Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi...

Tài liệu Skkn một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi

.DOC
38
1741
87

Mô tả:

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Ngành học mầm non giữ vai trò quan trọng bởi nó là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bậc học đặt nền móng cho các bậc học sau. Vì vậy các em phải được chăm sóc, phải được giáo dục khi trẻ còn ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo. Ngay từ lứa tuổi này, các em phải được giáo dục tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất được trang bị đầy đủ những tri thức của chủ nhân tương lai đất nước. Trong thời gian gần đây vấn đề dạy kỹ năng sống cho trẻ được rất nhiều các bậc phụ huynh quan tâm. Nhằm đáp ứng về kỹ năng sống cho trẻ, nhiều trung tâm dạy kỹ năng sống cho trẻ cũng lần lượt ra đời. Tuy nhiên dạy kỹ năng sống cho trẻ như thế nào lại là vấn đề cần đặt ra những câu hỏi. Có thể từ kỹ năng sống còn rất mới mẻ nên chúng ta còn quan trọng hóa vấn đề mà không để ý rằng ở nhà, ở trường lớp trẻ vẫn được rèn luyện “Kỹ năng sống” cơ bản. Những kỹ năng sống rất quan trọng ảnh hưởng tới quá trình hình thành nhân cách cho trẻ. Trong những năm gần đây, ngành học mầm non đã triển khai xây dựng lồng ghép chuyên đề “Giáo dục kỹ năng sống” vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực, xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực giúp trẻ có được những nhận thức, kiến thức, hành vi, thái độ và kỹ năng thích hợp. Là giáo viên đứng lớp, tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ làm thế nào để giáo dục, uốn nắn cho trẻ những hành vi đúng, cách cư xử lịch sự, văn minh. Vì thực tế qua công tác, tôi thấy được một số khó khăn trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ: Ở lứa tuổi mầm non đặc biệt là trẻ nhà trẻ, trẻ còn thực hiện theo ý thích, chưa tự ý thức được hành động, hành vi của mình, chưa có nề nếp thói quen tốt trong sinh hoạt. Trẻ chưa nhận biết và thể hiện được một số trạng thái cảm xúc của bản thân và những người xung quanh để trẻ có những hành động đúng. 1 Về phía các bậc cha mẹ trẻ, còn số đông các gia đình còn chiều chuô ̣ng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, chưa có nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày. Cha mẹ không chú ý đến con mình ăn uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không] Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó] Những đồ dùng đó để làm gì] Một số cha mẹ thì quan tâm đến con cái nhưng chưa chú ý dạy con cách cư xử, nhiều lúc vô tình còn hùa theo cái sai của con cái. Tôi nhận ra rằng, tất cả những kỹ năng đó phải bắt đầu từ việc chúng ta muốn trẻ lớn lên trở thành những người như thế nào, bản thân chúng ta cần gì, thiếu gì, dựa vào cái gì để thành công thì hãy dạy cho con cái chúng ta những điều y như thế. Việc xây dưng kỹ năng sống cho trẻ không gì hơn là cho trẻ cơ hội để trải nghiệm, thích nghi và hướng dẫn cho trẻ cách tự thể hiện mình. Có thế chúng ta mới có thể có những người chủ động, tích cực, hòa đồng và đầy đặc biệt. Trong quá trình phát triển nhân cách nếu trẻ được sớm hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình thì các em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống. Trẻ em là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách do đó cần giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ để trẻ có nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ. Với khả năng tiếp thu, nhận thức của trẻ mầm non, trẻ dễ nhớ mau quên đặc biệt là lứa tuổi trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi. Để bước đầu trang bị những hành trang, kiến thức về cuộc sống, những kỹ năng sống sao cho phù hợp với nhân cách con người, với cuộc sống thế giới xung quanh cho trẻ thì cô giáo chính là người giữ vai trò và nhiệm vụ quan trọng cũng như bước đầu giúp trẻ có kỹ năng như: Tự nhận thức, tự phục vụ, biết đoàn kết với bạn bè,... Nhưng làm thế nào để cung cấp những kỹ năng sống cho trẻ một cách có hiệu quả nhất] Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp dạy kỹ năng sống 2 cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại lớp D1 trường mầm non A xã Ngọc Hồi”. * Mục đích của đề tài này: Với đề tài trên tôi muốn giúp trẻ có những kỹ năng ban đầu về cuộc sống, có những kinh nghiệm sống, sao cho phù hợp với cuộc sống đang biến đổi không ngừng. Sau một năm thực hiện, tôi nhận thấy trẻ lớp tôi rất thích thú khi trẻ được học về những kỹ năng sống cơ bản qua các hoạt động học, giờ ăn, hoạt động trò chơi và các kỹ năng tự phục vụ của trẻ. Việc tìm ra các biện pháp phù hợp giúp cho trẻ tiếp thu tốt hơn, trẻ có nề nếp hơn và mạnh dạn, tự tin khi tham gia các hoạt động. * Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Các biện pháp giúp phát triển kỹ năng sống cơ bản cho trẻ, hình thành các kỹ năng như: Tự phục vụ, giao tiếp, tự nhận thức, hợp tác. Từ đó trẻ có ý thức về bản thân, thấu cảm với người khác, suy nghĩ sáng tạo và có phán đoán và giải quyết vấn đề phù hợp với độ tuổi. * Phạm vi áp dụng: Để nghiên cứu và thực hiện đề tài này tôi đã thực nghiệm trên trẻ lớp nhà trẻ 24- 36 tháng - D1 trường mầm non A Ngọc Hồi - Thanh Trì - Hà Nội. * Kế hoạch nghiên cứu: Thời gian nghiên cứu 9 tháng (bắt đầu từ tháng 9/2013 đến cuối tháng 4/2014). * Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lý luận - Phương pháp tham khảo tài liệu - Phương pháp điều tra thực trạng - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát 3 PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN : Từ năm học 2008 - 2009 Bộ GD - ĐT đã phát động phong trào “Xây dựng, trường học thân thiên, học sinh tích cực”. Trong năm nội dung thực hiện có nội dung rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục với thái độ tự giác, chủ động, ý thức, sáng tạo. Giống như thầy Nguyễn Phú Cường, hiệu trưởng trường phổ thông Quốc tế Việt Nam đã từng nói “Chúng ta nên học hỏi những tiến bộ của nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, bởi giáo dục toàn diện chính là mô hình giáo dục hướng về học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Trước hết học sinh cần được dạy để biết làm chủ bản thân, để giao tiếp tốt với mọi người và có khả năng giải quyết khi gặp những vấn đề rắc rối khó khăn”. Thực tế nhiều trường hiện nay dường như chỉ quan niệm dạy kiến thức chứ chưa dạy trẻ thái độ ứng xử các mối quan hệ đó là (quan hệ với con người, với thiên nhiên), vì vậy rất nhiều điều trong cuộc sống mà trẻ không được học. Trẻ chỉ biết ăn, ngủ, học và vui chơi, trong khi đó kỹ năng tự chủ và kỹ năng giao tiếp không được chú ý và thực hiện còn kém. Trẻ chưa có những kiến thức, kinh nghiệm về kỹ năng giao tiếp và kỹ năng sống phù hợp. Như vậy, có thể thấy hành trang vào đời của trẻ còn nhiều thiếu hụt, trong đó có sự thiếu hụt về kỹ năng sống, những kỹ năng đó sẽ giúp trẻ có hành trang tự tin, làm chủ cuộc sống. Vậy để trẻ có những kỹ năng sống tốt, phù hợp với cuộc sống bên ngoài, thế giới xung quanh. Ngay từ lứa tuổi mầm non trẻ cần được các cô giáo cung cấp cho trẻ những kỹ năng sống, những kỹ năng đơn giản qua các hoạt động hàng ngày của trẻ ở lớp. Đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ 24 -36 thàng tuổi khả năng nhận thức của trẻ còn có nhiều hạn chế, trẻ dễ nhớ dễ quên và hay hành động theo ý muốn. Vì vậy để dạy những kỹ năng sống cho trẻ chỉ là những bước đầu giúp trẻ các kỹ năng như: Biết về bản thân mình, mạnh dạn tự tin, kỹ năng giao tiếp, tự phục vụ bản thân, biết hợp tác chơi với các bạn, kỹ năng thích nghi với môi trường,... Để trẻ 4 có được những kỹ năng ở lứa tuổi này, cô giáo cần nhẹ nhàng, linh hoạt, sáng tạo, lồng ghép các hoạt động để truyền thụ các kỹ năng cho trẻ. Giáo dục kỹ năng sống là một tiến trình: giáo viên trang bị cho trẻ kiến thức; giúp trẻ có ý thức và niềm tin để thay đổi. Trẻ phải được thực hành để có kỹ năng. Trẻ cần được hướng dẫn vận dụng kỹ năng vào các sinh hoạt thường ngày của trẻ. Điều quan trọng nhất là những kỹ năng này trở thành một thói quen tốt. Ngày xưa trong giáo dục truyền thống trẻ chỉ việc nghe lời cha mẹ. Những gì học ở gia đình và xã hội lại giống nhau. Một hành vi sai trái thường bị xã hội đồng loạt lên án, nên ít ai dám hành động tiêu cực. Ngày nay thì khác, những gì học trong gia đình và tác động của xã hội rất khác nhau qua bạn bè, truyền thông đại chúng, phim ảnh … trong nhiều trường hợp, trẻ phải tự ứng phó một mình. Có khi cha mẹ có đó, nhưng theo không kịp những biến động xã hội ngày càng dồn dập. Với sự bùng nổ thông tin, trẻ tiếp cận với đủ thứ loại tác động, tốt có, xấu có. Một số không nhỏ phải rời bỏ gia đình, hoặc phải bươn chải kiếm sống, thậm chí gánh vác trách nhiệm của người lớn. Do ngày càng có nhiều việc phải quyết định một mình nên trẻ không chỉ cần được biết thế nào là điều hay lẽ phải mà còn phải có khả năng hành động theo nhận thức. Trước tình hình này, các nhà giáo dục thế giới đã cùng tìm cách giáo dục đề tạo cho trẻ năng lực tâm lý xã hội, nhằm ứng phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Đó là giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp trẻ biến nhận thức thành hành động, nghĩa là trẻ không chỉ hiểu biết mà còn phải làm được điều mình hiểu. Cách dạy cũ theo kiểu giảng suông, dạy vẹt, học vẹt không đạt được sự thay đổi hành vi này. Trong cách giáo dục mới, trẻ được giúp đỡ để biết mình là ai, mình muốn gì, có mục đích gì trong cuộc sống, biết dung hòa giữa cái tôi và cái chúng ta, có những chọn lựa và quyết định đúng trước những biến cố do cuộc sống đưa đến. Để có năng lực tâm lý xã hội này, trẻ được dạy các kỹ năng như: ý thức về bản thân, thấu cảm với người khác, suy nghĩ sáng tạo và có phán đoán, truyền thông và giao tiếp có hiệu quả, giải quyết vấn đề. 5 Phương pháp giáo dục là đặt trẻ trước những tình huống khó giải quyết để trẻ giải quyết theo nhóm thông qua thảo luận, trò chơi, sắm vai, vẽ tranh hay hành động cụ thể. Qua đó, trẻ học bằng hành động và tự quyết định với sự góp ý của nhóm bạn. Tác động của nhóm bạn rất mạnh mẽ theo hướng tích cực hay tiêu cực. Nếu sức ép của nhóm bạn xấu có thể khiến trẻ chấp nhận làm chuyện sai trái, thì giáo viên cũng có thể biến sức ép này thành tích cực để giúp cá nhân có những quyết định lành mạnh. Tuy nhiên, Giáo dục kỹ năng sống không dễ chút nào, vì nó nằm ngoài cách suy nghĩ và thói quen của ta từ trước đến nay. Việc đầu tiên là tin vào khả năng của trẻ để suy nghĩ và có hành động đúng. Người lớn không nên áp đặt ý kiến của mình mà cần khơi dậy tiềm năng trẻ, hỗ trợ sự phát triển tiềm năng này bằng thái độ thông cảm và tôn trọng. Lòng tự tin của trẻ sẽ lớn rất nhanh nếu người lớn nhìn chúng bằng con mắt mới và sáng tạo, đồng thời với thái độ kiên nhẫn. Do đó, Giáo dục kỹ năng sống chỉ thành công với nhà giáo dục “kiểu mới” khác với người thầy mệnh lệnh, bao cấp, suy nghĩ và hành động thay cho trẻ. Trẻ phải chủ động mới biến được nhận thức thành hành động. Nhà giáo dục này không chỉ phải rành tâm lý lứa tuổi, mà còn phải có kiến thức và kỹ năng về nhóm để biết vận dụng tâm lý nhóm vào công tác giáo dục. Sinh hoạt nhóm rất quan trọng trong việc giúp trẻ nên chủ động để tự quyết. Giáo dục kỹ năng sống cũng không thể thành công nếu xã hội, nhất là gia đình, không đổi cách nhìn đứa trẻ, xem nó như “con nít, chẳng biết gì”, giáo dục theo kiểu nhục mạ, hạ thấp… Nền tảng của Giáo dục kỹ năng sống là ý thức về giá trị bản thân nơi trẻ… mà đây là một điều mà xã hội ta chưa quen lắm. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: 1. Đặc điểm tình hình chung: Trường mầm non A xã Ngọc Hồi nằm ở ngoại thành Hà Nội. Nằm trên khu đất canh tác của dân, được triển khai xây dựng thành trường học, nên xung quanh còn nhiều bãi đất chống, ao hồ. Trường lại nằm gần đường quốc lộ nơi 6 có nhiều phương tiện giao thông qua lại. Trường có hai khu chia làm 9 lớp, riêng khu Ngọc Hồi được xây hai tầng khang trang, lớp học rộng rãi, sân chơi thoáng mát. Tổng số học sinh toàn trường là 325 trẻ, có 36 đ/c - giáo viên - nhân viên và 3 cán bộ quản lý. Đội ngũ giáo viên trẻ đầy nhiệt huyết và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Năm học 2013 - 2014, tôi được Ban giám hiệu phân công dạy trẻ lớp nhà trẻ 24-36 tháng. Lớp có 3 cô phụ trách và 40 cháu, trong đó: - Có 22 cháu nam và 18 cháu nữ. - 65 % phụ huynh làm nông nghiệp. - 10 % phụ huynh làm công nhân viên chức. - 25% phụ huynh huynh làm nghề tự do. Từ thực tế trên khi thực hiện đề tài tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn sau: 2. Thuận lợi: Ban giám hiệu tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất và kiến thức cho giáo viên: cụ thể hàng tháng trường tổ chức 2 buổi họp chuyên môn để trao đổi về phương pháp cũng như kinh nghiệm của chị em đồng nghiệp giúp tất cả giáo viên nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ. Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có kinh nghiệm trong việc chăm sóc nuôi dạy trẻ, luôn có tinh thần học hỏi, rèn luyện. Bản thân tôi đã có 8 năm trực tiếp giảng dạy nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, nhất là lứa tuổi nhà trẻ 24 - 36 tháng. Các bậc phụ huynh quan tâm, tin tưởng gửi con, luôn phối hợp với giáo viên trong việc giáo dục trẻ. Lớp rộng rãi, thoáng mát, có đủ các phương tiện nghe nhìn giúp trẻ tiếp thu một cách tốt nhất. 7 Khi thực hiện đề tài dạy kỹ năng sống cho trẻ tôi nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của phụ huynh cũng như của Ban giám hiệu, cùng các chị em đồng nghiệp trong trường, đặc biệt là sự phối hợp nhịp nhàng của chị em cùng lớp. 3. Khó khăn: Trẻ từ 24 - 36 tháng, trẻ còn nhỏ, khả năng nói phát âm của trẻ còn kém, thời gian chăm sóc trẻ nhiều. Đa số trẻ là con gia đình nông thôn, điều kiện gia đình còn khó khăn nên sự quan tâm đến con em còn hạn chế, phụ huynh chỉ biết phối hợp với cô giáo về chương trình học của con và chăm sóc cho con thế nào cho tốt chứ phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến dạy kỹ năng sống cho trẻ ngay từ bé. Ở nhiều gia đình trẻ được nuông chiều, cung phụng con khiến cho trẻ không có kỹ năng tự phục vụ. Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ từ 24-36 tháng tuổi còn mới mẻ và khó khăn. III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: 1. Biện pháp 1: Xác định các loại kỹ năng sống phù hợp độ tuổi để dạy trẻ: Là một giáo viên mầm non, hàng ngày trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ. Ngoài việc cung cấp dạy kiến thức cho các con ở các môn học, các hoạt động trong ngày, các cô còn giúp trẻ hình thành nhân cách, các ứng xử với con người, với thiên nhiên. Đặc biệt là những cô giáo lớp nhà trẻ từ 24 - 36 tháng sẽ giúp trẻ những kiến thức ban đầu về kỹ năng sống, giúp trẻ phát triển hài hòa cân đối giữa các mặt để khi lớn tuổi hơn trẻ không bỡ ngỡ, xa lạ trước những cuộc sống khác lạ xung quanh. Trẻ sẽ học tốt nhất khi có được một cách tiếp cận cân bằng về các mặt, các kỹ năng nhận thức, tình cảm quan hệ xã hội, các hành vi ứng xử cơ bản với bạn bè, cô giáo, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng vào việc tập trung tiếp thu các kiến thức ở từng môn học một cách tốt nhất. 8 Qua việc dạy trẻ các kỹ năng sống, các quá trình tâm lý của trẻ phát triển hơn như: Trí nhớ, ngôn ngữ, tư duy..., sẽ giúp trẻ tiếp thu kiến thức từ các môn học sẽ tốt hơn và khả năng ghi nhớ của trẻ sẽ nhanh hơn. Kỹ năng sống là khả năng biết làm, biết thực hiện việc gì đó một cách tự giác, thành thạo trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy, có người nói: Dạy trẻ 24 - 36 tháng tuổi những kỹ năng sống như vậy có quá sớm không, trẻ có thực hiện được không] Thật ra việc học kinh nghiệm sống với trẻ chẳng bao giờ là sớm, có hàng trăm kỹ năng sống cần thiết với trẻ. Tùy theo lứa tuổi của trẻ để chọn ra nội dung chương trình dưới nhiều hình thức khác nhau. Người giáo viên phải có nhiệm vụ quan trọng để lựa chọn, xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi từ 24 - 36 tháng. Sau một thời gian nghiên cứu, tôi đã lựa chọn một số kỹ năng sống cơ bản để cung cấp cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi cụ thể như sau: Kỹ năng Nội dung lựa chọn Tự phục vụ - Biết cất dép đúng nơi quy định - Biết cất ba lô đúng tủ của mình còn tủ của bạn nào cao quá thì trẻ sẽ chỉ tủ của trẻ để cô giúp đỡ. - Biết bê ghế về tổ, về bàn. - Biết nhặt cơm rơi vãi vào khay. - Đa số trẻ biết tự súc cơm ăn. - Biết lấy và cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định. Giao tiếp - Biết lấy khăn, cốc để dùng. - Bước đầu biết cách xưng hô chào hỏi cùng cô và một số trẻ tự xưng hô tốt với người khác khi không có cô giúp đỡ. - Biết lắng nghe cô nói và trả lời câu hỏi của cô khi được hỏi. Tự nhận thức Hợp tác - Trẻ mạnh dạn tự tin khi giao tiếp với mọi người. - Trẻ tò mò ham hiểu biết, thích khám phá thế giới xung quanh. - Trẻ nhận biết được tên, tuổi của mình, người thân và địa chỉ gia đình, biết được tên những người xung quanh khi được hỏi đến. - Trẻ biết kết hợp với bạn khi chơi. - Trẻ biết đoàn kết với bạn. - Trẻ có thái độ cư sử đúng mực với bạn và mọi người xung 9 quanh. Kết quả: Biện pháp trên tôi đã xác định được một số kỹ năng sống cơ bản, cần thiết và quan trọng với trẻ vì vậy thông qua việc xác đinh được những kỹ năng sống cơ bản cần cung cấp cho trẻ trên đã giúp tôi thuận tiện trong quá trình dạy các kỹ năng sống cho trẻ giúp trẻ phát triển toàn diện về năm mặt: Đức, trí, thể, mỹ, lao động. 2. Biện pháp 2: Khảo sát chât lượng đầu năm đối với trẻ. Sau khi xác định được các kỹ năng sống cơ bản, cần thiết và quan trọng cần cung cấp cho trẻ tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm để nắm được tình hình của trẻ và có kế hoạch dạy trẻ cho phù hợp. BẢNG KHẢO SÁT TỈ LỆ TRẺ ĐẦU NĂM Số trẻ đầu năm: 30 trẻ Nội dung Số trẻ Tỉ lệ Kỹ năng tự phục vụ 23/30 76 % Kỹ năng giao tiếp 24/30 80 % Kỹ năng tự nhận thức 24/30 80 % Kỹ năng hợp tác 22/30 73 % Qua bảng khảo sát trên tôi thấy các kỹ năng sống cơ bản của trẻ còn khá thấp, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng hợp tác của trẻ còn hạn chế, kỹ năng giao tiếp của trẻ với mọi người xung quanh còn chưa linh hoạt, chưa nhanh nhẹn, khả năng tự nhận thức của trẻ chưa cao nên tôi luôn băn khoăn làm sao để tỉ lệ các kỹ năng sống đó được nâng cao lên. * Kết quả: Thông qua việc khảo sát trẻ đầu năm giúp cho tôi hiểu được sự thiếu hụt cao về kỹ năng sống của trẻ. Từ những thực tế đó tôi đã lập kế hoạch và đưa ra các hình thức, phương pháp phù hợp để dạy kỹ năng sống cho trẻ lớp tôi. 3. Biện pháp 3: Dạy các kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động: 10 Trong việc cung cấp các kỹ năng sống cho trẻ, giáo viên là người giữ vai trò quan trọng và là người trực tiếp truyền dạy những kinh nghiệm sống cho trẻ thì việc đầu tiên đó là cô giáo phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. 3.1. Thông qua hoạt động vui chơi. Như chúng ta đã biết trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ nhà trẻ: “Học mà chơi, chơi mà học”. Chơi là một trong các hoạt động học tập của trẻ và có mục đích to lớn đối với sự phát triển toàn diện về nhân cách con người. Thông qua hoạt động vui chơi còn hình thành ở trẻ những chức năng tâm lý, những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Chính vì thế việc tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ không chỉ giúp trẻ hình thành kỹ năng mà còn đặt nền tảng khá vững chắc để phát triển những kỹ năng sống. Với trẻ nhà trẻ, trẻ được học qua chơi điều đó khiến trẻ rất thích thú, trẻ cảm thấy việc tiếp thu kiến thức sẽ nhẹ nhàng thoải mái mà không bị gò bó vì vậy giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ khám phá thông qua trò chơi, các hành động chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng. Trong hoạt động vui chơi trẻ có thể tích lũy được kinh nghiệm, kỹ năng sống đó là qua giờ hoạt động vui chơi của trẻ. Trẻ được chơi ở các góc, chơi tức là trẻ đang được nhập vai, trẻ đang được học làm (hoạt động với đồ vật) giống như người lớn, thông qua các góc chơi: Bé và búp bê, góc vận động, góc sách truyện, góc di màu... Những góc chơi đều cung cấp cho trẻ những kỹ năng sống. VD: Ở góc bé và búp bê: Thông qua cách đóng vai trẻ học được các kỹ năng: Giao tiếp, ứng sử, biết cách xưng hô, thể hiện tình cảm, biết quan tâm đến moi người như bế em, ru em ngủ, xúc bột cho búp bê ăn, thay quần áo cho búp bê. Ảnh minh họa: 11 Trẻ đang chơi trò chơi gia đình Ví dụ: Ở góc vận động giáo viên tổ chức chơi trò chơi lăn bóng cho bạn, ... giúp trẻ có kỹ năng chơi và sống với nhau gắn bó đoàn kết với bạn và mọi người xung quanh Ảnh minh họa: 12 Bé chơi trò chơi “Lăn bóng cho bạn”. Qua hoạt động vui chơi tôi còn dạy cho trẻ những thói quen tốt: Đó là việc hướng dẫn trẻ làm những việc nhẹ nhàng vừa sức, lần đầu cô có thể hướng dẫn trẻ làm cùng cô sau đó cho trẻ tự làm cô quan sát, kiểm tra và sửa sai cho trẻ. Cứ như vậy tạo cho trẻ có nề nếp và thói quen lấy, cất đồ dùng,đồ chơi đúng nơi quy định. Ảnh minh họa: 13 Trẻ cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định. 3.2. Thông qua tác phẩm văn học. Giáo viên cần kể truyện cho trẻ nghe ở mọi lúc mọi nơi như giờ hoạt động học, vui chơi ở một nhóm nhỏ, hoặc kể truyện cho trẻ nghe vào buổi trưa đối với những trẻ khó ngủ. Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu truyện cổ tích, qua đó rèn luyện đạo đức cho trẻ, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các câu truyện bằng tranh phù hợp với lứa tuổi nhất là hiện nay công nghệ thông tin đang được phổ biến thì có thể sưu tầm những hình ảnh minh họa nội dung truyện để làm những hình động thì trẻ rất hứng thú, những câu truyện đó phải phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để gợi mở tình tò mò, ham học hỏi ở trẻ. Ví dụ: Cô kể chuyện “Vườn hoa nhà bé Bi” cô đưa ra câu hỏi gợi mở: + Nhà bé Bi có vườn gì] + Ai đã cùng Bé bi tưới nước cho hoa] + Vườn nhà bé Bi có những loại hoa gì] Câu chuyện giáo dục trẻ biết quan tâm, chia sẻ với mọi người bằng những việc nhỏ vừa sức của mình. Ảnh minh họa: 14 Cô kể truyện “Vườn hoa nhà bé Bi” trên máy vi tính. vi tính”. Ngoài ra, tôi có thể kể cho trẻ nghe các câu chuyện về tinh thần đoàn kết hợp tác với nhau, bé đi học không khóc nhè, bé là bé ngoan, bé vui đến trường, bé biết vâng lời, tình cảm yêu quý bạn bè, tình cảm gia đình, bé yêu lao động, tính trung thực như: chuyện: “Đôi bạn tốt”, “Vịt con nói dối”, “Mời bạn đến chơi nhà”, “Vì sao bé Bin nín khóc”, “Con yêu mẹ lắm” VD: Thể hiện tình bạn của gà con và vịt con khi rủ nhau đi chơi gặp phải cáo và chúng đã giúp đỡ nhau khi hoạn nạn. Ảnh minh họa: 15 VD: Khi trẻ mới đi học cô có thể kể cho trẻ nghe câu truyện “Vì sao bé Bin nín khóc” để trẻ hiểu được nội dung và trẻ đi học sẽ không khóc nhè nữa. Ảnh minh họa: 16 VD: Khi tôi kể cho trẻ nghe câu truyện “Vịt con nói dối” thông qua nội dung truyện trẻ biết được trong cuộc sống trẻ không nên nói dối, phải thật thà từ đó giáo dục kỹ năng sống như tính trung thực cho trẻ trong cuộc sống hàng ngày. Ảnh minh họa: 17 3.3. Thông qua giờ ăn. Trẻ được làm quen với những đồ dùng ăn uống và phân biệt, nhận biết những đồ dùng này qua giờ nhận biết tập nói ở chủ đề “mẹ và những người thân yêu của bé”. Trẻ sẽ nhận biết tốt hơn cụ thể hơn nữa vì đó là qua giờ ăn của trẻ giúp trẻ nhận biết và sử dụng đúng các chức năng của các đồ dùng đó đúng như: thìa để xúc cơm, bát để đựng cơm và thức ăn, khay để cơm rơi vãi và khăn lau tay... từ đó cũng như giúp trẻ có những hành vi ăn uống như: Tự xúc cơm ăn, ăn từ tốn, không làm vãi cơm, nếu có vãi thì nhặt vào khay, vỏ hoa quả, bánh kẹo thì vứt vào thùng rác tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỹ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này. 18 Qua giờ ăn trẻ có thể học được những kỹ năng mà cô đã dạy trẻ ngay từ ban đầu đó là trẻ biết mời cô và các bạn cùng ăn cơm, tự xúc cơm ăn, biết nhặt cơm rơi vãi ở bàn khi ăn, biết cách cầm thìa thế nào cho đúng và trẻ ăn ngon miệng ăn hết xuất của mình. Ảnh minh họa: Giờ ăn của trẻ ở lớp. 3.4. Thông qua giờ đón, trả trẻ. Qua giờ đón trả trẻ tôi thường dạy trẻ một số kỹ năng tự như: Trẻ tự cất dép đúng nơi quy định, trẻ cất ba lô đúng nơi quy định, trẻ uống nước song biết 19 cất cốc đúng nơi quy định,... qua đó trẻ biết tự phục vụ mà không cần nhờ đến sự giúp đỡ của người lớn Khi mà trẻ tự cất ba lô, trẻ biết được đó là ngăn tủ để đựng đồ dùng cá nhân của mình hàng ngày, trên đó cô giáo có dán tên và ký hiệu để trẻ dễ nhớ và nhận ra tủ của mình. Ảnh minh họa: Trẻ đang cất ba lô vào tủ. Ngày đầu đi học trẻ đã được cô giáo hướng dẫn cất dép ở đâu để cho gọn gàng ngăn nắp và giờ trẻ đã tự giác khi bước chân vào lớp cất dép như thế nào cho đúng quy định . Ảnh minh họa: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan