SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC
THEO HƯỚNG TÍCH CỰC VÀ
GIÁO DỤC KĨ NĂNG PHÁT
TRIỂN TRONG GIỜ THỂ DỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thể dục thể thao ra đời cùng với xã hội loài người và tồn tại mãi mãi về
sau với ý nghĩa là một trong những điều kiện tất yếu của nền sản xuất xã hội
và nhu cầu cuộc sống bản thân con người .Trong lĩnh vực về phương pháp đào
tạo con người Các Mác có nói: “ Giáo dục trong tương lai sẽ thống nhất trong
lao động sản xuất với giảng dạy và thể dục, sự thống nhất đó không chỉ là
phương pháp nâng cao lao động sản xuất xã hội mà còn là phương pháp độc
nhất để đào tạo những con người phát triển toàn diện “.Vì vậy thể dục thể thao
có vị trí đặc biệt quan trọng đối với cuộc sống con người. Con người không có
thể dục thể thao mau già cỗi, đặc biệt là không có biện pháp hữu hiệu để giải
toả những nỗi nhọc nhằn, sự mệt mỗi sau những lúc lao động mệt nhọc.
Ngày 27/3 /1946 chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh dân có cường thì
nước mới thịnh và Người đã ra lời kêu gọi tập luyện thể dục thể thao để phát
triển con người một cách toàn diện đáp ứng được yêu cầu của xã hội .Người
nói: “Mỗi một người dân khoẻ mạnh thì làm cho cả nước khoẻ mạnh , mỗi
một người dân yếu ớt thì làm cho cả nước yếu ớt và bản thân tôi ngày nào
cũng tập luyện thể dục thể thao”
Giáo dục thể chất nói chung và môn học thể dục trong nhà trường nói
riêng, thể chất giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện . Thể dục là
một biện pháp tích cực , tác động nhiều đến sức khoẻ học sinh , nhằm cung
cấp cho học sinh những kiến thức vận động cơ bản , làm cơ sở cho học sinh và
rèn luyện thân thể bồi dưỡng đạo đức tác phong con người mới .
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Điều 41
có ghi: "Quy định chế độ Giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học".
Điều này xuất phát từ ý nghĩa to lớn của Giáo dục thể chất trong nhà
trường..Phân môn thể dục cùng với các phân môn khác trong nhà trường, có
nhiệm vụ quan trọng trong
hình thành ở người học những nhân cách sống của con người lao động mới,
trong thời đại mới, mà mục tiêu giáo dục của Đảng ta là đào tạo con người: Tự
chủ - năng động - sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra, tự
do được việc làm, lập nghiệp và thăng tiến trong cuộc sống. Qua đó góp phần
xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Không những thế,
Giáo dục thể chất cho thế hệ thanh niên là một mặt của nền giáo dục tiến bộ,
là nhu cầu tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của một xã hội văn
minh nói chung và của công cuộc xây dựng XHCN, bảo vệ Tổ quốc nói riêng.
Phân môn thể dục còn mang lại cho thế hệ trẻ cuộc sống vui tươi, lành mạnh
và tác động mạnh mẽ đến các mặt giáo dục như: Giáo dục đạo đức, giáo dục
trí tuệ, lao động thẩm mĩ nhằm góp phần đào tạo thế hệ thanh niên Việt Nam
thành những người "phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức".
Thể dục thể thao càng quan trọng hơn đối với thế hệ trẻ, đặc biệt là đối với
học sinh, đây là một trong những nội dung quan trọng của nhà trường nhằm
đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII. Mục tiêu của giáo dục thể chất là phát triển toàn diện các tố chất
thể lực, hình thể, nâng cao sức khoẻ phát triển các thành tích thể dục thể thao
đång thời góp hai mặt về hữu cơ nhau, hoạt động dạy của giáo viên và hoạt
động học của học sinh. Giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy nhưng cũng lại
là chủ thể của hoạt động học tập với hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo tự tổ
chức
- Hoạt động dạy học có thể đạt hiệu quả nếu học sinh tiến hành các hoạt
động học tập một cách tích cực, chủ động tự giác với một động cơ sâu sắc.
Bằng hoạt động học tập, mỗi học sinh tự hình thành nhân cách của mình
không ai có thể làm thay đổi được. Thực tế hiện nay giờ học thể dục trong nhà
trường học sinh tiểu học còn xem nhẹ, cho đây là một môn phụ, các em ít
quan tâm sự đầu
tư của môn học này chưa nhiều, việc rèn luyện còn mang tích chất phong trào.
Hơn nữa đây là bộ môn khá phức tạp, các em vừa phải học lý thuyết lẫn thực
hành. Trong quá trình thực hành sẽ tác động trực tiếp đến thể chất của các em
nhất là các em nữ dễ bị mau mệt.
- Từ những vấn đề trên làm giảm tác dụng của giáo viên thể dục thể chất
trong nhà trường. Vì vậy vấn đề khơi dậy tích cực của học sinh trong giờ học
thể dục ở trường tiểu học là một việc làm cấp bách và cấp thiết trong giai đoạn
hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả một giờ học thể dục nội khoá nói riêng và
giáo dục thể chất cho học sinh tiểu học nói chung. Mục tiêu và nhiệm vụ phải
tiếp cận nhanh chống, việc đổi mới phương pháp học nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh trong quá trình học tập chuẩn bị lớp người lao động có một
có một hệ thống có giá trị phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời
kì mới đó là
“ Những con người và thế hệ thiết tha g¾n bó với tư tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, xây dựng bảo vệ
tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hoá của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức công nghệ hiện đại,
có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ là những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa “ Hồng” vừa “ Chuyên” như lời dặn của Bác Hồ.
Đối với học sinh Tiểu học, các em còn nhỏ, hệ xương chưa phát triển
đầy đủ, tổ chức sụn chiếm tỷ lệ cao, cột sống yếu. Hệ hô hấp ở độ tuổi này có
đường hô hấp còn hẹp, hệ tuần hoàn hoạt động còn kém (do tim còn nhỏ). Sự
tập trung chú ý chưa bền vững, dễ phân tán, tính hưng phấn cao, trí tưởng
tượng phát triển hơn song còn nghèo nàn, tản mạn, ít có tổ chức, tư duy logic
chưa cao. Do đó làm thế nào để dạy phân môn thể dục trong trường Tiểu học
thực sự thu hút được học sinh tập trung chú ý, tích cực tập luyện và tập luyện
có hiệu quả, phù hợp với các em là một vấn đề đòi hỏi cần phải có sự đầu tư,
nghiên cứu.
Từ thực tế giảng dạy và xuất phát từ mục tiêu trên, đáp ứng được yêu
cầu
đổi mới nội dung và phương pháp dạy học để tìm ra những biện pháp tối ưu
nhất
góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.Xuất phát từ vấn đề trên, tôi quyết
định
chọn và nghiên cứu đề tài: "Một số biện pháp dạy học theo hướng tích cực
và giáo dục kĩ năng phát triển trong giờ Thể dục”.
2. Đối tượng nghiên cứu:
-Một số biện pháp để khơi dậy tính tích cực của học sinh và giáo dục thể
chất trong một giờ học thể dục .
3. Khách thể, phạm vị nghiên cứu:
a . Khách thể:
-Học sinh c¸c khèi líp ( Tõ líp 1 ®Õn líp 5) trường Tiểu học Khai
Th¸i.
-Thêi gian nghiªn cøu tõ th¸ng 9 n¨m 2011 ®Õn th¸ng 5 n¨m 2012.
b .Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu một số biện pháp khơi dậy tính tích cực học tập và giáo
dục thể chất ở trường Tiểu học Khai Th¸i.
4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Nhằm mục đích thu thập những tri thức lý luận có liên quan đối với vấn
đề nghiên cứu và làm cơ sở phân tích những kết quả thu được.
b. Phương pháp quan sát:
- Quan sát các buổi tập thể dục và bài tập rèn luyện kỹ năng vận động
cơ bản của học sinh với sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên.
- Quan sát tinh thần, thái độ, kết quả tập luyện khi chia nhóm, tổ tập luyện.
c. Phương pháp thực nghiệm:
- Tiến hành dạy thực nghiệm theo hướng khơi dậy tính tích cực, tính giáo
dục cho học sinh trường Tiểu học Khai Th¸i.
d. Phương pháp luyện tập:
- Sử dụng một số biện pháp nhằm hỗ trợ cho việc luyện tập kỷ thuật động
tác.
- Tăng hiệu quả các bài tập.
- Mét sè biÖn ph¸p kh¾c phôc nh÷ng sai lÇm thêng m¾c ph¶i trong luyÖn
tËp.
- Mét sè biÖn ph¸p ®Ó gi¸o dôc häc sinh.
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
I. Phương pháp hay nhóm phương pháp, tích cực hoạt động hay chủ động:
- Thuật ngữ “ Phương pháp” được dùng ở những mức độ khác nhau, từ
rất khái quát đến rất cụ thể
VD: Phương pháp biện chứng
Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thí nghiệm
- Trong dạy học cũng tương tự
Phương pháp học
Phương pháp trực quan
Phương pháp quan sát
Phương pháp luyện tập...
- Phương pháp tích cực nói tới một nhóm phương pháp giáo dục dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học. Người ta
dùng thuật ngữ rút gọn như vậy để tiết kiệm trong ngôn ngữ giao tiếp. Từ
active (Anh) actif (pháp) có các nghĩa tương đương trong tiếng việt là tích cực
chủ động, hoạt động. Do đó active me thod đã được dịch sang tiếng Việt theo
những cách khác nhau: Phương pháp tính tích cực hoá hoạt động học tập,
phương pháp hoạt động hoá người học, phương pháp học tập chủ động...Tích
cực trong “Phương pháp tích cực” được dùng với nghĩa là chủ động, hoạt
động trái nghĩa với thụ động, không hoạt động chứ không dùng theo nghĩa trái
với tích cực.
- Tích cực biểu hiện trong hoạt động nhưng đó là những hoạt động chủ
động,chủ động của thể thao, vì vậy phương pháp dạy học tích cực thực chất là
cách dạy hướng tới việc học tập chủ động chống lại thói quen học tập thụ
động.
- Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học
sinh là dạy học dựa trên sức lực và trí tuệ của học sinh, để mỗi học sinh tự tìm
tòi nghiên cứu, thực hành, tìm ra kiến thức và hình thành kỹ năng nhận thức
kỹ năng thực hành. Trong quá trình dạy học theo hướng này, học sinh được
hoàn toàn chủ động trong quá trình tìm tòi, phát hiện và giải quyết nhiệm vụ
nhận thức dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên chớ không phải trong tình
trạng giáo viên dẫn dắt tới đâu thì giải quyết đến đó. Dạy học theo hướng này
cần phải dựa trên cơ sở học sinh được tự giác, tự do, tự khám phá theo sự tổ
chức theo hướng dẫn của giáo viên, từ đó xây dựng phương pháp thích hợp
cho mỗi học sinh theo hướng tích cực. Theo hướng này việc tổ chức dạy học
cho học sinh chính là thực hiện một hệ thống các phương pháp tác động liên
tục của giáo viên nhằm khiêu gợi tư duy học sinh theo quy trình. Dạy học theo
hướng này không chỉ giáo cục học sinh tư duy tích cực mà chủ yếu là tư duy
độc lập, chuẩn bị cho tư duy sáng tạo, luyện tập, học sinh làm việc cá nhân và
theo nhóm, trao đổi hợp tác với bạn với thầy.
1. Dạy học thông qua hoạt động tổ chức hoạt động của học sinh:
- Phương pháp tích cực dựa trên cơ sở tâm lý học cho rằng nhân cách trẻ
được hình thành qua các hành động có ý thức.Trí thông minh của trẻ phát triển
nhờ sự “ Đối thoại” giữa chủ thể hoạt động với đối tượng với môi trường. Mối
quan hệ giữa học và làm đã được nhiều tác giả nói đến “Suy nghĩ tức là hành
động”(J.Piagiê) “ Cách tốt nhất để hiểu là” (Kant) “Học để hành; học và hành
phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích; hành mà mà không học thì hành
không trôi chảy” (Hồ Chí Minh).
- Trong phương pháp tích cực, người học - chủ thể và hoạt động họcđược cuốn hút vào những hoạt động học tập do giáo viên tổ chức chỉ đạo,
thông qua đó được tự lực khám phá những cái nhìn chưa biết chứ không phải
thụ động tiếp
thu những tri thức đã sắp đặt sẵn. Những hoạt động của học sinh có thể kể ra
theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừa nắm được kiến thưc, kỹ năng đó,
không nhất thiết rập theo những khuôn mẫu có sẵn, được bộc lộ và phát huy
tìm năng
sáng tạo.
- Theo cách này thì không chỉ giảng đơn mà cung cấp tri thức mà còn
hướng dẫn hành động là một yêu cầu đặt ra không phải đối với từng cá nhân
mà cả ở cấp độ cộng đồng. Chương trình giảng dạy phải giúp cho từng cá
nhân người học biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành
động.
2. Dạy học chú trọng rÌn luyện phương pháp tự học:
- Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
sinh không phải là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một
mục tiêu dạy học. Nếu rèn luyện cho người học kỹ năng, phương pháp, thói
quen tự học, biết linh hoạt ứng dụng những điều kiện đã học vào những tình
huống mới, biết tự lực phát hiện và giải quyết những vấn đề đặt ra thì sẽ tạo
cho học sinh lòng ham học, khơi dạy tiềm năng vốn có trong mỗi con người.
Ngày nay người ta nhấn mạnh hoạt động học trong quá trình dạy học, cố gắng
tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, quan tâm phát
triển tự học ngay trong tiểu học có thầy hướng dẫn chứ không phải chỉ thị học
ở nhà.
3. Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác:
Phương pháp tích cực đòi hỏi sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao của
mỗi
học sinh trong quá trình tự lực giành lấy kiến thức mới trong học tập, không
phải mỗi trí thức, kỹ năng. Thái độ đều được hình thành bằng con đường hoạt
động thuần cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy-trò, trò-thầy, tạo
nên mỗi quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường đi tới chân lý.
Trong phương
pháp hợp tác nói lên mối quan hệ giao tiếp trò-trò.
Trong giáo dục công việc hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc
trường. Sử dụng phổ biến nhất là hoạt động xã hội. Hiệu quả học tập sẽ tăng
lên
nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu
cầu phối hợp giữa cá nhân để hoàn thành công việc. Trong hoạt động theo
nhóm,
tính cách năng lực của mỗi cá nhân được bộc lộ, được tổ chức kỉ luật, tinh
thÇn
tương trợ ý thức cộng đồng.
Trong học tập hợp tác, mục tiêu hoạt động là chung của toàn nhóm
nhưng mỗi cá nhân được phân công một nhiệm vụ cụ thể, phối hợp với nhau
để cùng đạt mục tiêu chung.
4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
- Trong học tập đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định
thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện
nhận định thực trạng mà còn điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
- Trước đây quan niệm đánh giá còn phiến diện , giáo viên giữ độc
quyền đánh giá , trong dạy học theo hướng phát huy vai trò tích cực chủ động
của người học giáo viên phải hướng dẫn học sinh tự đánh giá tự điều chỉnh
cách học.
- Tóm lại phương pháp tích cực người được giáo dục trở thành người tự
giáo dục, là nhân vật tự nguyện, chủ động tự giác, có ý thức về sự giáo dục
bản thân mình, từ dạy học thông báo, giải thích, minh hoạ sang dạy học theo
phương pháp tích cực, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức hoạt động,
độc lập hoặc theo nhóm nhỏ, để học sinh tự lực chiếm lĩnh các kiến thức mới,
hình thành các kĩ năng, thái độ mới yêu cầu cần của chương trình. Trên lớp,
học sinh hoạt động là chính, nhưng trước đó, khi soạn bài, giáo viên phải đầu
tư nhiều công sức và thời gian mới có thể thực hiện bài trên lớp với vai trò là
người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi
hào hứng, tranh luận sôi
nổi của học sinh.
- Thực hiện phương pháp tích cực, vai trò của giáo viên không bị hạ
thấp
mà trái lại có yêu cầu cao hơn nhiều, giáo viên phải có trình độ chuyên môn
sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề, có đầu óc sáng tạo và nhạy cảm mới
có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập của học sinh mà nhiều khi
diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
Ch¬ng 2:
THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH HỌC TẬP MÔN THỂ DỤC THỂ
THAO
VÀ GIÁO DỤC THỂ CHẤT Ở TRƯỜNG tiÓu häc khai th¸i.
- Sức khoẻ và trí tuệ là hai thứ quý nhất và là tài sản vô giá của mỗi con
người, mỗi gia đình, mỗi quốc gia, môn thể dục trong nhà trường cùng một số
môn học và hoạt động khác làm nhiệm vụ giáo dục rèn luyện thế hệ trẻ có nếp
sống lành mạnh,có sức khoẻ để học tập hiện tại và xây dựng bảo vệ Tổ quốc
sau này ,đảng và nhà nước ta đặt lên hàng đầu.
-Trong đó giáo dục môn thể dục ở trường tiểu học nhằm trang bị cho học
sinh một số kiến thức,kĩ năng cơ bản sơ giản cần thiết nhất nhằm rèn luyện tư
thế cơ bản đúng,làm giàu vốn kĩ năng vận động góp phần giữ gìn và nâng cao
sức khoẻ phát triển các tố chất thể dục,giúp các em sinh hoạt, học tập có hiệu
quả,giúp các em làm quen với một số nề nếp , nội quy học tập, góp phần rèn
luyện cho học sinh nếp sống lành mạnh , vui tươi,tác phong nhanh nhẹn , kĩ
luật và một số phẩm chất đạo đức khác. Bước đầu biết vận dụng những kĩ
năng được học vào trong hoạt động ở trường và ở gia đình .thực hiện được
những điều đó là góp phần giữ gìn và nâng cáo sức khoẻ làm cho cuộc sống
thường ngày của các em trong học tập,sing hoạt có hiệu quả hơn .Do vậydạy
tốt môn học thể dục chính là một hình thức giáo dục toàn diện ,góp phần nâng
cao chất lượng học tập
các môn học và hoạt đông giáo dục ở trường tiểu học nói chung
- Lứa tuổi học sinh tiểu học bắt đầu tư 6-7 tuổi đến 11-12 tuổi ở giai
đoạn này các em được trang bị một hệ thống kiến thức cơ bản và những kĩ
năng phổ thông đồng thời được giáo dục kĩ năng sống, hoàn thiện nhân cách
con người .Quá trình học tập ở trường tiểu học các em phải trải qua những
thời kì phát triển quan trọng về tâm-sinh lý xã hội. Công tác giáo dục, thể chất
học đường có ý nghĩa quan trọng đặc biệt ở trong giai đoạn phát triển này thể
hiện các mặt sau:
+ Xây dựng cơ sở cho sự phát triển thể chất toàn diện, hoàn thiện hình
thức
và tư thế của con người, củng cố sức khoẻ và hình thành hệ thống các kỹ
năng, kỉ xảo vận động. Những yếu tố đó góp phần rèn luyện và hình thành
nhân cách con người mới. Quá trình phát triển mạnh mẽ của lứa tuổi học sinh
không thể thiếu tác dụng tích cực của giáo dục thể chất và thể thao ở trường
học.
+ Góp phần trang bị cho học sinh những năng lực nhất định về trí tuệ, tư
duy và thể chất, cùng những phẩm chất đạo đức nhằm giúp các em hoàn thành
chương trình học vấn phổ thông và giáo dục thể chất trong nhà trường.
+ Học sinh ở lứa tuổi này tự giác, tích cực vận động sẽ góp phần giải
quyết các nhiệm vụ giáo dục chung (Đạo đức,nhận thức, thẩm mĩ, và lao
động...) đồng thời cũng là phương tiện có hiệu quả trong việc phòng chống
các hiện tượng tiêu cực thâm nhập học đường, mặt khác tất cả những vấn đề
nêu trên đều như một thể thống nhất, hữu cơ và có tác dụng quyết định đối với
sự phát triển của học sinh mà điều này không có được nếu như không có một
quá trình giáo dục nghiêm túc và công phu.
+ Sự phát triển mạnh mẽ về hình thái, chức năng cơ thể, phẩm chất cá
nhân tuổi trẻ học đường được phụ thuộc vào điều kiện sống, tính chất hoạt
động của con người, trong đó sử dụng hiệu quả các phương tiện giáo dục thể
chất nhiều công tình khoa học đã chứng minh, sự thiếu hục vận động là hậu
quả chủ yếu dẫn đến suy giảm sức khoẻ, sức đề kháng và sự phát triển không
bình thường
của cơ thể học sinh. Vì vậy giáo dục thể chất có ý nghĩa quan trọng trong
giai đoạn tuổi học đường của con người, nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ về thể
chất, sức khoẻ, trí tuệ và kĩ năng lao động xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Ngoài việc học môn thể dục trong trường tiểu học, phải làm đúng vai
trò nâng cao sức khoe, trang bị kỉ thuật cho học sinh bằng các bài tập thể dục
thể thao, cần phải lựa chọn cho phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học, nên
dùng nhiều biện pháp với những nội dung sinh động hấp dẫn như trò chơi, thi
đấu,
trình diễn... đối với các em mỗi động tác hay hoạt động cần phải nêu rõ mục
tiêu
và được luyện tập thường xuyên, liên tục. Quá trình tập luyện cần luôn
khuyến
khích, động viên các em tích cực rèn luyện, tránh sự đơn điệu sắp xếp thời
gian nghĩ hợp lý đều chỉnh được sự hưng phấn của học sinh.
-Đặt điểm của môn TD là tập luyện, thực hành động tác của HS. Thông
qua tập luyện, thực hành các bài tập động tác kĩ thuật tác động lên cơ thể các
em những lượng vận động nhằm phát triển sức khỏe, thể lực học sinh. Vì vậy,
GV cần ch ý đến lượng vận động trong quá trình dạy học, nếu ít quá sẽ có tác
dụng rất hạng chế, nhưng nhiều quá sẽ có hại đến sức khỏe của HS.
-Để đổi mới phương pháp dạy học môn TDTT, GV nên chú ý những điểm
sau:
+ Dành nhiều thời gian cho các em được tập luyện, hoạt động, vui chơi,
phát huy tính chủ động, tích cực của HS trong tập luyện; kết hợp với nội dung
học tập với trị chơi ở mức hợp lí; áp dụng phương pháp trị chơi, thi đấu và
điều tiết lượng vận động vừa sức cho HS.
+ Phối hợp các phương pháp dạy học đặc thù của môn học như trực
quan; tập bắt chước; đồng loạt; đặc điểm cá biệt; sửa sai, tập luyện liên hoàn,
phối hợp,ưu tiên sử dụng chia tổ, nhóm để tập luyện và tổ chức tập luyện theo
hình thức phân nhóm-quay vòng.
+ Quá trình giảng dạy, nếu có giải thích cần ngắn gọn và liên hệ với
những điều HS đ biết. GV cần chủ động linh hoạt các phương pháp trong từng
giờ giảng dạy cho phù hợp với từng hoàn cảnh và tổ chức tập luyên đảm bảo
nội dung, yêu cầu của bài học. Khi HS luyện tập cần yêu cầu HS tích cực,
mạnh dạn, tạo cơ hội để HS tham gia vào các hoạt động và tự giác trong tập
luyện. Đảm bảo an toàn, đề phòng chấn thương cho HS trong học tập và rèn
luyện, hướng dẫn cho HS biết tự bảo hiểm cho mình và cho bạn.
+ Phối hợp chặt chẽ với cán sự môn học, tổ chức HS tập luyện sao cho
giờ học tự nhiên, nhẹ nhàng và sinh động. Thực hiện tốt việc chuẩn bị bài dạy
như soạn bài, chuẩn bị đồ dùng dạy học, luyện tập trước các động tác, bài tập
kĩ thuật thể thao để làm mẫu cho HS.
+ Tổ chức tập luyện chính khóa kết hợp vơi hoạt động ngoại khóa của HS, GV
cần hướng dẫn các em tự tổ chức rèn luyện, vui chơi ngoài giờ. Sử dụng tốt và
tối da dụng cụ thiết bị, đồ dùng phục vụ dạy học và tập luyện để nâng cao
chất lượng giờ học.
+ Mỗi giờ học GV cần chú ý đến rèn luyện sức khỏe, thể lực cho HS;
tập trung cho HS luyện tập và kiểm tra theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể phù
hợp với lứa tuổi. Hướng dẫn các em tự quản và cùng tham gia vào quá trình
đánh giá.
- Thế nhưng thực trạng hiện nay, giờ thể dục các em còn xem nhẹ, học
sinh học tập một cách thụ động, giáo viên hướng dẫn thao tác nao kĩ thuật
động tác nào các em tiếp thu một cách đơn điệu, không có tinh thần sáng tạo
đôi lúc còn tỏ ra uể oải vì cho rằng khối lượng vận động không phù hợp với
sức khoẻ của các em.
- Tính chủ động, tích cực học tập tiết thực hành chưa phát huy, do các em
chưa có ý thức tự giác trong học tập, đội ngũ cán sự chưa có phương pháp tổ
chức hướng dẫn lớp tập luyện có nề nếp. Đứng trước tình hình đó là giáo viên
bộ môn thể dục tôi rất trăn trở làm thế nào để khơi dậy tính tích cực và giáo
dục trong giờ học thể dục thể thao.
- Trong quá trình lên lớp, tôi đã thực nghiệm có lồng ghép nhiều nội
dung vào một tiết học. Nhằm tăng khối lượng và cường độ vận động cho học
sinh. Giờ học thể dục phải là một giờ hoạt động tích cực của thầy trò với mục
đích là nâng cao sức khoẻ cho học sinh, gây hứng thú trong tập luyện nhằm
nâng cao hiệu quả tiết dạy. Kết quả khảo sát đầu năm ( 2011-2012)
Lớp
1
2
3
4
5
Tổng số
HS
43/17
64/36
76/26
57/29
70/37
Tỷ lệ
Hoàn thành
A+
9/4
16/8
18/7
15/7
20/9
21%
25%
23,6 %
26,3 %
28,5 %
Hoàn thành Tỷ lệ Chưa hoàn
A
thành
34 /13
79 %
0
48 /28
75 %
0
58 /19
76,4 %
0
42 /22
73,7 %
0
50/28
72,5 %
0
Chương 3 :
Một số biện pháp thực hiện thành công viÖc đổi mới phương pháp
dạy học theo híng tÝch cùc vµ gi¸o dôc kÜ n¨ng ph¸t triÓn trong
giê thể dục
1. Tổ chức tốt các hoạt động học
Mục tiêu đổi mới của môn học là tăng cường hoạt động học tập của học
sinh nªn tổ chức dạy học theo hướng sáng tạo chính là trọng tâm của việc đổi
mới. Vì vậy để đưa học sinh trở thành chủ thể nhận thức, chủ động tìm tòi chủ
động tích cực chiếm lĩnh tri thức mới, giáo viên cần khéo léo tổ chức các hoạt
động dẫn dắt học sinh để giúp các em chiếm lĩnh kiến thức mới theo hướng
tích cực hơn. Người giáo viên cần xác định đúng tầm quan trọng của môn học,
ý nghĩa của môn học để đảm bảo yêu cầu.
- Dạy đủ thời gian, đúng quy trình
- Dạy theo hướng đổi mới
Khi tổ chức dạy học giáo viên cần chú ý đến nghệ thuật thu hút học
sinh, cần tạo ra động cơ thúc đẩy các em tập luyện như: khen ngợi, tuyên
dương...
Mặt khác, kĩ thuật giao việc cho các tổ nhóm hoạt động phải khéo léo,
khối lượng tập luyện đưa ra mà phải đảm bảo tính vừa sức, làm sao để mỗi
đối tượng học sinh đều có thể thực hiện được kĩ thuật động tác một cách cơ
bản và hứng thú. Học sinh phải hứng thú, ý thức tập luyện và tự giác tập luyện
tích cực.
2. Lựa chọn phương pháp dạy học cho phù hợp với bài học
Như chúng ta đã biết, mỗi bài học người giáo viên không chỉ sử dụng
một phương ph¸p dạy học mà phải kết hợp nhiều phương pháp dạy. Do đó
người giáo viên phải có sự lựa chọn, kết hợp các phương pháp dạy học sao
cho phù hợp với bài dạy, với nội dung của từng bài. Bên cạnh đó giáo viên
cần phải căn cứ vào tình hình cụ thể của từng lớp để thay đổi hình thức học
tập, tạo hứng thó
cho học sinh, nhằm giúp cho học sinh chiếm lĩnh tri thức mới bằng con
đường nhanh nhất. Do đú giáo viên cần nắm vững và sử dụng thành thạo các
phương pháp dạy học theo hướng đổi mới.
VD: Khi dạy phần cơ bản bài: Đi kiễng gót ,hai tay chống hông.Đi
nhanh chuyển sang chạy .Trò chơi : “Nhảy ô”và “Kết bạn”*
Trong nội dung: Đi kiễng gót ,hai tay chống hông. Đi nhanh chuyển
sang chạy - Gi¸o viên yêu cầu học sinh nhắc lại kĩ thuật và thực hiện lại kĩ
thuật: 2 - 4 học sinh thực hiện cả lớp quan sát, nhận xét, giáo viên nhận xét
chung.
- Giáo viên cho học sinh tập đồng loạt theo đội hình 4 hàng ngang
(đứng so le) với các động tác riêng lẻ tại chỗ của kĩ thuật đi kiễng gót hai tay
chống hông,đi nhanh chuyển sang chạy.
Chia lớp thành 2 nhóm tập luyện
- Giáo viên tổ chức thi đua trình diễn hai nội dung đó học của hai nhóm
có đánh giá nhận xét.
- Cho học sinh tập đồng loạt cả lớp cùng một lúc để củng cố.
* Trong nội dung 2: Trò chơi : “Nhảy ô”và “Kết bạn”*
- Giáo viên nêu tên trò chơi, phổ biến lại cách chơi, luật chơi.
- Cho học sinh chơi thử
- Tổ chức cho học sinh chơi dưới hình thức thi đấu có nhận xét, đánh
giá, thưởng phạt.
3. Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học
Để thực hiện phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động
của học sinh, việc sử dụng đồ dùng dạy học là cực kì quan trọng. Đồ dùng dạy
học quyết định sự thành công của một tiết dạy. Vì vậy trước mỗi tiết dạy
người giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho tiết dạy của
mình. Giáo viên cần sử dụng các thiết bị dạy học như một nguồn cấp kiến thức
chứ không phải
cần sử dụng các thiết bị dạy học như một nguồn cấp kiến thức chứ không phải
minh họa cho bài học, làm đẹp cho giờ học.
Khi sử dụng đồ dùng dạy học giáo viên cần lưu ý:
- Lựa chọn đồ dùng dạy học cho phù hợp với nội dung bài học
- Nghiên cứu kĩ và sử dụng thành thạo các loại đồ dùng.
- Lựa chọn đúng thời điểm phù hợp để đưa đồ dựng
- Cần huy động tối đa những đồ dùng dạy học mà học sinh có thể chuẩn
bị được để phục vụ cho hoạt động tập thể.
- Các đồ dùng học sinh có thể chuẩn bị không chỉ được sử dụng trong
tiết học mà còn sử dụng cho tập luyện ở nhà, trong những giờ ra chơi.
- Coi đồ dùng như một đồ chơi để học sinh khám phá tích cực và hứng
thú tập luyện.
4. Phối hợp dạy môn thể dục với các môn khác
Như chúng ta đó biết, môn thể dục cùng với các môn khác trong nhà
trường có nhiệm vụ quan trọng trong việc hình thành ở người học những nhân
cách sống của con người mới trong thời đại mới. Trong trường tiểu học, các
môn học có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau, môn nọ làm nền tảng để học tốt môn kia.
Vì vậy, môn thể dục tạo điều kiện cho học sinh tham gia các hoạt động giúp
học sinh thư giãn, thoải mái, xen kẽ trong các tiết học văn hóa căng thẳng.
Học thể dục giúp học sinh tăng cường thể lực, tạo điều kiện tốt về sức khoẻ
cho học sinh tham gia các môn học khác.
Thông qua các hoạt động ngoại khóa như Hội khoẻ Phù Đổng cấp
trường diễn ra hàng năm, các hội thi Nghi thức Đội nhằm củng cố và phát
triển về nội dung đội hình đội ngũ, bài thể dục phát triển chung, trò chơi vận
động, các môn thể thao...
5. Tăng cường bồi dưỡng vốn kiến thức cho giáo viên
Giáo viên cần phải thường xuyên tăng cường học tập, bồi dưỡng vốn
hiểu biết qua sách báo, tạp chí trên truyền hình, học tập đồng nghiệp và mọi
người xung quanh.
Người giáo viên dạy thể dục cần thường xuyên tập luyện để có thể thị
phạm tốt các kĩ thuật động tác.
Thường xuyên thăm lớp, dự giờ, rút kinh nghiệm với các tiết dạy khác.
Tóm lại: Để tăng cường hoạt động học tập của học sinh, thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học môn thể dục, người giáo viên cần phải có sự kết
hợp các biện pháp dạy học, giáo viên cần có sự gắn kết, sâu chuỗi nhịp nhàng
giữa các hoạt động của thầy và hoạt động của trò để định hướng cho học sinh
con đường tự tìm tòi, tự lĩnh hội và tự giác trong tập luyện.
Chương 4 :
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHƠI DẬY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP VÀ
GIÁO
DỤC THỂ CHẤT CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC khai th¸i
- Thông thường khi dạy một tiết thể dục sau quá trình khởi động, hầu
hết các giáo viên chỉ quan tâm cho học sinh học nội dung chính theo chương
trình của Bộ. Do nặng nề về giảng giải kỉ thuật dài dòng làm mất nhiều thời
gian. Mặt khác khi luyện tập lại phải chờ đợi sự luân phiên giữa từng người
nên các em được luyện tập rất ít.
Ví dụ 1: Một giờ học bài thể dục phát triển chung cho học sinh. Đầu năm
cần khảo sát kiểm tra uốn nắn những sai sót ở lớp dưới.
- Tập bài thể dục phát triển chung nhằm tiếp tục rèn luyện cơ quan hô
hấp, các nhóm cơ, khớp của cơ thể, góp phần phát triển thể lực chung và rèn
luyện tư thế cơ bản đúng cho HS. Những động tác này không chỉ dạy cho HS
ở
trên lớp, mà còn là bài tập cho HS có thể tự tập luyện hằng ngày. GV cần yêu
cầu HS thuộc được bài TD, đạt được mức độ cơ bản đúng và nhịp điệu khi
thực hiện từng động tác của bài TD về cấu trúc, phương hướng và biên độ.
- Khi dạy động tác mới, GV nêu tên động tác, làm mẫu giải thích ngắn
gọn. Sau đó GV mới hô nhịp, làm mẫu lại động tác và cho HS bắt chước tập
theo. Kết hợp cho HS xem tranh minh họa động tác đó. Khi xem tranh GV
nhấn mạnh những điểm cơ bản của động tác, không phân tích nhiều, khi chia
nhóm luyện tập GV thấy HS sai ở nhịp nào là sửa ngay cho HS.
- Những động tác cần phối hợp cử động, khi làm mẫu GV cần làm
chậm từng nhịp hoặc dừng lại ở những cử động khó để HS biết được và làm
theo.
Ví dụ 2: Một giờ học nhảy xa chỉ được thực hiện 3-4 lần dẫn đến thể lực
các em không tăng bao nhiêu, kỉ thuật diễn tập cũng không chắc.
- Cho nên khi dạy bài tập rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản
nhằm mục đích đúng tiếp tục rèn luyện tư thế đúng và làm giàu thêm những
phản xạ vận động có điều kiện, rèn luyện tính kho léo, khả năng phối hợp vận
động cần thiết trong đời sống. Vì vậy để dạy có hiệu quả nội dung này, ngoài
việc thực hiện các bước đã hướng dẫn trong sách TD, GV cần chú ý:
+ Thường xuyên uốn nắn các tư thế và động tác để HS thực hiện cho
đúng, vì đây là sự rèn luyện để hình thnh những tư thế cơ bản, cảm giác vận
động và những phản xạ có điều kiện. Nếu GV không quan tâm, chú ý những
điều đó, sẽ
dễ dẫn đến tư thế sai, khả năng vận động kém, phản xạ chậm chạp của các em
và rất khó uốn nắn, điều chỉnh.
+ Khi dạy bài tập rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản, GV làm
mẫu và giải thích ngắn gọn, HS làm theo. Những bài tập này phần lớn là
những bài tập đòi hỏi sự phối hợp, do đó GV cần cho HS thực hiện các động
tác đơn lẻ trước, sau đó mới cho phối hợp dần dần. Tùy theo từng bài tập, có
thể cho cácem tập theo hình thức đồng loạt, lần lượt, chia tổ nhóm hoặc kết
hợp với trò ch¬i,
thi đấu.
-Vì đây là bài tập cần sự phối hợp đồng bộ của các bộ phận cơ thể và sức
mạnh bộc phá của mỗi em. Bước đầu mới tập GV cần hướng dẫn chu đáo cách
thực hiện tư thế chuẩn bị, cách nhún đà, động tác phối hợp chạy nhảy tiếp đất
mà không yêu cầu cao về kĩ thuật. Sau khi HS đạt được những động tác đơn
lẻ, GV cho HS phối hợp toàn bộ động tác
- Khi HS thực hiện bài tập rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản,
nếu chưa đúng hoặc sai tư thế, GV cần nhắc nhở hoặc sửa ngay cho các em.
GV cần lựa chọn vị trí đứng tổ chức, điều khiển tập luyện của HS sao cho hợp
lí, vừa dễ tổ chức và quan sát lại bảo hiểm được cho HS, động viên được các
em trong luyện tập. Trong giờ học, GV thường xuyên nhắc nhở các em thực
hiện hết lượng vận động của từng bài và đảm bảo an toàn trong tập luyện.
- Bài tập phối hợp chạy- mang vác và phối hợp chạy- nhảy- mang vác là
những bài tập đòi hỏi sự phối hợp tinh tế, rèn luyện kéo léo của từng em. Vì
vậy, GV cần tổ chức tốc việc tập luyện của mỗi em với sự phối hợp của cả lớp
để thực hiện đúng yêu cầu của bài tập.
- Thông qua tập luyện môn thể thao tự chọn, bước đầu cho các em làm
quen với môn thể thao thi đấu, nâng cao sức khỏe, thể lực, thông qua đó phát
hiện năng khiếu thể thao của các em HS.
- Khi dạy các động tác của môn thể thao tự chọn, GV thực hiện theo các
bước đã hướng dẫn trong SGV Thể dục và cần chú ý một số nội dung sau:
+ Các bài tập bóng ném chủ yếu là dạy cho HS bước đầu làm quen với
một số động tác cơ bản của kĩ thuật ném bóng như: Cầm bóng,chuẩn bị, các
động tác khởi động với bóng. Vì vậy GV yêu cầu các em tập trung, chú ý và
khéo léo thực hiện động tác một cách tự nhiên, nhịp nhàng
+ Các bài tập tâng cầu bằng đùi, chuyền cầu bằng mu bàn chân, chuyền
cầu theo nhóm hai người là những bài tập cơ bản ban đầu của môn Đá cầu, vì
vậy GV nên cho HS luyện tập lặp đi lặp lại nhiều lần, tập cá nhân rồi mới tập
theo
nhóm.
- Quan tâm theo dõi từng lớp, chú ý sức khoẻ các em trong các buổi tập,
phân bổ khối lượng vận động cho hợp lý, cho từng giới tính học sinh, giáo
viên phân nhóm, lứa tuổi cho phù hợp.
Ví dụ: Học sinh có sức khoẻ khó tập, tập số lần ít hơn, nam tập nhiều hơn
nữ phân nhóm cũng theo sức khoẻ, trong nhóm cần chọn những em có năng
khiếu làm mẫu.
- Theo Tôi cần giảng giải kỉ thuật ngắn gọn, trọng tâm và dễ hiểu. Nên
cho học sinh nắm kỉ thuật qua việc thị phạm làm mẫu chính xác của giáo viên
kết hợp cho học sinh xem hình vẽ kĩ thuật. Dành toàn bộ thời gian cho học
sinh tập luyện.
- Ngoài việc nâng cao khối lượng vận động cho học sinh và khơi dậy tính
tích cực học tập giáo dục các em, Tôi đưa thêm nội dung phụ, phần lớn là các
trò chơi hỗ trợ... vào giờ học.Khi tổ chức trò chơi vận động cho HS, GV cần
chuẩn bị chu đáo, có những điều chỉnh hợp lí về cách tổ chức, lượng vận
động, tránh những hoạt đông hay động tác tiêu cực của HS trong khi chơi. Sau
một số lần chơi, GV có thể thay đổ hoặc tăng thêm yêu cầu, làm cho cuộc chơi
hấp dẫn và kích thích HS luyện tập. Khi dạy trị chơi cho HS, GV nên liên hệ
với những kinh nghiệm hay vốn sống của các em, yêu cầu các em thực hiện
đúng luật chơi
và cách chơi hoặc theo sự chỉ dẫn của GV. GV nên dạy hết trò chơi đá hướng
dẫn trong sách và có thể dạy thêm những trò chơi dân gian hoặc phổ biến ở
địa phương, nhưng phải phù hợp với đặc điểm tâm- sinh lí lứa tuổi các em.
GV cùng HS chuẩn bị tốt các phương tiện cũng như dụng cụ cho các trò chơi
trước mỗi giờ học. Việc đưa thêm một số nội dung phụ vào giờ học sẽ tạo cho
giờ học sinh động và đa dạng, hơn nữa theo thời khoá biểu nên sắp xếp buổi
sáng là 3 tiết đầu, buổi chiều 2 tiết cuối. Để khi các em học tiết thể dục không
bị ảnh hưởng của thời tiết.
Để thực hiện một số giờ học thế này chúng ta cần phân nhóm luyện tập.
x
x
x
x
x
x
x
x
Nhóm 1
Nhóm 2
x
x
x
x
GV
Nhóm 4
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Nhóm 3
x
x
x
x
x
x
x
x
- Việc chia nhóm tập luyện sẽ giúp cho học sinh học được cả hai nội
dung khối lượng và cường độ vận động đã được tăng lên. Mặc khác chia
nhóm tập luyện sẽ làm cho sự luân phiên giữa từng người ít đi, số lần tập tăng
lên, thời gian nghĩ ít sẽ tạo cho học sinh bớt phá phách, nói chuyện đùa giỡn
trong giờ học. Ngoài việc đưa thêm nội dung phụ vào giờ học để tạo không
khí vui tươi,
kích thích sự hưng phấn trong tập luyện của học sinh, nội dung phụ thường là
trò chơi vận động các em học sinh rất ưa thích, được tham gia chơi các em sẵn
sàng ngay, dù giờ học với nội dung chính, các em đã mệt, nhưng nghe chơi,
mọi sự mệt nhọc của các em thấy tan biến, thay vào đó là thái độ nhiệt tình
tích cực vận động. Tuy nhiện việc đưa trò chơi vào giờ học phải hợp lý, vừa
mang sinh khí vui vẽ, vừa có tác dụng hỗ trợ cho giờ học. Nếu những giờ vận
động quá nhiều nên sử dụng trò chơi thư giãn.
Ví dụ: - Đối với nội dung nhảy xa,nên đưa trò chơi nhảy dây tiếp sức
nhảy dây nhanh..
- Đối với nội dung chạy, nên đưa trò chơi chuyền bóng tiếp sức...
- Đối với nội dung thể dục tay không và đội hình đội ngũ, nên đưa trò
chơi bịt mắt bắt dê, kết bạn, nhóm ba nhóm bảy...
- Đối với nội dung tự chọn, chọn các bài tập thể lực bổ trợ cho nội dung
mình chọn.
- Quá trình lồng ghép các nội dung, giáo viên không chú trọng vào nội
dung phụ, mà tập trung chỉ đạo hướng dẫn nội dung chính, còn nội dung phụ
có thể giao cho cán sự lớp quản lý, chỉ đạo, dưới sự quan sát của giáo viên.
- Các môn phụ, khi thực hiện, nếu cần dụng cụ giáo viên phải chuẩn bị
hoặc yêu cầu học sinh chuẩn bị đầy đủ, có như vậy học sinh sẽ có điều kiện
tập luyện nhiều hơn, không khí sẽ sinh động hơn.
- Khi dạy bất kỳ một kỉ thuật, động tác nào, cũng như đối với các bài thể
dục tay không giáo viên cần nghiên cứu tài liệu tham khảo.
Ví dụ: Vấn đề giáo dục thể chất ở bật tiểu học của Vũ Đào Hùng Nhà
xuất bản TDTT.H.1993
Ví dụ: Phương pháp giáo dục thể chất của A.D.Novicov-LP. Matveev
nhà xuất bản TDTT.H.1979
- Đồng thời phát triển sức nhanh, sự khéo léo và khả năng phối hợp vận
động sức bền cho các em.
- Trong quá trình tập để phát huy tính tích cực luyện tập của học sinh bao
giờ cũng dùng phương thức nhóm, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm, mỗi
nhóm có cán sự chịu trách nhiệm, giữa các nhóm có sự thi đua.
- Để nâng cao tính tích cực luyện tập của học sinh, khâu tổ chức trong
quá trình luyện tập cũng rất quan trọng, nếu tổ chức giừo học không khoa
học và hợp lý, học sinh sẽ đùa nghịch, người tập người ngồi chơi, lớp học sẽ
không sinh khí mà mang tính uể oải. Vì vậy chúng tôi cũng rất coi tọng khâu
tổ chức khi bắt đầu tiết dạy cũng như tiến tình tiết dạy cần có biện pháp tổ
chức như thế nào cho khoa học.
1. Tổ chức
Ví dụ: + Cho học sinh biết địa điểm học tập là sân trường xếp thành 4
hàng dọc ngay ngắn hoặc hàng ngang.
+ Trang phục gọn gàng, đúng đồng phục quy định.
+ Đội hình của lớp xếp thành mấy hàng dọc hoặc hàng ngang (
điều này phụ thuộc vào sỉ số lớp và địa điểm sân tập )
+ Thứ tự đứng ( có thể nữ trước nam sau).
+ Phát triển đội hình từ thấp đến cao
- Phát triển đội hình hàng dọc:
- Phát triển đội hình hàng ngang:
- Động tác chỉnh đốn trang phục trước khi cán bộ lớp báo cáo giáo viên.
* Khẩu lệnh: “Chỉnh đống trang phục” do cán sự lớp hô.
* Thực hiện : Học sinh sữa sang quần áo chỉnh tề.
* Lớp trưởng (hoặc cán sự bộ môn) sau khi chỉnh đốn hàng dọc
hàng ngang xong hô to “Nghiêm” rồi tiến lên báo cáo.
* Nội dung:
+ Báo cáo thầy.
+ Lớp đã chuẩn bị xong, sỉ số lớp .... vắng... lý do...., không lý
do....
* Chờ ý kiến thầy
+ Giáo viên nói: được, em về chỗ
+ Cán sự cho lớp nghĩ, nghiêm, chúng em chúc thầy “ Khoẻ”
+ Giáo viên chúc lại học sinh “ Khoẻ”.
+ Buổi tập bắt đầu.
2. Đội hình luyện tập
- Phần này căn cứ vào địa điểm sân bãi. Song thực tế những năm qua Tôi
đã bố trí đội hình như sau
- Đội hình bËt xa
Nệm hoặc cát
GV
- Xem thêm -