc Chính tả để ghi nhớ. Trong quá trình dạy các bài tâ ̣p Chính tả âm vần,
giáo viên cần có sự lựa chọn bài tập phù hợp với đa số đối tượng học sinh của
lớp và cá biệt đối với các nhóm đối tượng học sinh của lớp.
* Bài tập trắc nghiệm khoanh tròn
Khoanh tròn chữ cái trước từ ngữ viết đúng :
a - nàng xóm
b - chổi che
c - xa xa
d - lo lắng
e - chang chang
g - chim xẻ
* Trắc nghiệm đúng – sai
Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô trống
trước những chữ viết sai chính tả:
gia đình
da vào
cặp da
dòng giống
giông bão
râm bụt
* Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết
đúng chính tả:
A
Long
Sáng
giận
Con
B
dữ
sủa
trăn
lanh
* Bài tập lựa chọn
Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
Đôi………này đế rất cao (dày, giày)
Em thích nghe kể…………hơn đọc……… ( truyện, chuyện )
* Bài tập điền khuyết
Điền vào chỗ trống cho phù hợp
d, r hoặc gi : …án cá, ….ễ….ãi, đêm….ao thừa, xếp hàng….ọc
s hoặc x : ….ôn….ao,….a….ôi,….ung phong, đơn….ơ
* Bài tập phân biệt
Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau
no – lo
dành – giành
Ngoài ra giáo viên phải kết hợp cho học sinh biết xây dựng cái đúng,
loại bỏ cái sai. Bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những quy tắc chính tả,
hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập nhăm hình thành các kĩ xảo chính tả
cần đưa ra những trường hợp viết sai để hướng dẫn học sinh phát hiện sửa
chữa rồi từ đó định hướng cho học sinh đi đến cái đúng.
Tóm lại: Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân mắc
lỗi, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục là rất cần thiết không thể thiếu trong
quá trình dạy học Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp
khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi
chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền
bỉ, không được nôn nóng.
- Xem thêm -