Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Skkn một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt bậc học thpt...

Tài liệu Skkn một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt bậc học thpt

.PDF
23
197
150

Mô tả:

SƠ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI TRƯỜNG THPT SỐ 2 BẮC HÀ N À M ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT TRƯỜNG THPT Người thực hiện: Nguyễn Thị Dung Tổ: Lý – Tin – Công nghệ Năm học 2017 - 2018 2 MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ..................................................................................... 4 PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ…………………………………………………………………….5 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................ 5 2. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................................... 6 3. Kết quả cần đạt ................................................................................................................... 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 6 5. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................................... 6 PHẦN II - NỘI DUNG………………………………………………………………………6 I. Cơ sở lý luận ....................................................................................................................... 6 II. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................................... 7 1. Nguyên nhân khách quan.................................................................................................. 8 2. Nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em ........................................................ 10 III. Thực trạng về học sinh đặc biệt Trường THPT số 2 Bắc Hà ................................ 10 IV. Biện pháp nghiên cứu .................................................................................................... 12 1. Biện pháp giáo dục bằng tâm lý: Cô giáo phải “nhịn” học sinh .................................. 12 2. Cảm hóa học sinh đặc biệt ............................................................................................... 14 3. Viết thư cho các em học sinh ........................................................................................... 15 4. Trò giúp trò ....................................................................................................................... 15 5. Làm bạn với các em .......................................................................................................... 16 6. Biện pháp giáo dục bằng tập thể ................................................................................... 16 7. Kết hợp với phụ huynh học sinh ..................................................................................... 18 8. Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn ......................................................................... 19 9. Kết hợp giáo dục với Đoàn thanh niên ........................................................................... 20 10. Giáo viên chủ nhiệm với chính quyền địa phương và các các tổ chức xã hội ........... 21 PHẦN 3 – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................................ 21 PHẦN 4 – KẾT LUẬN ......................................................................................................... 23 3 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Trung học phổ thông Học sinh đặc biệt Học sinh Trung học chuyên nghiệp Giáo viên chủ nhiệm Giáo viên bộ môn Chữ viết tắt THPT HSĐB HS THCN GVCN GVBM 4 PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Mục tiêu giáo dục của bậc THPT là “ … Phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ , thể chất , thẫm mỹ và các kỹ năng cơ bản của nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa có trình độ học vấn THPT và những hiểu biết về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THCN, học nghề hoặc đi vào cuộc sống ”. Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Trường học là nơi giáo dục học sinh (HS) phát triển toàn diện trở thành con người hữu ích cho xã hội, có ý thức học tập nghiêm túc, chấp hành đúng nội qui lớp học, trường học, chấp hành đúng pháp luật. Nhưng hiện nay, ở hầu hết các trường THPT đều xuất hiện một bộ phận HS không chấp hành tốt nội qui nhà trường, lớp học, học tập không nghiêm túc, không tham gia các hoạt động giáo dục … làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền nếp chung của lớp và chất lượng học tập giảm sút. Đối tượng HS này thường được gọi là học sinh đặc biệt (HSĐB) có xu hướng phát triển. Nhà trường, giáo viên cũng đã có nhiều biện pháp uốn nắn, giáo dục nhưng chưa có hiệu quả. Giáo dục đạo đức cho học sinh đặc biệt là một trong những nhiệm vụ thiết yếu trong nhà trường THPT, hạn chế được những đối tượng HS yếu về mặt đạo đức là góp phần vào chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Thế nhưng thực tế trong các trường THPT hiện nay một bộ phận học sinh đặc biệt dường như trường nào cũng có, lớp nào cũng có và năm nào cũng có. Sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp và quan sát một cách có hệ thống về học sinh đặc biệt ở các lớp ở bậc THPT, bản thân tôi gặp không ít đối tượng học sinh đặc biệt nhưng mỗi em một vẻ đặc biệt khác nhau, đòi hỏi trong quá trình giáo dục phải có nhiều sáng tạo mới có hiệu quả được. Qua tìm tòi học hỏi ở đồng nghiệp, tham khảo phương pháp giáo dục trên các tạp chí giáo dục, trên truyền hình, vận dụng vào quá trình công tác chủ nhiệm lớp bản thân tôi cũng rút ra được một vài kinh nghiệm. Vì vậy “Giáo dục học sinh đặc biệt trong lớp chủ nhiệm” được chọn làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi. Trong phạm vi đề tài này tôi mong muốn được góp một phần 5 nhỏ bé của mình tạo nguồn dồi dào về biện pháp giáo dục học sinh góp phần nâng cao hơn nữa thực chất chất lượng giáo dục hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu Giáo dục về tâm lý, tư tưởng, hành vi của một số học sinh đặc biệt trong lớp chủ nhiệm. 3. Kết quả cần đạt Các em có nhận thức đúng đắn về học tập, các hành vi của bản thân, có trách nhiệm với bản thân, với tập thể lớp, ngày một tiến bộ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Khái niệm học sinh đặc biệt, biểu hiện của học sinh đặc biệt và các biện pháp giáo dục học sinh đặc biệt. Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp chủ nhiệm 12A5 – trường THPT số 2 Bắc Hà 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn dẫn đến hành vi, tâm lý, tư tưởng sai lệch của các em trở thành học sinh đặc biệt. Các biện pháp giáo dục (độc lập hoặc kết hợp) để giáo dục học sinh đặc biệt. PHẦN II - NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận Học sinh đặc biệt là thuật ngữ thường dùng của nhà trường, thầy cô giáo chỉ những học sinh hay nghịch: thường gây gổ đánh nhau, bỏ giờ, trốn học … , không chấp hành nội qui nhà trường … thêm vào đó là sự lôi kéo của bạn bè về phía mình nhằm thỏa mãn cá tính hoặc thỏa mãn nhu cầu giải tỏa tâm lý bị ức chế về hoàn cảnh của bản thân mình. HSĐB là hiện tượng tâm lý ở lứa tuổi thanh thiếu niên, nó dễ bị lôi cuốn làm cho HS dễ bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu dẫn đến tình trạng bỏ học giữa chừng và có nguy cơ phạm tội, đây là nỗi day dứt của nhà trường, gia đình và xã hội . Ở lứa tuổi các em, lứa tuổi đang có sự mất cân bằng về mặt tâm sinh lý, việc các em mong muốn trở thành người lớn trong khi các em chưa có sự hiểu biết cùng với hoàn cảnh sống mỗi em một khác nhau, có em may mắn nhận được sự tư vấn kịp thời của cha mẹ khi ở trong trang thái thiếu cân bằng ấy, có 6 em không được sự quan tâm đúng mức, có em thì bố mẹ ly tán, có em thì lại được quá chiều chuộng... Từ sự khác biệt trên nảy sinh ra những hiện tượng đặc biệt trong học sinh và chính một bộ phận học sinh này đã gây không ít khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm lớp (GVCN). Những biểu hiện đặc biệt của học sinh lại rất khác nhau về mặt hình thức cũng như mức độ nên GVCN lớp cũng rất khó trong việc phát hiện và có biện pháp xử lý thích hợp. Thông thường trong khi làm công tác chủ nhiệm lớp, GVCN thường quan tâm đến những đối tượng học sinh đặc biệt nổi trội mà ai cũng nhìn thấy được, từ đó GVCN tìm hiểu tính cách đặc biệt của các em do những nguyên nhân nào để có hướng giáo dục thích hợp. Có những trường hợp học sinh đặc biệt nhưng không có biểu hiện rõ, khó phát hiện nhiều khi GVCN cũng lầm tưởng nên chưa có được phương pháp giáo dục thích hợp. Không ít GVCN lớp cho rằng việc giáo dục HS đặc biệt quả là một việc vô cùng khó, có lúc cho rằng đó là bản chất của các em. Sinh thời Bác Hồ đã từng nói: “ Ngủ thì ai cũng như lương thiện Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên" Bản chất con người - học sinh là lương thiện, nhưng do những yếu tố khác nhau làm ảnh hưởng đến đời sống, tâm lý của học sinh nên các em có những biểu hiện khác nhau. Ở lứa tuổi các em cần có sự hỗ trợ, tư vấn của người lớn hay nói cách khác các em cần có sự giáo dục và các em rất cần đến chúng ta, không việc gì phải bi quan về hiệu quả giáo dục của mình, muốn đạt được hiệu quả cao chúng ta cần có tâm huyết, năng động sáng tạo đồng thời có sự kiên trì, nhất định chúng ta sẽ thành công. II. Cơ sở thực tiễn Theo quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác- Lê nin: "Bản chất con người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội", như vậy những hiện tượng học sinh đặc biệt được nêu trên đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên hoặc tình cờ mà có, tất cả đều có những nguyên nhân nhất định. Ở đây chỉ nêu một số nguyên nhân tác động trực tiếp đến HS làm nảy sinh những tư tưởng, tình cảm không lành mạnh làm ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách và làm hạn chế đến năng lực học tập của các em: 7 1. Nguyên nhân khách quan a, Nguyên nhân từ phía gia đình Thời gian HS học tập, sinh hoạt ở nhà trường chỉ từ 4-5 giờ trong ngày, việc sinh hoạt học tập đều có sự quản lí hướng dẫn của GVCN, GVBM, cán bộ lớp, nhà trường, đó là điều kiện để các em học tập tốt và rèn luyện nhân cách. Nhưng phần lớn thời gian các em sinh hoạt ở gia đình: tự học, lao động, vui chơi. Với thời gian đó đối với hầu hết HS đều có thời khóa biểu học tập ở nhà, ý thức được việc học tập ở nhà là thời gian giúp các em ghi nhớ lại bài cũ, luyện tập và nghiên cứu bài mới, chuẩn bị cho ngày học hôm sau, đồng thời tham gia giúp đỡ công việc gia đình. Đó là những HS thực sự tự giác trong học tập và được sự quản lí giáo dục của gia đình . Nếu các em chưa ý thức được việc học tập, đồng thời gia đình không quan tâm và không tạo điều kiện cho các em học tập thì việc học tập các em không đến nơi đến chốn, chất lượng học tập bị ảnh hưởng, các em học tập yếu, thua sút bạn bè dẫn đến chán học, bỏ học . Như vậy, HSĐB phát sinh từ những ảnh hưởng không tốt của môi trường giáo dục gia đình, đó là: * Nhận thức của bố mẹ Có nhiều gia đình ở vùng cao, hẻo lánh, bố mẹ có nhận thức chưa đúng đắn về tư tưởng, giáo dục con cái nên ảnh hưởng lớn đến tư tưởng, việc học của con như: Vì nhà ở xa, cho con ở bán trú học nhưng khi gia đình không có người ở nhà trông nhà hay không có người chăn trâu, hay vào vụ lúa, vụ ngô, vụ sắn là lại gọi con về làm, có em học sinh phải về nhà làm có khi phải nghỉ học đến 3, 4 ngày. Nhiều bố mẹ cứ phó mặc giáo dục con cho nhà trường, “trăm sự nhờ thầy cô”, nên thời gian ở nhà các em bị buông lỏng. * Gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn Từ những khó khăn về đời sống kinh tế, cha mẹ phải lao động vất vả, không quan tâm đến việc học tập của con em, phó mặc cho nhà trường, có gia đình buộc con cái phải lao động, làm cho các em không có thời gian học tập ở nhà như soạn bài, học bài cũ, do đó khi đến lớp việc tiếp thu bài mới rất khó khăn, không làm được bài kiểm tra, lo lắng sợ sệt khi thầy cô giáo kiểm tra bài cũ .. từ đó thua sút bạn bè và phát sinh tâm lí chán học dẫn đến bỏ giờ trốn học, bỏ học. Có gia đình không sắm đủ cơ sở vật chất cho con đi học, tâm lý các em không có tiền đóng học dẫn đến bỏ học. * Gia đình chỉ lo làm ăn, không quan tâm đến việc học của con cái 8 Nhiều gia đình vì kế sinh nhai, cả vợ chồng đều đi làm ăn xa, phó mặc con cái cho ông bà hoặc chị em chăm sóc lẫn nhau, một số HS chưa tự giác và thiếu sự quản lí chặt chẽ của người lớn nên nảy sinh những tư tưởng không lành mạnh, từ đó ham chơi mà trốn học, bỏ học. Có gia đình tuy không khó khăn về kinh tế nhưng có tham vọng làm giàu, bỏ mặc con cái, không quan tâm đến việc học tập của con cái kể cả những thói hư tật xấu của con cái, cha mẹ cũng không biết để răn dạy, do đó từ những vi phạm nhỏ dần dần đến việc lớn. * Gia đình có cha mẹ bất hòa, không có hạnh phúc Lứa tuổi các em rất nhạy cảm, bố mẹ bỏ nhau, những cuộc cãi vã của cha mẹ, sự to tiếng quát nạt, bạo lực của người cha làm cho các em dần dần bị ảnh hưởng, từ đó nẩy sinh những việc làm không lành mạnh thích đánh nhau để giải tỏa tâm lý, bị ức chế, bỏ nhà đi chơi không thíêt tha đến việc học, từ đó lực học giảm sút dẫn đến chán học, bỏ học. Ngoài ra, gặp hoàn cảnh gia đình có người cha nát rượu, cũng ảnh hưởng rất lớn đến HS làm các em trở thành HSĐB. Một số học sinh đặc biệt 12A5 chịu ảnh hưởng lớn từ phía gia đình như học sinh Giàng Xuyến Sài ở nhà anh em tự lo lấy nhau, bố mẹ đi làm ăn bên Trung Quốc nên các em có cuộc sống tự do tự tại không có sự quản lý của bố mẹ nên đôi lúc các em còn “hoang dã” thích thì làm không thích thì thôi, nên khi các em vi phạm GVCN rất khó xử lý vì không có sự phối hợp của gia đình. Học sinh Nguyễn Tuấn Anh bố mẹ bỏ nhau, bố đi làm xa, ở nhà với bác. Em thiếu sự giáo dục của bố mẹ, bác dạy bảo nhưng cũng không thể mạnh tay như bố mẹ, em quen kiểu thích làm gì thì làm, ở nhà trường em thường xuyên không học bài, không làm bài, đi học muộn, trong lớp nói chuyện, nhận thức của em rất yếu, suy nghĩ nông cạn, em cho rằng mọi việc đều đơn giản… GVCN muốn trao đổi với bố mẹ em để có biện pháp giáo dục em cũng khó. b. Nguyên nhân về phía nhà trường Đây là ngôi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gởi gắm niềm tin vào việc giáo dục con em của họ, từ đây các em được học tập, được hiểu biết, được lớn lên về mọi mặt. Thời gian các em tham gia giáo dục ở nhà trường chỉ chiếm 1/3 thời gian trong ngày, nhưng nhiều gia đình cứ phó mặc cho nhà trường, trăm sự nhờ thầy cô. Nên để đạt được đúng như điều vừa nêu không phải là dễ, trong thực tế cũng có một vài thầy cô giáo chưa nhiệt tình, chưa thật sự yêu nghề, chưa có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nên chưa nhiệt tình với các em, chưa thật sự là nơi đáng tin cậy, có thầy cô nhiệt huyết với nghề quá nên khi các em lười học, hay vi phạm lại nói nặng lời với các em. Cũng có một vài 9 thầy cô giáo do cách cư xử chưa phù hợp nên đối xử thiếu công bằng với các em, ngại khó khi phải giáo dục những em đặc biệt, cáu giận, ... đã làm mất lòng tin ở các em, tạo ra một khoảng cách không đáng có giữa thầy và trò và chính điều này đã dẫn đến biểu hiện chống đối lại từ phía HS. c. Nguyên nhân về phía môi trường xã hội Ngoài môi trường gia đình và nhà trường ra, học sinh còn phụ thuộc rất lớn vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình văn hoá khác nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh thiếu niên. Các loại hình dịch vụ như Internet, bi da, caraoke... đã lôi kéo không ít học sinh vào đam mê những trò chơi vô bổ. Hiện tượng học sinh trốn học để chơi điện tử, bi da, đánh bạc... là chuyện thường ngày, có cả em hết tiền nảy sinh hành vi trộm cắp, cướp giật. 2. Nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, lứa tuổi mà suy nghĩ còn non nớt, nhận thức chưa cao chính vì thế các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không thể tránh khỏi. Những HS đặc biệt ta thường gặp phần lớn là những em có năng lực học tập yếu kém, điều đó cũng hoàn toàn dễ hiểu bởi nhận thức của các em kém thì làm sao có hành động tốt được. Việc hạn chế trong tiếp thu kiến thức của các em cũng dẫn đến sự lười biếng, chán nản, muốn phá phách, nhất là đối với HS nam. Xét ở một khía cạnh khác thì cũng có thể các em vì tự ái về sự chê cười của thầy cô và bè bạn, các em muốn chứng minh cho mọi người thấy rằng mình học không tốt nhưng mình có thể nổi trội hơn về mặt khác, hoặc các em muốn thầy cô chú ý mình hơn chẳng hạn, chính vì thế mà các em có những hành động vượt ra khỏi những quy định chung. III. Thực trạng về học sinh đặc biệt Trường THPT số 2 Bắc Hà Qua theo dõi đã phát hiện những năm gần đây, hiện tượng HSĐB có phần gia tăng và ở nhiều cấp độ khác nhau. Nó đã để lại hậu quả như một “di căn” sau những vụ việc xãy ra ở các trường THPT: học sinh xích mích nhỏ dẫn đến đánh nhau, học sinh nữ đánh nhau, lười học, thường xuyên bỏ học đi chơi điện tử, vô lễ với thầy cô giáo, thường xuyên vi phạm nội quy nhà trường ... và những hành vi khác của thanh thiếu niên, học sinh tác động trực tiếp đến học sinh đang học trong nhà trường. 10 - HSĐB tăng theo xu thế phát triển của xã hội theo “cơ chế thị trường” ở khía cạnh tiêu cực . Học sinh đặc biệt biểu hiện ở nhiều khía cạnh, trạng thái khác nhau, tạm chia làm 4 nhóm: 1- Gây gổ đánh nhau, kết bè thành băng nhóm. 2- Bỏ giờ trốn học đi chơi điện tử dẫn đến học tập sa sút hơn. 3- Quậy phá, thiếu nghiêm túc trong học tập. 4- Thường xuyên vi phạm nội quy trường lớp, ương ngạnh, học đòi, không nghe lời thầy cô giáo, ý thức tổ chức kỷ luật kém. *Ở nhóm thứ 1: Học sinh thường có thể lực phát triển, phát sinh tâm lý đua đòi, làm “anh hùng” ở tuổi mới lớn; tuổi dễ bị kích động, lôi kéo thành băng nhóm, thích gây gổ đánh nhau … giữa HS trong lớp, trong trường và ngoài nhà trường, học sinh dễ gây sự để lấy lý do đánh nhau: nhìn nhau cũng cho là nhìn đểu, trêu đùa bạn bè của nhau. *Ở nhóm thứ 2: Một bộ phận HS vì điều kiện học tập thiếu, tiếp thu chậm dẫn đến năng lực học tập hạn chế, thường không thuộc bài, sợ bị kiểm tra ở những môn học khó, hoặc thầy cô khó, nên bỏ giờ dần dần thành thói quen hay bỏ giờ trốn học và từ đó lực học sa sút và có khả năng bỏ học giữa chừng hoặc do bạn bè lôi cuốn vào những trò chơi vô bổ mà bỏ giờ trốn học. Có nhiều học sinh ở vùng sâu ra, do tò mò bị bạn bè rủ rê lôi kéo nên tham gia chơi điện tử, rồi thành ham, bỏ học đi chơi. *Ở nhóm thứ 3: Như ở nhóm 2, HS do đặc điểm tâm sinh lý phát triển không bình thường, không tập trung nghe giảng, tiếp thu hạn chế, không hiểu bài dẫn đến ý thức học tập kém, thường xuyên quậy phá, không tập trung cho việc học tập, biểu hiện: xé sách vở của bạn, “phá” bạn và những trò chơi ngớ ngẩn khác trong giờ học. Những HS này dần dần lực học giảm sút, dẫn đến bỏ giờ trốn học và bỏ học . *Ở nhóm thứ 4: Một số ít HS biểu hiện tính ương ngạnh, bướng bỉnh, không chấp hành những qui định của lớp, khi được lưu ý nhắc nhở, có vẻ ăn năn sửa sai nhưng rồi vẫn “chứng nào tật ấy” rồi thường xuyên vi phạm bất chấp sự góp ý của bạn bè, sự giáo dục của thầy cô giáo, kể cả những hình phạt cho những vi phạm vẫn không chấp hành: chẳng hạn như tác phong không nghiêm túc: áo không bỏ vào trong quần, tay áo xắn lên, ống quần gấp cao, in hình quái dị, tóc chải rẽ giữa, nhuộm màu, để đuôi sau, bấm lỗ tai, mặt dán kim tuyến, nói tục với bạn bè, không tham gia sinh hoạt lớp, tách rời tập thể. 11 Tình hình học sinh trong trường THPT số 2 Bắc Hà có học sinh đặc biệt, nhưng tình hình không quá nghiêm trọng. Đôi lúc do bản tính của tuổi mới lớn các em đã có những xích mích dẫn đến đánh nhau nhưng chỉ ở dạng bộc phát chứ không phải có tổ chức. Có một số học sinh do ham chơi, mê điện tử, chán học, lười học nên các em thường xuyên nghỉ học đi chơi, không cần thiết, không lo lắng đi học, khi các em có lên lớp học thì cũng không học bài, không làm bài. Một số em ở trên vùng cao xuống học, các em còn mang tính chất vùng miền, thiếu sự dạy dỗ chỉ bảo, nên tính tình các em còn “hoang dã”, hay nói trống không, không chào hỏi, hay dỗi vặt, tự ái. Các em ở độ tuổi mới lớn, tâm lý chưa ổn định, đôi lúc thích “ra oai” nên chỉ một chút hiểu lầm hay chỉ là trêu bạn của mình, tán người yêu của bạn, vậy là nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến đánh nhau, tuy nhiên mới chỉ ở mức độ nhỏ, chưa thực sự nghiêm trọng đã được thầy cô giải quyết kịp thời. Ngoài ra còn một bộ phận thường xuyên vi phạm đầu tóc, trang phục. Các em có xu hướng làm theo các fan hâm mộ về mặt nghệ thuật, ca nhạc nên cắt các mái tóc không giống phong cách học sinh. Riêng đối với lớp 12A5, có một số em là học sinh đặc biệt, tuy nhiên các em vẫn còn thuần tính, chưa phải ở mức độ nghiêm trọng. Chủ yếu ở nhóm 2 và nhóm 4. Học sinh Nguyễn Tuấn Anh là một học sinh rất lười học, bài tập về nhà em không làm. Em chỉ mang sách vở đi, rồi mang sách vở về, soạn thời khóa biểu lại đến lớp, lực học yếu, thầy cô nào hay kiểm tra, đến tiết đó nói đau bụng xống phòng y tế nằm, hết tiết lại lên lớp học bình thường. Học sinh Giàng Xuyến Sài không thực hiện nội quy bán trú, thường xuyên trốn bán trú đi chơi, nghỉ học ôn thi THPT, đi xe máy không đội mũ bảo hiểm. Học sinh Sải Vần Thức, Lâm Văn Lực mang vũ khí đến trường, gây gổ đánh nhau. Học sinh Sin Văn Đạt thường xuyên nói tự do trong lớp, lười học, có thái độ thiếu tôn trọng giáo viên. Học sinh Lê Hoàng Vũ vi phạm an toàn giao thông, đeo khuyên tai, đi dép lê đi học… Ở tất cả các nhóm HSĐB trên đều ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách và năng lực học tập của học sinh. Dù ở nhóm HSĐB nào nếu chúng ta không kịp thời uốn nắn, giáo dục các em thì dễ dẫn đến các em từ những vi phạm nhỏ đến việc làm không có ý thức khác, rồi bỏ học và có nguy cơ trở thành tội phạm. IV. Biện pháp nghiên cứu 1. Biện pháp giáo dục bằng tâm lý: Cô giáo phải “nhịn” học sinh Mối quan hệ giữa thầy cô và học trò là mối quan hệ đặc biệt và cao đẹp trong xã hội. Nền giáo dục hiện tại, thầy trò ngày nay có tình cảm thân mật gắn 12 bó hơn, có như vậy thì chúng ta mới thực hiện tốt được nhiệm vụ giáo dục toàn diện được. Bởi có quan hệ gần gũi thì mới biết được những tâm tư nguyện vọng của các em chúng ta mới có những biện pháp giáo dục thích hợp được. Đối với học sinh đặc biệt việc gần gũi với các em quả là một vần đề không đơn giản, nếu GVCN thiếu tế nhị một xíu thì khó mà có thể gần gũi với các em được, chẳng hạn thường xuyên phê bình, dùng nhiều lời xúc phạm đến các em ... đều có thể làm tổn thương đến mối quan hệ này. Hơn nữa vì các em thường xuyên vi phạm nên các em càng lẩn tránh tiếp xúc với giáo viên nhất là giáo viên chủ nhiệm lớp. Để thấy được hết cá tính của học sinh, GVCN cần tạo đựơc mối quan hệ gần gũi với các em, thật sự là chỗ dựa đáng tin cậy nhất sau cha mẹ của các em. Chú ý khi giao tiếp với các em ta phải luôn cởi mở, chân tình, vui vẻ dễ cảm hóa được các em, khi có được mối quan hệ tốt các em sẽ thổ lộ những tâm tư tình cảm với GVCN mà không một chút ngần ngại. Những lời khuyên răn dạy bảo của chúng ta sẽ có tác dụng lớn đối với các em. Đặc biệt đối với trường hợp học sinh đang trong giai đoạn giáo dục trở lại, chỉ cần lệch một chút kết quả đã khác rồi. Có nhiều em đang trên đà tiến bộ nhưng có thể một vài hôm sau, do có những biến đổi về tâm lý, do bạn bè xấu lôi kéo, rất có thể sẽ quay trở lại con đường cũ. “Công tác giáo dục phải luôn kiên trì, nhẫn nại, không phải lúc nào cũng thành công. Vì vậy, đòi hỏi người giáo viên phải có tâm với nghề và phải tùy cơ ứng biến trong từng trường hợp cụ thể”. Giáo viên dành thời gian để trò chuyện để nắm bắt suy nghĩ và mong muốn của các em. Tôi không quá quan tâm vì sao các em lại hư hỗn như thế mà hãy coi các em này như một tờ giấy trắng để giáo dục lại từ đầu. Giáo viên hãy để tâm đến các em bằng việc giao tiếp và trao đổi. Với những học sinh nổi tiếng cá tính, bướng, không chịu nghe lời, cần phải tìm hiểu được trong sâu thẳm các em này đang sống vì điều gì. Riêng đối với học sinh lớp tôi, có học sinh dân tộc thiểu số, các em không ưa mắng, các em chỉ thích được nhẹ nhàng, được tâm sự, được thầy cô quan tâm đến đời sống, gia đình các em là các em thấy vui. Ví dụ như học sinh Giàng Xuyến Sài lớp tôi: là một học sinh học khá yếu, hay trốn bán trú đi chơi. Sau khi nghỉ tết, em có tư tưởng không muốn học, muốn bỏ học đi làm. Lúc đầu tôi cũng bực mình vì học lớp 12 rồi, chỉ còn vài tháng nữa là thi để lấy được bằng tốt nghiệp. Sau khi trấn tĩnh tinh thần, ngồi tâm sự với em, do hoàn cảnh em là bố mẹ đi làm bên Trung Quốc, lâu không về, mọi việc ở nhà anh em tự lo cho nhau, bố mẹ thiếu sựu quan tâm. Tôi cũng tâm sự và an ủi động viên em cố gắng khắc 13 phục hoàn cảnh, cố gắng học tập tốt để bố mẹ yên tâm, làm gương cho em. Và từ hôm đó, em có tiến bộ hơn nhiều, em đi học đều hơn, đặc biệt học tập có tiến bộ, thầy giáo dạy Toán khen ngợi, tôi cảm thấy vui vì em đã thay đổi, tôi vẫn thường xuyên động viên em để em tiếp tục phát huy. 2. Cảm hóa học sinh đặc biệt Người giáo viên chủ nhiệm tinh tế là người biết nắm rõ tâm lý học sinh đặc biệt, cảm hóa các em để các em nhận ra những điều sai mà mình đã làm, từ đó biết sửa lỗi, và ngày trở lên tiến bộ hơn sẽ là điều tuyệt vời nhất. Đầu tiên, cần giành thời gian tìm hiểu về tình hình học tập trên lớp cũng như hoàn cảnh gia đình của học sinh đó để đưa ra từng cách thức cảm hóa thích hợp đối với từng học sinh đặc biệt. Mỗi học sinh có một tâm lý và tính cách khác nhau. Bởi vậy không thể áp dụng cùng một phương pháp cho tất cả các học sinh đặc biệt được. Theo các chuyên gia tâm lý giáo dục thì phần lớn tính cách nghịch ngợm và mọi hành vi chống đối trong học tập của học sinh hầu hết đều bắt nguồn từ hoàn cảnh gia đình như bố hoặc mẹ ly dị, gia đình khó khăn, bị người lớn bạo hành thể xác hay tinh thần… Nên phương pháp sư phạm tốt nhất đó là người thầy phải thật sự nhẫn nại, thông cảm với hoàn cảnh của học sinh để có thể cảm hóa được các em. Không gọi những học sinh nghịch ngợm, khó bảo trong lớp bằng những từ ngữ khó nghe như “học sinh đặc biệt”, “bất trị”, “vô học”, “hư hỏng” bởi khi bước vào độ tuổi mới lớn, học sinh rất dễ tự ti và mặc cảm về bản thân, hình thành nên suy nghĩ thầy cô, bạn bè đều ghét bỏ mình. Từ đó khoảng cách giữa thầy vào trò càng lớn hơn, các em sẽ tự cô lập mình lại, ít giao lưu, tiếp xúc với tập thể lớp. Không lạm dụng hình thức thông báo với gia đình học sinh về những việc làm vi phạm kỉ luật trường, lớp của các em hay sử phạt quá khắt khe, nhắc đi nhắc lại nhiều lần lỗi vi phạm. Như vậy sẽ làm chai lì cảm xúc của học sinh và học sinh sẽ thể hiện sự chống đối quyết liệt hơn. Phát hiện ra những điểm mạnh ở học trò của mình như năng khiếu thể thao, năng khiếu văn nghệ và tạo cơ hội để học sinh được thể hiện năng khiếu đó của mình. Từ đó làm các em tự tin hơn trong việc hòa đồng với thầy cô và tập thể lớp, dần dần có sự hợp tác đối với các phương pháp dạy học tích cực của thầy cô. Nhẹ nhàng phân tích những ưu khuyết điểm những đúng sai trong nhận thức và hành động của học sinh vào lúc thích hợp như những buổi học ngoại 14 khóa, liên hoan của tập thể lớp. Phương pháp sư phạm đúng đắn đó là thầy cô phải thể hiện niềm tin tưởng vào học sinh, khích lệ được sự phấn đấu của các em. Không nên bắt học sinh viết quá nhiều bản kiểm điểm trong một tuần hoặc trong một tháng và mong muốn học sinh của mình phải sửa đổi khuyết điểm nhanh chóng bởi đổi với học sinh, sự thay đổi theo hướng tích cực cần có một quá trình lâu dài. Thầy cô hãy đứng sau theo dõi và kịp thời điều chỉnh sự thay đổi đó. Vận dụng linh hoạt “lạt mềm buộc chặt”, “mềm nắn rắn buông”. Dù rất gần gũi với các em nhưng luôn phải giữ một khoảng cách nhất định của thầy trò. Học sinh Lê Hoàng Vũ lớp tôi cũng là một học sinh đặc biệt, đầu năm học em rất hay nghỉ học, đi học muộn, thường xuyên đeo khuyên tai, tóc cắt kiểu không giống phong cách học sinh, đi dép lê, tham gia đánh nhau, tính hay bốc đồng, trong lớp hay làm việc riêng, nhận thức kém, có thái độ thiếu tôn trọng giáo viên. Sau thời gian làm việc với em, động viên, nắm và theo dõi từng điểm mạnh nhỏ nhoi của em để kịp thời động viên tinh thần của em. Dần dần sang kì 2 em tiến bộ hơn hẳn, đi học đều hơn, trong lớp chú ý nghe giảng, đã thực hiện nội quy của trường lớp, tuy lực học còn yếu nhưng cơ bản đã tiến bộ nhiều. 3. Viết thư cho các em học sinh Với những học sinh là trung tâm quậy phá và cản trở thành tích chung của tập thể. Các em thường nói chuyện riêng, gây rối, không nghe giảng và không làm bài tập về nhà. Trong số đó có một em là "đại ca" ngầm, thường chỉ đạo các bạn quậy phá. Với những học sinh này, các biện pháp răn đe như vỗ bàn, đập ghế, bắt chép bài nhiều lần, cho cọ rửa nhà vệ sinh, đi lao động ... sẽ không đem lại hiệu quả. Theo tôi nên chọn cách viết thư. Hàng ngày, hàng tuần giáo viên viết thư cho từng em tâm sự: "Hôm nay cô thấy em bỏ áo vào quần, trông rất gọn gàng. Em rất đẹp trai", hay "Cô biết em là đại ca của lớp. Nếu em lãnh đạo phong trào của lớp tốt lên thì sẽ tốt biết bao". Với những bức thư nhỏ, chân thành ấy đã động viên, khích lệ và cũng "khích tướng" các em. Dần dần, những học sinh đặc biệt sẽ chuyển biến tích cực, gần gũi, thân thiện hơn với thầy cô và các bạn học sinh trong lớp. Từ đó các em sẽ thực sự phát huy thế mạnh của mình và dần dần sẽ bỏ được thói quậy phá. 4. Trò giúp trò Tình bạn mang đến cảm giác có sự kết nối và ý nghĩa. Sự kết nối với người người khác có thể làm nên những điều kì diệu. Chính vì lý do đó, tôi sử 15 dụng phương pháp trò giúp trò. Sẽ làm cho các em trong tập thể lớp đoàn kết, gần gũi và có trách nhiệm với nhau hơn. Nhiều học sinh lớp tôi sống ở bán trú, nên sự tự giác của các em còn yếu, các em thích làm gì thì làm theo ý mình, không ai nhắc nhở, động viên, ngay cả việc đi học cũng vậy. Lúc nào các em buồn ngủ, đau đầu hay mệt mỏi là các em tự cho mình nghỉ học. Tôi giao việc luôn cho những em có ý thức, đi học chuyên cần giúp đỡ những học sinh đặc biệt, thường xuyên nghỉ học gọi các bạn cùng đi học. Như vậy, các em được nhắc nhở ý thức của các em được cao hơn. Như vậy cảm giác thuộc về một cộng đồng nào đó, tập thể nào đó lớn hơn giúp cải thiện động cơ sống, sức khỏe và sự hạnh phúc của học sinh. Khi học sinh thấy có sự kết nối với tập thể, hay các bạn khác thì các em biết rằng tất cả mọi người đều đang cố gắng và có những thời điểm khó khăn các em không một mình, vẫn có các bạn cùng đồng hành với mình. 5. Làm bạn với các em Tình bạn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tình cảm của học sinh THPT, ảnh hưởng không nhỏ tới mọi mặt đời sống của các em đặc biệt về phương diện tính cách, quan điểm sống, kết quả học tập. Việc gần gũi, chia xẻ, tâm sự với các em như một người bạn là thật sự cần thiết. Có những chuyện mà các em có thể không nghe theo bố mẹ nhưng lại nghe theo bạn bè, thầy cô. Tôi luôn coi học sinh là bạn, hàng ngày nói chuyện, trêu đùa, giáo dục các em. Khi các em phạm lỗi, tôi không mắng chửi mà ngồi phân tích, khuyên răn các em. Tổ chức các trò chơi vào các giờ sinh hoạt tập thể để tình bạn trong lớp, cô giáo trở lên thân thiết hơn, tham gia cùng các em trong một số trò chơi, thi hát, đố vui, trồng cây, lao động ... để tăng sự gần gũi, để các em cảm nhận được cô giáo như một người bạn có thể cùng mình chia xẻ khó khăn, lúc vui buồn. Đặc biệt học sinh dân tộc thiểu số các em rất thích được quan tâm, chỉ cần thường xuyên hỏi han, tâm sự, hay đến thăm gia đình các em là các em thấy tin tưởng, nghe lời. Làm bạn với các em là điều rất quan trọng cần làm của một giáo viên chủ nhiệm. 6. Biện pháp giáo dục bằng tập thể Ở tuổi các em, bạn bè có một vị trí rất lớn trong mối quan hệ xã hội của các em, thường ở lứa tuổi này các em chưa ý thức được việc nào là cần thiết hơn, chính vì thế đa phần trong quan hệ với thầy cô giáo các em thường có biểu hiện bao che cho nhau, nhất là những khi đề cập tới các đối tượng học sinh đặc biệt, mặc dù biết việc làm của bạn là sai, tuy vậy khi hỏi đến phần lớn các em 16 đều trả lời một câu chung nhất( không biết) - đối với những em có quan hệ gần gũi với HS đặc biệt, cũng có thể các em ngại không dám nói ra sự thật vì sợ sự đe doạ của các bạn... Nhưng phải nói rằng tất cả những suy nghĩ, những việc làm của các em đặc biệt thì chính các em học sinh cùng lớp, cùng khối là biết rõ nhất. Về vấn đề này GVCN cần khéo léo trong cách điều tra, có thể là điều tra bằng cách giao nhiệm vụ theo dõi tìm hiểu cho ban cán sự lớp hoặc một đối tượng HS đáng tin cậy nhất nào đó và sẽ trao đổi với các em bằng cách bảo mật thông tin. Thường thì những em này sẽ cung cấp cho chúng ta nguồn tin chính xác nhất. Sau khi nắm được thông tin, phân tích tình hình, tôi hướng dẫn các em gần gũi và giúp đỡ bạn, nên tạo được quan hệ tốt và nhất là tạo cho những em đặc biệt có niềm tin với mình. Phải nói rằng trong quan hệ bạn bè các em sẽ bộc lộ rõ cá tính không e ngại. Tôi thường xuyên giữ mối quan hệ với các em này tìm hiểu những khó khăn khi phải thuyết phục HS đặc biệt để tháo gở khó khăn cho các em, thường xuyên cung cấp biện pháp xử lý kịp thời những biến động của các đối tượng và động viên các em, tạo cho các em có niềm tin thuyết phục, giúp đỡ học sinh đặc biệt tiến bộ. Trong biện pháp này cũng có thể dùng cách (lấy độc trị độc). Qua các hoạt động của lớp, GVCN cần theo dõi kỹ, qua từng hoạt động các em có những biểu hiện như thế nào: say mê, hứng thú, nhiệt tình, tích cực hay qua loa chiếu lệ, đùn đẩy, ...Hoạt động này em thích dẫn đến nhiệt tình, hoạt động kia không thích thì né tránh.. Từ việc theo dõi trên GVCN có biện pháp phát huy sở trường của từng em lấy đó làm đòn bẩy để tiến hành ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực khác nảy sinh ở các em. Đối với những đối tượng thích gây rối tập thể, nghịch ngợm (lớp bị phê bình là niềm vui của các em)... Đối với đối tượng này tôi dùng cách đẩy mạnh các hoạt động của lớp để các em thấy được những việc làm của mình không có tác dụng gì khi cả lớp đều có chung một sự quyết tâm nỗ lực vươn lên, làm cho các em bị tách ra khỏi tập thể, không thể gây rối tập thể được và vô hiệu hoá những hành động nghịch ngợm của các em. Không làm hại được tập thể lại bị tách ra khỏi tập thể, các em tự khắc thấy mình như bị hụt hẫng, xấu hỗ. Từ đó chính các em có mong muốn được sống chung trong một tập thể đoàn kết. Khi các đối tượng này thấy được những lỗi lầm của mình, GVCN lớp cần động viên HS trong lớp gần gũi khích lệ để các em hoà nhập với tập thể. 17 Ngoài những điều ở trên tôi cũng hướng xây dựng tập thể lớp đoàn kết, thân thiện, đa số học sinh trong lớp phải hiểu và thực hiện nghiêm túc nội quy của lớp, không vi phạm những điều cấm đối với học sinh. Qua đó để học sinh chậm tiến thấy được những lỗi vi phạm của mình gây ảnh hưởng đến tập thể lớp như thế nào? Để làm được điều đó tôi sử dụng các biện pháp: - Cho học sinh viết cam kết thực hiện nghiêm nội quy nhà trường, không vi phạm điều cấm đối với học sinh theo điều lệ trường trung học sau đó cho phụ huynh ký xác nhận (bản cam kết được viết làm 2 bản, học sinh giữ 01 bản, GVCN giữ 01 bản). – Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục về các nội quy nhà trường, luật an toàn giao thông … trong các buổi sinh hoạt đầu giờ, sinh hoạt cuối tuần, sinh hoạt chi đoàn cuối tháng với các hình thức như: Cập nhật các học sinh vi phạm trong nhà trường chỉ rõ lỗi vi phạm, nguyên nhân vi phạm và hình thức xử lí của nhà trường đối với các học sinh đó như thế nào? Tại sao lại xử lí như vậy? Để các em rút kinh nghiệm hoặc đưa ra các tình huống giao thông thông thường cho các em thảo luận … khi đó sẽ làm giảm bớt sự căng thẳng tạo không khí buổi sinh hoạt thân thiện hơn. – Hướng dẫn để các em tổ chức buổi hoạt động tập thể như: Toạ đàm nhân ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 (tổ chức văn nghệ, bốc thăm tặng quà …), hoạt động chào mừng ngày 20/11 (các em tham gia văn nghệ do Đoàn trường tổ chức, hát về thầy cô, mái trường… đi thăm chúc tết thầy cô giáo), qua đó để các em hiểu hơn về truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", truyền thống " tôn sư trọng đạo " của người Việt Nam…. Từ các buổi sinh hoạt tập thể như vậy đã tạo sự gần gũi, thân thiện giữa các em học sinh trong lớp hơn. 7. Kết hợp với phụ huynh học sinh Có thể trao đổi qua các cuộc họp phụ huynh học sinh chung của lớp, GVCN báo cáo kết quả rèn luyện của từng em và có thể mời phụ huynh các đối tượng này ở lại để trao đổi riêng, tránh sự mặc cảm của phụ huynh. Có thể trao đổi qua việc đến thăm gia đình học sinh. Thường học sinh đặc biệt thì lại có phụ huynh đặc biệt; một là không quan tâm đến việc học của con em, hoặc không dám đối diện với sự thật về những sai phạm của con mình...thường những phụ huynh này ít tham gia vào các cuộc họp chung kể cả những lúc có giấy mời riêng cùng không đến. Đối với đối tượng này GVCN cần 18 nhiệt tình hơn, có thể đến thăm gia đình để tìm hiểu điều kiện sinh hoạt của gia đình và nắm được tình hình của các em ở nhà, thường những đối tượng này họ ngại nói những điều sai của con em họ vì thế tôi tổng hợp những điểm tốt mà các em có được dù đó chỉ là một việc không đáng kể để khen ngợi các em, sau đó tôi lồng một vài khuyết điểm của các em; tránh nêu hoàn toàn hoặc một loạt khuyết điểm thì phụ huynh sẽ có sự mặc cảm, hoặc nảy sinh sự tiêu cực, buông xuôi, ngại nói ra những điều mà ta cần tìm hiểu, trao đổi. Có thể trao đổi bằng sổ liên lạc, điện thoại. Ở lớp tôi tất cả các em đều có sổ liên lạc điện tử, cú mỗi đầu tuần tôi thông báo lịch học cụ thể cho phụ huynh, tránh trường hợp học sinh nói dối bố mẹ đi học để đi chơi, nhắn kết quả học tập định kì của các em cho phụ huynh kịp thời nắm bắt. Cách làm này cũng có thể thường xuyên trao đổi với phụ huynh và kịp thời giáo dục, chấn chỉnh những sai phạm của các em. Qua theo dõi kết quả học tập của các em, tôi triệu tập cuộc họp bất thường phụ huynh đối với các em lười học, vi phạm nội quy. Trong cuộc họp này tôi thông báo kết quả rèn luyện của từng em, đề nghị phụ huynh ở nhà có biện pháp phối hợp, giám sát việc học của học sinh. Sau đó làm việc riêng với từng em học sinh. Kết quả sau cuộc họp phụ huynh đó, các em có tiến bộ hơn. 8. Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn Trong quá trình giảng dạy, bên cạnh sự quán xuyến, đôn đốc, theo dõi của giáo viên chủ nhiệm còn có tập thể các Thầy, Cô trực tiếp giảng dạy và truyền đạt kiến thức bộ môn. Qua trao đổi, tiếp nhận thông tin từ các giáo viên bộ môn, tôi có thể nắm bắt thêm về tinh thần, thái độ học tập, ý thức tổ chức kỷ luật, học lực… của từng học sinh trong lớp. Từ đó, tạo điều kiện cho tôi có sự nhìn nhận và đánh giá khách quan về chất lượng học tập của từng học sinh trong lớp đồng thời có biện pháp động viên, nhắc nhở, giáo dục phù hợp đối với từng học sinh. Trong các buổi sinh hoạt lớp phải thật sự cởi mở và thể hiện sự quan tâm tận tình để các em có điều kiện đề đạt ý kiến, nguyện vọng về công tác giảng dạy của giáo viên bộ môn. Qua đó, tôi đúc kết có chọn lọc và chuyển tiếp nguyện vọng của học sinh đến với các giáo viên bộ môn để tập thể sư phạm giảng dạy tại lớp có tinh thần cộng đồng trách nhiệm trong việc giáo dục học sinh. Đối với đối tượng học sinh lười học, tôi theo dõi thật sát đồng thời cứ mỗi lần không thuộc bài tôi cho các viết một bản kiểm điểm, cam kết với giáo viên bộ môn và cam kết với lớp. Sau đó tôi trao đổi với GVBM về tính cách đặc biệt của em đồng thời mong muốn có sự kết hợp giáo dục bằng cách thường xuyên kiểm tra bài em, nhất là trong tiết học luôn gọi em phát biểu trước lớp ưu 19 tiên chọn những câu hỏi tương đối dễ để em trả lời được và thường xuyên khen để khích lệ em, nên bỏ qua lỗi nhỏ của các em. Ngoài nhờ thầy cô giáo dục trong giờ học, tôi nhờ thầy cô cùng phối hợp tuyên truyền vào giờ sinh hoạt lớp, đầu giờ mỗi buổi học để các em nhận thức được việc mình làm, vị trí của mình trong lớp, lực học của các em đang ở vị trí nào, mức độ kiến thức các em đang có là bao nhiêu, giúp các em có mục tiêu sống, mục tiêu để phấn đấu. Sau lần như vậy học sinh đã có tiến bộ. 9. Kết hợp giáo dục với Đoàn thanh niên Đây là lực lượng đông đảo, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường, là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên, là nơi để các em thể hiện bản lĩnh của mình, là nơi giáo dục đạo đức lối sống lành mạnh tốt nhất cho học sinh. Chính vì thế mà giáo viên chủ nhiệm cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với tổ chức Đoàn thanh niên để đẩy mạnh phong trào thi đua giữa tập thể và cá nhân nhằm tạo sự chuyển biến sâu rộng cả về nhận thức lẫn hành động góp phần hạn chế, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực ở học sinh. Khích lệ các em tham gia vui chơi, nghe những bài hát truyền thống, qua các bài hát này giúp các em hiểu thêm về lòng yêu quê hương đất nước, yêu làng xóm, tình yêu thầy cô, yêu người thân, yêu bạn bè…, tìm hiểu nội dung ý nghĩa các ngày kỉ niệm, các ngày lễ lớn của dân tộc. Từ đó giáo dục học sinh về lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, xây dựng cho các em tinh thần tập thể, sống vì mọi người. Tập thể lớp tích cực tham gia các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: văn nghệ, thể dục thể thao, những trò chơi dân gian như nhảy bao bố, đua xe đạp chậm, kéo co, cướp cờ…, câu lạc bộ đố vui để học, ngoại khóa,…các hoạt động này sẽ cuốn hút các em, làm cho các em thấy thích thú và bổ ích. Các nhà tâm lý cho rằng: đối với học sinh trung học phổ thông, ở độ tuổi mà tâm lý lứa tuổi phát triển mạnh, các em có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước; thích giao lưu tìm hiểu, thích đua đòi ăn chơi, thích khẳng định mình là người lớn…trong khi đó các kiến thức về hiểu biết tự nhiên, xã hội, hiểu biết về gia đình, hiểu biết về pháp luật các em còn rất hạn chế, thậm chí có em còn mơ hồ. Do đó các em chưa có trách nhiệm với hành vi của mình, nên dẫn đến phạm tội, vi phạm pháp luật hoặc vi phạm nội quy nhà trường. Nếu chúng ta không tổ chức tốt các hoạt động cho học sinh thì các em sẽ tìm đến nơi khác như quán bi da, trò chơi điện tử…để vui chơi và dễ bị các phần tử xấu lôi kéo vào con đường hư hỏng, phạm tội. Thông qua các hoạt động này vừa rèn luyện ý thức kỉ luật, tinh thần đoàn kết vừa hình thành những kỹ năng sống cho các em vừa rèn luyện đạo đức, giúp các em ý thức và điều chỉnh được hành vi của mình. 20 Ngoài ra, tôi phối hợp cùng với Đoàn tuyên truyền về tác hại của các vi phạm, các tệ nạn xã hội, tổ chức học tập, quán triệt cho học sinh về nội quy nhà trường vào đầu năm học, giờ truy bài, vào giờ sinh hoạt lớp. Tăng cường công tác kiểm tra nề nếp phát hiện vụ việc và xử lí kịp thời, giúp các em thấy được hành vi sai trái của mình để sửa chữa. Ban Thi đua của lớp làm tốt công tác xếp loại và đánh giá thi đua giữa các tổ hàng tuần, hàng tháng nên kích thích được phong trào thi đua học tập. Hoạt động này cũng là một khía cạnh giúp các em phát triển nhân cách của mình, tránh xa đà vào các tệ nạn, các hành vi sai trái, giảm số lượng học sinh đặc biệt. 10. Giáo viên chủ nhiệm với chính quyền địa phương và các các tổ chức xã hội Thực tế cho thấy, ngoài những vi phạm về học tập, vi phạm về nề nếp ở trong trường học; học sinh còn có những hành vi vi phạm sau giờ học và ngoài trường học. Như những vụ đánh nhau có tổ chức, chỉ vì những xích mích nhỏ ở trong lớp, trong trường mà ra cổng trường là các em tụ tập đánh nhau. Rồi đi xe lạng lách, chạy nhanh vượt ẩu vi phạm luật giao thông. Nhờ có lực lượng công an địa phương điều tra, cung cấp thông tin, thông báo tình hình học sinh vi phạm cho nhà trường, giáo viên chủ nhiệm cùng cha mẹ học sinh phối hợp giáo dục giúp các em điều chỉnh hành vi của mình. Ngược lại nhà trường thông báo cho địa phương những học sinh đặc biệt, những học sinh bị kỷ luật đuổi học để địa phương quản lí. Chính vì vậy sự phối hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội như lực lượng công an, dân phòng,… trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh ngoài giờ lên lớp là một việc làm đáng quan tâm. Nhằm đảm bảo an ninh trật tự, phòng chống tệ nạn xã hội, góp phần ngăn chặn và làm giảm các vụ việc xảy ra ở học sinh, giúp cho các em có lối sống lành mạnh, ý thức công dân ngày càng rõ nét hơn. Ngoài ra, nhà trường kết hợp cùng với công an tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông, phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh vào các giờ chào cờ đầu tuần. Những lúc tan học, đề phòng các em có thể tụ tập gây sự đánh nhau hoặc vi phạm trật tự an toàn giao thông, giáo viên nhà trường cùng với công an địa phương luôn giám sát theo dõi nên không có những vụ việc đáng tiếc nào xảy ra. PHẦN 3 – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Qua sự cố gắng nỗ lực của bản thân, trong công tác chủ nhiệm tôi luôn vận dụng linh hoạt các biện pháp trên, có những học sinh cần dùng nhiều biện pháp, có những học sinh tôi chỉ cần dùng một biện pháp, tôi thu được kết quả tuy chưa thật sự nổi bật, nhưng tôi thấy các em cũng đã tiến bộ nhiều: 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan