Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn “ một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 6 tuổi ở trường mâm non”...

Tài liệu Skkn “ một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 6 tuổi ở trường mâm non”.

.PDF
23
311
129

Mô tả:

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và của mỗi gia đình. Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ sau này. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ. Chính vì vậy mà vào đầu thập kỉ 90, các tổ chức Liên Hiệp Quốc như WHO (Tổ chức y tế thế giới), UNICEF ( Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên hiệp quốc), UNESCO ( Tổ chức giáo dục , khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc) đã chung sức xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. “ Bởi lẽ những thử thách mà trẻ em và thanh niên đang phải đối mặt là rất nhiều và đòi hỏi cao hơn là những kỹ năng đọc, viết, tính toán tốt nhất”. Ngoài ra, nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường. Vì thế, ngày nay trên thế giới rất nhiều trường mầm non áp dụng phương pháp học trung tính là phương pháp học tập thông qua các giao tiếp tích cực với những người khác, giúp cho trẻ sớm được hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình, để trẻ có một nhân cách phát triển toàn diện,bền vững, có khả năng thích ứng với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống . Ở Việt nam, Bộ Giáo dục- Đào tạo đã phát động phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong các mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non (ban hành kèm theo thông tư số 17/2009/TT- BGD&ĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009) có mục tiêu giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội. Để thực hiện mục tiêu trên, nội dung quan trọng cần đưa vào giáo dục trẻ là giáo dục một số kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Về phía các bậc cha mẹ trẻ: cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến việc làm sao để kích thích tính tích cực học tập của trẻ. Cha mẹ nào cũng muốn con mình được 1 tham gia và trải nghiệm vào các hoạt động vui chơi hay học tập tích cực để từ đó trẻ lĩnh hội được các kinh nghiệm sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và sẵn sàng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống. Đặc biệt, khi trẻ chuẩn bị vào lớp một, các bậc phụ huynh lại luôn lo lắng liệu rằng con mình có đủ sức khỏe và khả năng để theo học thật tốt cùng các bạn ở trường tiểu học hay không. Đối với giáo viên mầm non: Giáo viên thường tập trung lo lắng đối với những trẻ có một số vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ năng sống (KNS) cơ bản ở trường mầm non giúp trẻ ổn định nề nếp nhóm lớp và có các thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày. Đối với trẻ mầm non: Đây là giai đoạn trẻ học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách,đồng thời trẻ rất dễ bộc lộ cảm xúc, chưa có nhiều kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế giới xung quanh còn nhiều hạn chế do đó nhiều trẻ còn thụ động, không biết ứng phó với các tình huống nguy cấp, không biết tự bảo vệ mình trước nguy hiểm hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác….Do đó, việc dạy KNS cho trẻ là rất cần thiết bởi KNS thúc đẩy sự phát triển cá nhân trẻ, giúp trẻ có nhận thức đúng và hành vi ứng xử phù hợp ngay từ độ tuổi mầm non. Với vai trò là cô giáo mầm non, tôi đã trăn trở rất nhiều về việc làm sao phải giáo dục cho trẻ biết ứng xử tốt với mọi tình huống mọi hoàn cảnh trong cuộc sống đời thường một cách văn minh và hồn nhiên đúng với độ tuổi của trẻ. Một tập thể trẻ có KNS tốt sẽ tạo nên môi trường sống ấm áp, hoà thuận, vui vẻ và phát triển ở nhóm lớp. Vì vậy tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non”. 2: Tên sáng kiến “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mâm non”. 3. Tác giả sáng kiến: Họ và tên: Lê Thị Hường Địa chỉ: Trường Mầm non Đại Tự - Huyện Yên lạc - Tỉnh Vĩnh Phúc. Số điện thoại: 01639444212; Email: [email protected] 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: 2 Lê Thị Hường -Trường Mầm non Đại Tự - Yên lạc - Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến. - Lĩnh vực giáo dục tình cảm xã hội. - Giáo dục kỹ năng sống của trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non. 6. Ngày sáng kiến được áp ụng. Sáng kiến được áp dụng từ tháng 8 năm 2017 đến tháng 2 năm 2018. 7. mô tả bản chất sáng kiến. 7.1. Cơ sở lý luận. Xã hội ngày nay có vô số những mối nguy hiểm, khó khăn với con người, đặc biệt là với trẻ em. Trẻ em có thể bị xâm hại, bị bóc lột sức lao động, bị bắt cóc, các mối đe dọa từ tai nạn thương tích và xu thế học tập tiến bộ … Với vốn kiến thức hạn chế và sức khỏe còn yếu của mình, nếu trẻ không có các KNS phù hợp sẽ đẩy lùi sự phát triển toàn diện của trẻ. Mặc dù phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho bậc học mầm non, tuy nhiên nhiều GV chưa hiểu sâu về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những KNS cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non một cách linh hoạt và hiệu quả. Trong thực tế , một số năm học trước, với yêu cầu sử dụng công nghệ thông tin đổi mới hình thức, phương pháp dạy học, giáo viên thường lãng quên các trò chơi dân gian, ngại đưa vào kế hoạch, thậm chí chưa dành thời gian cho trẻ vui chơi nên chưa đáp ứng được đặc điểm “ vui chơi là hoạt động chủ đạo” và “ học mà chơi, chơi mà học” của trẻ. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lứa tuổi mầm non là nội dung rất quan trọng , nội dung này được thực hiện càng sớm càng tốt.Thông qua nội dung giáo dục giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những việc nên làm và việc không nên làm. Từ đó trẻ sẽ tự tin chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, đồng thời khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và người sống hài hòa trong tương lai. Các nhóm kỹ năng có thể dạy cho trẻ mầm non như : Kỹ năng nhận thức về bản thân, kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội,kỹ năng học tập, kỹ năng tương tác…Từ đó, chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra các nội dung đơn giản và hết sức gần gũi với trẻ như: dạy trẻ có kỹ năng hợp tác với mọi người, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ , kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng 3 kiểm soát cảm xúc…các kỹ năng này không tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ với nhau, được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình huống nào xảy ra hàng ngày. Cho nên việc giáo dục và vận dụng tốt sẽ giúp trẻ có nhân cách tốt. Khi giáo dục kỹ năng sống còn góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ... cho trẻ. Nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non đã triển khai được một số năm học, tuy nhiên kết quả đạt trên trẻ chưa cao và chưa đồng đều giữa các trẻ. Nếu giáo viên thực hiện chuyên sâu và có phương pháp giáo dục phù hợp thì kết quả trên trẻ sẽ có bước tiến bộ nhanh chóng. 7.2. Cơ sở thực tiễn: Câu thành ngữ: “ Tiên học lễ, hậu học văn” của ông cha ta từ ngàn xưa đã để lại đến bây giờ vẫn không thể thiếu trong các trường học. Lễ phép là nét đẹp văn hoá được đặt lên hàng đầu khi đánh giá về một con người. Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu cầu càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào tạo ra những con người “ phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục, là một bộ phận có tính cốt lõi, nền tảng của công tác giáo dục trẻ. Việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng đang trở thành nhiệm vụ quan trọng. Giáo dục kỹ năng sống phải được đo bằng sự vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống mỗi các nhân để sống tích cực, sống hạnh phúc, sống có ý nghĩa. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm giúp trẻ phát triển hài hoà, toàn diện về nhân cách. Cung cấp cho mỗi trẻ kiến thức cần thiết về kỹ năng sống để các em sống sao cho lành mạnh và có ý nghĩa. Giúp các em hiểu, biến những kiến thức về kỹ năng sống được cung cấp thành hành động cụ thể trong quá trình hoạt động thực tiễn với bản thân, với người khác, với xã hội, ứng phó trước nhiều tình huống, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người, giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực. Có thể nói việc trang bị kỹ năng sống cho trẻ em là một phương pháp giáo dục cần thiết để trẻ bớt thụ động trong việc học và giao tiếp xã hội. Song trên thực tế việc dạy kỹ năng sống cho trẻ trong các trường mầm non còn mới mẻ và rất nhiều giáo viên còn chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của vấn đề hoặc thiếu kỹ năng giảng dạy để có thể truyền đạt cho trẻ hiểu và hình thành cho trẻ những kỹ năng sống cần thiết cho trẻ. Là giáo viên mầm non phụ trách lớp mẫu giáo lớn, nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ, tôi đã luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi. Giáo dục kỹ năng 4 sống không phải là nói cho trẻ biết thế nào là đúng, thế nào là sai như ta thường làm. Các phương pháp cổ điển như bài giảng đi theo những chuẩn mực, cô hỏi trẻ thụ động trả lời sẽ hoàn toàn thất bại vì chúng chỉ cung cấp thông tin, mà từ thông tin và nhận thức đến thay đổi hành vi thì khoảng cách còn rất lớn. Giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn những giải pháp khác nhau. Giải quyết phải xuất phát từ trẻ. Chính vì vậy, tôi đã nghiên cứu một vài biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi đạt hiệu quả. Qua thời gian thực hiện tôi đã tích luỹ được một vài kinh nghiệm, đó chính là lí do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi trong trường mầm non”. 7.3. Thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non. 7.3.1. Thực trạng chung. Trong những năm gần đây Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa phương, Phòng giáo dục - Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để dạy KNS cho học sinh với những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp có hiệu quả, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng tự nhận thức và tự tin của bản thân, kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc... Trường Mầm non nơi tôi công tác là ngôi trường đạt chuẩn quốc gia, các phòng học đều mới xây dựng nên sạch đẹp và kiên cố. Ban giám hiệu nhà trường tích cực bồi dưỡng cho GV về chuyên môn, xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi có đủ những nguyên vật liệu, tài liệu để làm đồ dùng dạy học và đồ chơi cho trẻ. PGD&ĐT huyện thường xuyên quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất và các thiết bị đồ chơi phục vụ việc dạy và học cho các lớp 5 tuổi. Năm học 2017-2018 tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp 5-6 tuổi tại khu trung tâm của trường: Là lớp 5-6 tuổi với số cháu 30, trong đó 13 cháu nữ,17 cháu nam, tất cả đều đã qua lớp mẫu giáo nhỡ nên đã có một số kỹ năng cơ bản. Đa số trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, và tình cảm xã hội, cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ. Một số năm học trở lại đây, riêng nội dung giáo dục trẻ 5 tuổi có ban hành bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi thông qua 4 lĩnh vực- 28 chuẩn- 120 chỉ số với yêu cầu GV lồng ghép các chỉ số này vào mục tiêu từng chủ đề sao cho phù hợp để qua đó dạy trẻ các kiến thức và kỹ năng cần thiết, chuẩn bị về tâm thế và thể chất cho trẻ 5 tuổi lên lớp một. Đa số GV đã lồng ghép chỉ số vào mục tiêu phù hợp nhưng một số chỉ số chưa đạt được ở chủ đề trước GV thường bỏ qua mà không 5 rèn tiếp trẻ hoặc đưa tiếp vào mục tiêu của chủ đề sau cho nên nhiều trẻ bị bỏ qua các kỹ năng của chỉ số đó. Là một giáo viên yêu nghề mến trẻ bản thân tôi xác định được mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc dạy KNS cho trẻ mầm non và tìm ra các giải pháp hữu ích nhất cho hoạt động giáo dục này. 7.3.2. Thuận lợi. Có không gian hoạt động an toàn cho trẻ, có đủ đồ dùng đồ chơi cần thiết trong các hoạt động giáo dục. Trẻ khoẻ mạnh và rất hào hứng , sôi nổi với các hoạt động do cô tổ chức, lĩnh hội nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt. Phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường, của nhóm lớp. GV có trình độ chuyên môn nhất định, được tập huấn về nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non do Phòng giáo dục tổ chức và qua các buổi bồi dưỡng chuyên môn tại trường. Tài liệu hướng dẫn sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi có chỉ số, hướng dẫn cách đánh giá trẻ rõ ràng và cụ thể nên việc dạy trẻ các kỹ năng và đánh giá kết quả trên trẻ rất thuận lợi, chính xác, từ đó biết trẻ nào đạt được và chưa đạt được để tiếp tục rèn trẻ vào các chủ đề tiếp theo. 7.3.3. Khó khăn. Chưa có nhiều tài liệu sách báo về việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để giáo viên nghiên cứu, tham khảo. Giáo viên có nhiều hạn chế về phương pháp tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Không gian lớp hẹp nên còn khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động. Trẻ được bố mẹ nuông chiều nên chưa có những kỹ năng sống cần thiết phù hợp theo độ tuổi. Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, do đó cùng một thời gian và biện pháp dạy trẻ các KNS nhưng kết quả trên trẻ đạt chưa tương đương với nhau. Một số trẻ quá nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động ,một số trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn của cô, kỹ năng sống của trẻ còn nhiều hạn chế. Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, 100% phụ huynh là nông thôn . Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở nhà với các anh chị hoặc ông bà đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít, không dành thời gian trò chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo dục trẻ mà chỉ biết chiều theo mọi đòi hỏi của trẻ, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu 6 trẻ cần. Ví dụ: trẻ chỉ cần đòi mua đồ dùng nào đó là được đáp ứng ngay mà không biết điều đó có phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của bố mẹ hay không, khi được nhận món đồ chơi đó trẻ cũng không biết cảm ơn bố mẹ….Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho trẻ thiếu KNS. Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và dạy KNS cho trẻ theo mục tiêu của chương trình giáo dục đã đề ra để chuẩn bị tốt cho trẻ trước khi bước vào trường phổ thông. Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư, tuy nhiên kinh phí trong việc tổ chức một số các hoạt động ngoại khoá vào các ngày lễ, ngày tết nhằm dạy KNS cho trẻ còn hạn chế và chưa thường xuyên. 7.3.4. Kết quả khảo sát ban đầu. Trẻ có KNS không đồng đều. Một số trẻ ngoan ngoãn và nhanh trí thì có nhiều kỹ năng cơ bản tốt, với sự hướng dẫn, động viên của cô giáo trẻ luôn biết phát huy những kỹ năng tốt đó. Ngược lại , một số trẻ nhận thức còn chậm lại hay nghịch ngợm nên kết quả dạy KNS của cô trên trẻ đó đạt kết quả thấp. Giáo viên đã tích cực thực hiện lồng ghép nội dung dạy KNS cho trẻ vào các hoạt động trong ngày , đã đưa các chỉ số phát triển trẻ 5 tuổi vào mục tiêu của chủ đề để rèn một số kỹ năng qua các chỉ số đó nhưng 1 số giáo viên tổ chức chưa linh hoạt, chưa sáng tạo nên chưa kích thích tối đa sự hứng thú của trẻ và sự tham gia nhiệt tình của phụ huynh. Qua khảo sát từ phụ huynh cho thấy, có một số ít trẻ khi ở lớp thì thực hiện các KNS tốt do trẻ rất nghe lời cô giáo nhưng khi về nhà được bố mẹ và người thân chiều chuộng thì trẻ lại không thực hiện một số KNS trẻ có mà luôn phụ thuộc vào người khác( vd: trẻ không kiềm chế cảm xúc mà có thể lăn ra và khóc bất cứ lúc nào nếu người thân không đáp ứng nhu cầu của trẻ…) Kết quả khảo sát đầu năm của 30 trẻ tại lớp 5 tuổi: Tên kỹ năng Xếp loại Tốt Khá Đạt Chưa đạt - Nhóm kỹ năng nhận thức bản thân 9= 30% 11=37% 7=23% - Nhóm kỹ năng hợp tác 16=53.3% 12=40% 2=6.7% - Nhóm kỹ năng tự tin 15=50% 14=47% 1=3.3% - Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan 12=40% hệ xã hội 18=60% 0 0 - Nhóm kỹ năng học tập 15=50% 1=3.3% 1=3.3% 13=43.40% 3=10% 0 0 7 7.4. Các biện pháp,kinh nghiệm giáo dục KNS cho trẻ mầm non. *Biện pháp 1:. Công tác tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức về việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Trong những năm học trước, tôi thường tự tìm hiểu các kiến thức, phương pháp giáo dục kỹ năng cho trẻ một cách riêng lẻ nên chưa hiểu chưa sâu về sự cần thiết phải dạy kỹ năng sống cho trẻ, chưa biết cần phải có phương pháp nào để kết quả dạy là tốt nhất. Do đó ,đầu năm học, tôi đề nghị với Ban giám hiệu nhà trường mua bổ xung 1 số tài liệu có nội dung giáo dục KNS cho trẻ mầm non cho tất cả giáo viên tổ 5 tuổi( Vd: tài liệu “ Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non”….). Đồng thời, tôi đã tổ chức thảo luận với giáo viên trong tổ,trong trường về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc dạy trẻ các KNS cần thiết, qua đó giúp tôi hiểu được rằng chương trình học thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức trong suốt năm học, và thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội của trẻ. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học một cách tốt nhất. *Biện pháp 2:. Xác định những KNS cơ bản cần giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non: Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học là chính là những KNS như: - Nhóm kỹ năng tự tin: Nhận biết , thể hiện cảm xúc, suy nghĩ cá nhân với mọi người. - Nhóm kỹ năng hợp tác: Kỹ năng tổ chức hoạt động, làm việc theo nhóm,kỹ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề. - Nhóm kỹ năng nhận thức về bản thân: Kỹ năng tự bảo vệ trước những tình huống nguy hiểm, nhận biết về giá trị bản thân. - Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: kỹ năng ứng xử phù hợp với người xung quanh, kỹ năng hợp tác, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ,kỹ năng tuân thủ các quy tắc xã hội, giao tiếp lịch sự và lễ phép, kỹ năng tự phục vụ. - Nhóm kỹ năng học tập : Ý thức trách nhiệm, Kỹ năng thiết lập và thực hiện mục tiêu. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp tôi lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ ở lớp mình phụ trách. 8 *Biện pháp 3: Cụ thể hóa những biện pháp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. 3.1. Kỹ năng tự nhận thức bản thân : - Kỹ năng tự nhận thức là trẻ tự nhận diện về bản thân, phát triển quan niệm tích cực về bản thân. Trẻ nhận thức sự khác nhau giữa các trẻ, nhận thức mỗi cá nhân có điểm riêng biệt cần được tôn trọng, phát triển những suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ. Kỹ năng tự nhận thức giúp trẻ hiểu đúng mình là ai? Trẻ yêu gì? Điểm mạnh và sở thích của mình là gì để kết nối chúng vào những lĩnh vực liên quan và phát huy chúng một cách tối đa. Trẻ nhận ra điểm yếu của mình cũng giúp trẻ dự đoán được những khó khăn trong quá trình hoạt động từ đó tìm ra cách khắc phục khó khăn đó. - Để hình thành kỹ năng tự nhận thức tôi đã thực hiện 1 số biện pháp sau: +Trò chuyện giúp trẻ tìm hiểu về bản thân thông qua 1 số câu hỏi như: Con là ai? Con thấy mình có những tính tốt đẹp nào?Con thích gì và không thích gì? Con có mong muốn gì? Con sẽ làm gì để đạt được mong muốn đó?con có những điểm gì khác với bạn?..... + Chấp nhận sự đa dạng của trẻ và giúp trẻ chấp nhận lẫn nhau: Tôi luôn tôn trọng cá tính của từng cá nhân trẻ trong lớp, đồng thời có biện pháp giáo dục để hạn chế điểm yếu, phát huy điểm mạnh của trẻ. Tôi nhận thấy rằng khi tôi tôn trọng tất cả các trẻ thì trẻ trong lớp sẽ noi gương theo cô, biết tôn trọng các bạn lớp mình. +Đặt yêu cầu cao cho các trẻ và khích lệ trẻ hoạt động để đạt mục tiêu đó: Tôi luôn đặt yêu cầu cao cho tất cả các trẻ trong lớp, Với sự hướng dẫn của tôi, từng trẻ đã có khả năng tham gia hầu hết các hoạt động . Trong bất kì hoạt động nào tôi cũng khuyến khích để kích thích tính tò mò, khám phá của trẻ chứ không ép buộc mọi trẻ phải tham gia. Gợi ý để trẻ thử thách với chính mình.Thay vì cạnh tranh với trẻ khác, tôi khuyễn khích trẻ cạnh tranh với chính mình (Vd: Nhảy xa sử dụng thước dây, xếp hình bằng đồng hồ bấm giây…lần sau tốt hơn lần trước) + Giúp trẻ đạt được thành công nhất định trong lớp học: Thành công là một trong những yêu tố quan trọng tác động đến sự phát triển ý thức bản thân. Trẻ ở lứa tuổi này cần trải qua thành công( theo khả năng của trẻ) để trẻ có cảm giác tự tin rằng mình làm được những điều tốt. Thực tế , có một số trẻ sợ thất bại đến nỗi không dám thử 1 hoạt động nào đó, lúc này tôi sẽ giúp trẻ đạt được thành công trong việc đó từng bước một đồng thời khen ngợi khả năng đó để trẻ thêm tự tin vào mình. Trẻ sẽ tự hào về thành công của mình nếu cô giáo cho trẻ thấy rằng cô tự hào về trẻ. + Tổ chức một số hoạt động, trò chơi phát triển kỹ năng tự nhận thức cho trẻ: 9 Hoạt động “ soi gương”: Giúp trẻ tự quan sát, cảm nhận về hình dáng của mình bằng cách cho trẻ tự ngắm mình trong gương với các động tác như làm điệu, đội mũ, mặc quần áo…. . lúc đó tôi có thể hỏi trẻ: Con thấy ai trong gương, người trong gương có dáng yêu không? Hoạt động “Hái hoa dân chủ”: Trẻ chọn 1 bông hoa theo ý thích trong đó có nội dung “ Hãy nói cho chúng tôi về….”( có thể là gia đình, đồ chơi bạn thích, món ăn bạn thích…) và tôi sẽ đọc to câu hỏi đó cho cả lớp nghe, trẻ hái hoa sẽ nói về điều đó theo hiểu biết của mình. Hoạt động “ Tôi có thể vẽ”: Tôi tạo ra 1 tờ giấy lớn và dán lên tường. Tôi cổ vũ trẻ vẽ hay dán bất cứ thứ gì trẻ có thể làm được vào tranh. Với hoạt động này trẻ sẽ thấy được sự phát triển tiến bộ của bản thân qua từng giai đoạn. Hoạt động “ có điều gì trong một cái tên”: Trẻ nhỏ thường rất tự hào về cái tên của mình, do đó tất cả hoạt động nào liên quan đến cái tên của trẻ đều làm trẻ hứng thú. Hầu hết bố mẹ đặt tên cho con đều có 1 ý nghĩa, yêu cầu trẻ hỏi bố mẹ về điều này, sau đó tôi phát cho mỗi trẻ 1 tờ giấy và bút màu để trẻ có thể vẽ lại điều đó vào bức tranh và trang trí cho tranh của mình. Khi đã thực hiện xong có thể cho trẻ diễn tả lại ý nghĩa của bức tranh mà trẻ đã vẽ. 3.2. Kỹ năng hợp tác: - Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu “ Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” Vì vậy việc giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ mầm non là rất cần thiết. Bởi trẻ mầm non còn nhỏ, có nhiều việc không thể tự làm được nếu không có người khác giúp đỡ. Khi trẻ được bạn giúp đỡ và khi trẻ giúp đỡ được bạn trẻ sẽ nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Qua đó trẻ có niềm vui, có bạn bên cạnh để chia sẻ công việc, giúp phát triển kỹ năng và tình cảm xã hội của trẻ. - Để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm việc theo nhóm với các trẻ khác trong tất cả các hoạt động (Vd: Cho trẻ thảo luận theo tổ để cùng nhau nhận xét về đặc điểm của 1 đối tượng nào đó trong các hoạt động), tạo những cảm nhận giúp trẻ tôn trọng những quyền lợi của trẻ khác qua việc chia sẻ, hướng dẫn trẻ cư xử lịch sự với bạn khác. - Tổ chức 1 số hoạt động phát triển kỹ năng hợp tác như: + Thảo luận về sự hợp tác: Trò chuyện với trẻ có sử dụng câu hỏi như “ Con và bạn đã cùng nhau làm những việc gì?Trò chơi nào con thích hơn khi có bạn cùng chơi? Tại sao con phải hợp tác với bạn, một mình con có làm được việc này không? Điều gì con cảm thấy vui khi hợp tác?....Qua việc trò chuyện giúp trẻ hiểu hợp tác là có nhiều người cùng thực hiện 1 việc gì đó, cùng vui thích khi làm việc. 10 + Trò chơi “ đôi bạn hợp tác”: Cho trẻ tìm thêm 1 bạn để ghép đôi với nhau. Các đôi ngồi quay mặt vào nhau, nắm lấy tay nhau, cùng ngồi xuống hoặc cùng đứng lên mà không buông tay nhau ra. + Trò chơi “ Những chiếc tháp tập thể”: Yêu cầu trẻ ngồi xung quanh 1 cái bàn và đưa cho trẻ những khối đồ chơi có hình dáng và kích thước khác nhau. Nhiệm cụ của trẻ là xếp những khối đó thành 1 cái tháp càng cao càng tốt. + Trưng bày các hình ảnh sưu tập: có nội dung mọi người cùng chơi , làm việc với nhau và cho trẻ thảo luận nội dung của các hình ảnh đó. + Cho trẻ tập đóng kịch: theo nội dung các câu chuyện trong chương trình giáo dục mầm non: Đóng kịch “Nhổ củ cải”( có các cảnh mọi người hợp tác với nhau để nhổ được củ cải)…Đóng kịch theo bài thơ “ gấu qua cầu”, theo truyện “ đôi bạn tốt”… 3.3. Kỹ năng tự tin : - Theo một nhà văn, nhà thuyết trình nổi tiếng của Mỹ thì “Nếu bạn thật sự tin tưởng chính mình, nhất định sẽ đạt được ước mơ, bạn có thể bước trên đường bằng phẳng mà người khác cũng sẽ cần bạn hơn”. Vì vậy, một trong những kỹ năng đầu tiên mà tôi cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác,trẻ tự tin làm theo ý tưởng, tự tin bày tỏ cảm xúc của mình với người khác mà không e ngại. KNS này giúp trẻ nhanh chóng thực hiện được mong muốn của mình đồng thời có khả năng hòa nhập với cộng đồng. - Những biện pháp tôi sử dụng để phát triển sự tự tin ở trẻ là: + Luôn tôn trọng, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình: Từ đặc điểm sự tự tin của trẻ bắt nguồn từ lòng tự tôn, một trẻ không có sự tự tôn thì không thể có sự tự tin. Do đó , tôi luôn tôn trọng trẻ, cổ vũ và khích lệ những khả năng của trẻ mọi lúc mọi nơi một cách kịp thời.(Vd: khi trẻ xung phong lên hát trước cả lớp, tôi sẽ khen ngợi là trẻ rất giỏi, rất mạnh dạn…để lần sau trẻ sẽ phát huy điều đó) +Nói cho trẻ biết “ con có thể làm được”: Tôi dùng lời động viên trẻ một cách chân thành, không quá lời khen, nghĩ một nói một nẻo. Và trong mọi việc luôn nói “ con có thể làm được” để dần củng cố niềm tin cho trẻ. +Bồi dưỡng tài năng đặc biệt cho trẻ : Tài năng đặc biệt cũng có thể làm tăng thêm sự tự tin cho trẻ. Tôi căn cứ vào sở thích, niềm đam mê của trẻ để bồi đắp sở trường đặc biệt của trẻ( Vd: trẻ có khả năng vẽ đẹp tôi sẽ tạo nhiều cơ hội ở lớp để trẻ được thể hiện sở trường của mình như vẽ trong các góc, trang trí lớp cùng cô... Đồng thời trao đổi với phụ huynh cho trẻ tham gia các lớp vẽ ngoại khóa để nâng cao tài năng cho trẻ) 11 +Cho phép trẻ mắc sai lầm: Một đứa trẻ nếu không phạm sai lầm sẽ không thể trưởng thành. Cho nên, khi trẻ mắc sai lầm tôi luôn lưu tâm đến sai lầm đó để trao đổi thân thiện, cởi mở với trẻ giúp trẻ hiểu rằng ai cũng có thể mắc sai lầm nhưng điều quan trọng nhất là biết sửa chữa và không bao giờ mắc phải sai lầm đó nữa. Đồng thời không phê bình hay chê bai trẻ quá thẳng thắn sẽ làm trẻ mất hứng thú và tự ti về bản thân mình.( Vd : khi trẻ tranh giành đồ chơi với bạn, tôi sẽ hỏi trẻ xem vì sao lại như vậy, tôi bày ra các trò chơi với món đồ chơi đó để 2 trẻ cùng được chơi với nhau. Sau đó hỏi 2 trẻ xem chơi cùng nhau như vậy có vui hơn là tranh giành nhau không và giáo dục trẻ lần sau không như vậy nữa..) + Quy định hành vi : Đầu năm học tôi đề ra 1 số quy định phù hợp với lớp học nhằm đạt được mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ, tạo thói quen nề nếp tốt cho trẻ. Yêu cầu trẻ trong lớp thực hiện theo các nội quy đó để tạo tính chủ động và làm việc có kế hoạch cho trẻ trong lớp( Vd: Đến giờ thể dục sáng, tôi hỏi trẻ các con nhìn lên lịch xem hoạt động đầu tiên trong ngày hôm nay là gì? Và cho trẻ cùng chuẩn bị hoạt động đó với cô) + Tổ chức các hoạt động phát triển sự tự tin của trẻ : Tôi có thể trò chuyện với trẻ với những câu hỏi như tự tin là gì? Khi con tự tin con cảm thấy như thế nào? Khi không tự tin con cảm thấy ra sao? Hoặc sử dụng những câu hỏi gắn với thực tế của trẻ như “ con hãy kể những việc con muốn tự làm, Con học cách làm này như thế nào? Hãy kể những việc con tự làm, Khi tự làm con cảm thấy như thế nào?”. Qua hoạt động trò chuyện đó giúp trẻ hiểu rằng khi trẻ tự tin là khi trẻ mạnh dạn nói , làm, thể hiện cảm xúc và suy nghĩ cảu mình với mọi người. Nếu trẻ tự tin ở mình thì kết quả hoạt động của trẻ sẽ đạt tốt hơn. Tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm: để trẻ tự làm mọi việc cho bản thân mình càng nhiều càng tốt( Vd: tự lấy đồ dùng học tập, hoặc dạy trẻ cách nhờ 1 người bạn khác giúp đỡ mình 1 việc gì đó..) 3.4. Kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: - Trẻ mầm non cần phải học rất nhiều trong những năm đầu đời : học cách làm chủ ngôn ngữ, học cách nhận biết và đối phó với cảm xúc của mình cũng như của người khác, học cách tin vào mình và can đảm để khám phá thế giới rộng lớn xung quanh. Nếu trẻ không đạt được năng lực xã hội tối thiểu vào khoảng 6 tuổi thì trẻ có thể gặp khó khăn trong suốt cuộc sống sau này - Phát triển kỹ năng này là một nhiệm vụ phức tạp đối với trẻ. Yêu cầu trẻ biết ứng xử theo quy tắc xã hội, biết tạo các mối quan hệ cũng như tương tác với cảm giác thoải mái với những người khác đồng thời biết điều chỉnh hành vi phù hợp với hoàn cảnh. Để giáo dục tốt cho trẻ nội dung này tôi thực hiện 1 số biện pháp sau: + Dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi của mình: 12 Tôi làm cầu nối giúp trẻ biểu lộ cảm xúc của mình và biết lắng nghe ý kiến của người khác. Nếu trẻ bất hòa với bạn khác tôi thường chỉ cho trẻ thấy trẻ chưa đúng ở điểm nào, điểm nào cần khắc phục và điểm tốt nào cần phát huy. Cho trẻ thấy những mối bất hòa thường dẫn đến những cảm xúc tiêu cực như tức giận, sợ hãi, còn nếu chơi đoàn kết với bạn sẽ tạo nên nhưng tình cảm tốt đẹp và tinh thần thoải mái, vui vẻ… + Dạy trẻ cách giải quyết vấn đề: Mỗi tình huống khó khăn mà trẻ gặp phải sẽ có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm sống thông qua việc tìm cách giải quyết vấn đề đó. Cho nên với mỗi tình huống xảy ra hàng ngày tôi đều tận dụng cho trẻ quan sát và gợi ý để trẻ tìm ra cách giải quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất( Vd: khi trẻ làm lăn đồ dùng vào gậm tủ mà tay không với tới được, tôi gợi ý để trẻ biết dùng gậy để lấy đồ dùng đó ra…) + Tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác: Nếu trẻ tương tác với nhau một cách phù hợp, qua đó trẻ sẽ học được các quy tắc ứng xử trong xã hội. Vì vậy, tôi thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể cho trẻ trong lớp như tổ chức sinh nhật, biểu diễn văn nghệ tổng hợp cuối chủ đề, hoạt động góc…để các trẻ được làm việc theo nhóm với nhau. Trong quá trình hoạt động luôn khuyến khích trẻ giao tiếp thỏa thuận với bạn cùng chơi,biểu lộ mong muốn một cách thích hợp, biết giúp đỡ bạn trong khi chơi. + Tổ chức 1 số trò chơi : Hoạt động “ điện thoại bạn bè”: Cho 2 trẻ chơi gọi điện cho bạn ( 2 bạn ở gần nhau). Theo dõi quá trình trò chuyện của trẻ. Sau đó hỏi trẻ : Hai người cùng nói 1 lúc thì có nghe rõ điều gì không? Khi nào con nghe thấy tiếng bạn? Con cảm thấy thế nào khi nghe được, khi không nghe được? (Mục đích giúp trẻ biết lắng nghe người khác nói.) Hoạt động “ chúc bạn chóng khỏe”: Nếu trong lớp có 1 trẻ bị ốm không đến lớp được, Tôi sẽ tổ chức cho trẻ cả lớp làm 1 tấm thiệp để gửi lời thăm hỏi và chúc bạn nhanh khỏe.( Giúp trẻ biết quan tâm và chia sẻ với người khác) 3.5.Kỹ năng học tập: Mặc dù những kiến thức mà trẻ học ở trường mầm non chỉ là sơ đẳng nhưng có vai trò rất quan trọng, là nền tảng vững chắc cho việc học văn hóa ở trường phổ thông sau này. Với trẻ ở lớp tôi, trong mỗi hoạt động tôi đều xác định cụ thể mục tiêu, hướng dẫn cụ thể nội dung, mục tiêu, gợi ý cách thực hiện và cho trẻ trao đổi cách thực hiện với các bạn để trẻ tìm ra cách thực hiện của riêng mình, đồng thời tôi cũng khuyến khích và tuyên dương kịp thời sự sáng tạo của trẻ, giúp đỡ những trẻ thực hiện kém, động viên trẻ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với tâm trạng thoải mái và hứng thú nhất. Kết quả là đa số trẻ lớp tôi đã có ý 13 thức trách nhiệm, có kỹ năng thiết lập và thực hiện mục tiêu trong tất cả các hoạt động, nhất là trong các hoạt động học có chủ đích. *Biện pháp 4: Xác định nhiệm vụ cụ thể trong việc giáo dục trẻ kỹ năng sống. Tôi luôn gương mẫu thực hiện các kỹ năng sống ngay trong môi trường giáo dục của mình để trẻ nhìn thấy và học tập theo. Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, đồng thời phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái, tự tin trong mọi tình huống của cuộc sống. Thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau. Thường xuyên tổ chức hoạt động theo nhóm giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ. Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi với phụ huyng những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải một cách hài hòa nhất. *Biện pháp 5: Làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc cha mẹ cách giáo dục trẻ KNS trong gia đình: Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi trường của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường, một số trẻ còn nhút nhát trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn theo nhóm lớn, nhưng lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết với bạn mới trong môi trường gia đình của trẻ. Tôi trực tiếp trao đổi với Cha mẹ trẻ để có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Cha mẹ hãy hỏi trẻ muốn mời ai về nhà chơi? Mối quan hệ này được trẻ duy trì khi đến trường, khi có được mối liên kết với một trẻ nào đó trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ hình thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn. 14 Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng: đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi với nhau. Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá; chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải học cả đời. Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực và đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ. Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ. *Biện pháp 6: Phối hợp với các bậc cha mẹ thực hiện dạy trẻ các KNS cơ bản - Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. - Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi, tạo các tình huống mở để trẻ khám phá và giải quyết. Tôi đã tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Vì đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn KNS cho trẻ. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng. Ví dụ: Tôi có thể giới thiệu với trẻ về một số hiện tượng tự nhiên qua tranh ảnh, bài hát, hoạt động vui chơi hay các tình huống thực gặp trong ngày.( trời mưa, cầu vồng…Từ đó giáo dục trẻ biết cách tránh mưa…) - Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe Tôi tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như những giờ hoạt động góc ở một nhóm nhỏ, hoặc đọc truyện cho trẻ nghe trong giờ trưa đối với những trẻ khó ngủ. 15 Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ. Ví dụ: Khi kể chuyện “ Ba cô gái” tôi đặt những câu hỏi gợi mở như: Nếu là con khi hay tin mẹ bị ốm, con sẽ làm gì? gợi mở tính tò mò thay đổi đoạn kết của truyện có hậu hơn, đặt tên khác cho câu chuyện v,v…. Trong gia đình, cha mẹ luôn phiên cùng anh chị lớn đọc sách cho trẻ nghe, hoặc thống nhất giờ đọc sách của gia đình, vào giờ đó các thành viên trong gia đình đều đọc sách, báo hoặc đọc một thứ gì đó của mình. Khi trẻ còn nhỏ cha mẹ cần dành ra 15-20 phút / ngày để trò chuyện, đọc sách cho trẻ nghe các loại sách phù hợp với lứa tuổi. Khi trẻ có thể tự đọc được lúc đó việc đọc sách trở thành là niềm vui có giá trị và có ý nghĩa hơn giúp trẻ phát triển sự ham hiểu biết, tìm tòi phát triển nhân cách của trẻ. - Khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ: nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cố gắng không chỉ trích các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động xã hội và các buổi thảo luận sau này. - Giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích tích cực của mình và đảm bảo rằng ngừơi lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó. Ví dụ như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì tôi, cha mẹ có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở góc nhỏ trong nhà. - Cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ dùng đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục.Việc này được thực hiện trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bữa cơm gia đình. Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này. *Biện pháp 7: Biện pháp giúp trẻ phát triển các KNS qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui chơi, lành mạnh trong nhà trường. 16 Nội dung phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Cụ thể như sau: - Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường tổ chức cho giáo viên thi làm đồ chơi dân gian; sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm non. Nhà trường thống nhất lịch sinh hoạt của trẻ qua đó tôi có điều kiện tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian. Đồng thời, phát động phong trào làm đồ chơi dân gian bằng vỏ hộp sữa học đường. Kết qủa có một số bộ đồ chơi dân gian đạt giải cấp trường Duy trì biện pháp tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ hoạt động ngoài trời vào các ngày thứ tư, sáu; riêng chiều thứ hai hàng tuần, trẻ được xem các kịch bản rối qua các câu chuyện cổ tích, được trực tiếp chơi với các con rối, giao lưu thi hỏi đáp về nội dung các câu chuyện. - Tổ chức các hội thi, các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa dạng và phong phú của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho trẻ. Cụ thể tôi đã tổ chức thực hiện các hoạt động nổi bật như sau: - Tổ chức cho học sinh lớp 5-6 tuổi thi góc chơi “khám phá khoa học” theo chủ đề bản thân, tôi lên tiết thực hành giúp trẻ trải nghiệm bằng các giác quan, những trải nghiệm trong đời sống hàng ngày của trẻ - Tổ chức cho trẻ mẫu giáo đến thăm nhà bạn trong chủ đề gia đình theo từng tổ, từng nhóm trẻ. Hoạt động trên nhằm phối hợp với các bậc cha mẹ để có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. - Thường xuyên tổ chức các hoạt động tạo hình vào chiều thứ sáu tuần 1 của tháng có sự tham gia trực tiếp của cha mẹ trẻ cùng hoạt động với trẻ sắp đặt đồ dùng ăn uống, bày bữa tiệc liên hoan mừng ngày tết của cô giáo qua đó rèn luyện cho trẻ kỹ năng sử dụng các đồ dùng ăn uống, dạy trẻ những nghi thức văn hoá trong ăn uống. 17 - Tổ chức cho trẻ tham quan các công trình công cộng ( như trạm y tế, nhà tưởng niệm Bác Hồ…) nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp, giáo dục lòng yêu quê hương đất nước con ngươì. - Tổ chức ngày hội “ Bánh chưng, bánh giày” lồng ghép giáo dục qua câu chuyện lịch sử “Sự tích bánh chưng, bánh dày”. Hoạt động vui chơi giải trí này còn dành thời gian cho học sinh khối 5 tuổi thực hành chuyên đề “Bé tập làm nội trợ”qua hội thi gói bánh chưng ngày tết, kết hợp tổ chức cho cô nuôi thi tuyên truyền viên giỏi. - Tổ chức hội diễn văn nghệ mừng xuân cho trẻ tại các góc chơi với chủ đề “ Bé hát dân ca” thi “Trang phục dân gian”, tổ chức các gian hàng ẩm thực mùa xuân, trò chơi dân gian, thi giải câu đố hay…. - Tổ chức cho trẻ lớp 5 tuổi tham quan, vui chơi các trò chơi dân gian trong dịp đầu xuân như: Đập heo, lò cò, cướp cờ tại sân vận động hoặc nhà văn hoá xã, giúp trẻ có dịp đến tham quan tìm hiểu nét văn hóa đặc trưng ở địa phương. - Tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ qua hội thi “ Vẽ những điều mơ ước cho mẹ”, tổ chức hoạt động phát triển tư duy qua một số hội thi có sự tham gia trực tiếp của cha mẹ để cùng chơi với trẻ qua đó rèn luyện tính kiên nhẫn, kỹ năng hợp tác với cha mẹ, ông bà để chiến thắng yêu cầu thử thách của luật chơi, phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ. *Biện pháp 8: Tạo môi trường thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ dạy trẻ KNS - Để thuận lợi trong việc giáo dục KNS cho trẻ tôi đã trang bị các bảng thông tin dành cho phụ huynh, dán các nội dung cần phối hợp với phụ huynh vào đó để các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng giúp nhà trường tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở con mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại các bậc cha mẹ có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo viên. - Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách cho con trẻ. Tại lớp, tôi đã trang trí, sắp xếp góc thư viện và văn học, để nơi dễ hoạt động với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề: “Thư viện trường mầm non”; “tủ sách gia đình”; “dinh dưỡng trẻ thơ”; “những con vật đáng yêu”; “hoa trái bốn mùa”; thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cỡ, vừa tầm với của trẻ. Ngoài ra, tôi tiếp tục thực hiện việc xây dựng thư viện cho bé tại nhóm, lớp, vận động cha mẹ thừơng xuyên tặng sách cho góc thư viện của trẻ tại trừơng, tại lớp và ngay ở gia đình. 18 - Tham mưu với ban giám hiệu trang trí sân trường bằng các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên, người lớn phải gương mẫu như: “Yêu thương, tôn trọng trẻ, giữ lời hứa với trẻ”; “Mỗi cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” bằng chính hình ảnh giáo viên và học sinh của trường, đặc biệt chú ý đưa hình ảnh đẹp của các trẻ hiếu động, cá biệt để từ đó giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi, giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, là điều kiện để khen ngợi sự cố gắng của trẻ. - Tạo nguồn kinh phí từ phụ huynh để mua thêm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc học và chơi để trải nghiệm của trẻ. 8. Những thông tin cần bảo mật. Không có 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến. Cơ sở vật chất: Tài liệu hướng dẫn phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Nhóm lớp có đủ đồ dùng, trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học. Kế hoạch thực hiện cụ thể cho năm học, cho từng tháng, từng tuần. Môi trường sư phạm nhà trường. Phụ huynh , học sinh lớp 5 – 6 tuổi. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác gia và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu. 10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các thành viên trong tổ và các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc giáo dục trẻ lớp mình các KNS cơ bản thể hiện ở kết quả khảo sát lần 2 vào tháng 2 năm 2018 đã đạt được như sau: * Kết quả trên trẻ: Trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển. Trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tình tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin. Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của trẻ; ngoài ra , trẻ được rèn luyện kỹ năng vận động 19 tinh, kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục Aerobic. Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt và chăm ngoan rất cao từ 98% trở lên và ít gặp khó khăn khi ở lớp, trẻ có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự xếp khay để khăn ăn bằng vỏ hộp sữa, tự chuẩn bị khăn ăn, chén, tô, muỗng ….trong các giờ ăn, biết tự mở, tự rửa vỏ hộp sữa sau khi uống sữa học đường cho cô giáo làm đồ chơi, biết phân công trực nhật sắp xếp bàn ăn, tự xếp chăn và gối trước và sau khi ngủ ... Đa số trẻ có các kỹ năng học tập tốt, biết cố gắng hoàn thành công việc của mình đến cùng, biết kết hợp với nhóm bạn trong các hoạt động hàng ngày. Kết quả cụ thể như sau: (Bảng phải thể hiện kết quả lần 1 và 2 để so sánh) Tên kỹ năng Xếp loại Tốt Khá Đạt Chưa đạt - Nhóm KN nhận thức về bản thân 25= 83.3% 5=16,7% 0 0 - Nhóm kỹ năng tương tác 26=86.7% 4=13.3% 0 0 - Nhóm kỹ năng quản lí cảm xúc 27=90% 3=10% 0 0 - Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan 25=83.3% hệ xã hội 5=16.7% 0 0 - Nhóm kỹ năng học tập 6=20% 0 0 24=80% * Kết quả từ phía các bậc cha mẹ: Các bậc phụ huynh đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với GV trong việc giáo dục trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp, qua giờ đón trả trẻ… Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn,cha mẹ nói năng dịu dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên cầu thang, tự xúc cơm ở trẻ nhỏ ….. Cha mẹ cảm thấy hài lòng với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường, luôn thông cảm, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, làm đồ dùng đồ chơi và trang trí lớp. 10.2. Đánh giá lơi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan