Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Skkn một hướng khai thác đoạn trích “trao duyên” trong “truyên kiều” của nguyễn ...

Tài liệu Skkn một hướng khai thác đoạn trích “trao duyên” trong “truyên kiều” của nguyễn du

.DOC
17
224
117

Mô tả:

Đề tài:MỘT HƯỚNG KHAI THÁC ĐOẠN TRÍCH “TRAO DUYÊN” TRONG “TRUYÊN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI : Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một nhà văn lớn có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam, cuộc đời và sự nghiệp của ông mang nhiều tâm tư sâu sắc, quy tụ được những vấn đề xã hội và dự báo nhiều điều cho hậu thế . Trong chương trình môn học THPT, sách giáo khoa đã chọn giảng về kiệt tác truyện Kiều và Nguyễn Du. Vì đây là tác giả lớn nhất, nổi tiếng của văn học Việt Nam. Thông qua Truyện Kiều đã góp phần đưa nền văn học nước nhà lên đỉnh cao nghệ thuật của văn học Việt Nam nói chung, đặc biệt là văn học Trung Đại nói riêng. Bởi vì nó là đỉnh cao của tinh thần nhân đạo trong xu hướng văn học mang tư tưởng nhân đạo. Như vậy với Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở nên một thiên tài văn chương, có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Mặc dù Truyện Kiều của Nguyễn Du có yếu tố vay mượn, vay mượn từ đề tài, cốt truyện, hình tượng nhân vật, Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân- Trung Quốc. Song sự sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn. Ông đã biết sáng tạo những yếu tố ngôn ngữ, sáng tạo ở việc xây dựng hình tượng nhân vật sao cho phù hợp với tinh thần thời đại mà tác giả đã và đang sống, phù hợp với tâm lí của con người Việt Nam đón nhận tác phẩm. Về ngôn ngữ và thể loại thì Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng thể loại thơ truyền thống, thuần nôm, để giải quyết một số vấn đề lớn của thời đại đầy biến cố. Nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, tự nhiên, theo diễn biến của sự việc con người. Song tài năng của Nguyễn Du được khẳng định ở bút pháp tả cảnh, tả người. Những cảnh và người được miêu tả trong tác phẩm có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc. Đặc biệt khi khai thác đặc điểm bản chất của sự việc – nhân vật thì cũng là người hơn ai hết khám phá diễn tả rất hợp lí, sâu sắc và tinh tế đời sống nội tâm của hình tượng nhân vật. Bởi vì Nguyễn Du biết khám phá mọi tình huống, mọi nhân vật tâm lí, theo cách diễn biến riêng biệt, không có lần nào giống lần nào. 1 Hơn nữa Nguyễn Du và Truyện Kiều chiếm vị trí không thể thiếu trong chương trình văn học ở trường phổ thông, tính cả chương trình văn THPT Nguyễn Du và Truyện Kiều chiếm một thời lượng lớn. Trong đó Truyện Kiều được học với tư cách tác phẩm và nhiều đoạn trích. Đoạn trích "Trao duyên" là màn đặc biệt, diễn tả sâu sắc bi kịch đầu tiên trong cuộc đời đầyứaóng gió của Kiều, đồng thời thể hiện tập trung nghệ thuật miêu tả nội tâm và tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Vì thế "Trao duyên" là một đoạn trích hay nhưng cũng rất khó khai thác, nó thu hút những sự tìm tòi khám phá của các nhà nghiên cứu và của giáo viên giảng dạy môn văn. Qua những năm giảng dạy, tích lũy tôi mạnh dạn đề xuất một hướng khai thác đoạn trích này. II. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI: Như đã nói ở trên, là một đoạn trích tiêu biểu cho ngòi bút của Nguyễn Du trong Truyện Kiều nên "Trao duyên" được nhiều nhà nghiên cứu phân tích và khám phá trên nhiều bình diện. Lê Trí Viễn với bài viết "Trao duyên" trong cuốn "Đến với thơ hay" - NXB Giáo dục -1998 đã phân tích sâu sắc ngôn ngữ nhân vật, chỉ ra cách sử dụng từ ngữ độc đáo, ý nghĩa của các từ ngữ trong việc Kiều thuyết phục Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim nhằm làm nổi bật cái "sắc sảo mặn mà" của nhân vật, nhưng cũng chính vì thế mà bài viết chưa làm nổi bật được diễn biến tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. Bài viết của Lê Bảo trong "Giảng văn văn học Việt Nam" - NXBGD-1997 một bài viết rất công phu, khám phá sâu sắc về nhiều phương diện nghệ thuật của đoạn trích "Trao duyên" nhằm làm nổi rõ dòng tâm trạng của nhân vật như tác giả kết luận: “ý thức về thân phận của con người trong tác phẩm là kết quả của những yếu tố nghệ thuật kết hợp lại một cách nhuần thấm tự nhiên, trong đó có nhịp điệu, các thành ngữ, việc miêu tả thời gian tâm lý trong cái dòng phát triển biện chứng của những trạng huống tâm hồn" và tác giả Lê Bảo phân tích rất kỹ các yếu tố nghệ thuật như nhịp điệu, từ ngữ, thành ngữ - tác giả chú ý phân tích làm rõ thời gian tâm lý trong đoạn trích nhưng chỉ chú ý vào phần sau mà chưa chú ý dòng chảy thời gian tâm lý xuất hiện ngay từ đầu đoạn trích, chính nó tạo nên nhịp độ chung 2 cho đọan trích cũng như quy định ngôn ngữ, hành động của nhân vật trong việc trao duyên. Hơn nữa đây là một bài viết chuyên sâu nên nếu áp dụng bài viết này vào bài giảng trong hai tiết ở lớp với trình độ của học sinh, giáo viên sẽ gặp nhiều khó khăn, lúng túng giữa việc cân bằng nội dung bài giảng với lượng thời gian lên lớp. Ở sách giáo viên một cuốn sách có tầm định hướng cụ thể chi tiết cho giáo viên trong soạn bài, lên lớp cũng viết bài nàykhá rõ ràng, chu đáo với mục đích "làm rõ" chủ đề "bi kịch tình yêu tan vỡ", khám phá lôgích trong diễn biến tâm trạng và ngôn ngữ biểu đạt. Bài viết này chia đoạn trích làm hai phần với ba nội dung chủ yếu : nội dung thứ nhất "Mâu thuẫn làm nền cho diễn biến tâm trạng nhân vật". Nội dung thứ hai: "Thúy Kiều nhờ em thay mình trả nghĩa Kim Trọng". Nội dung thứ ba: "Tâm trạng bi kịch của Thúy Kiều”. Như vậy tác giả Nguyễn Lộc chỉ tập trung khám phá tâm trạng nhân vật ở phần thứ hai còn phần đầu của đoạn trích tác giả chỉ tập trung phân tích sức thuyết phục trong lời lẽ của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân trả nghĩa Kim Trọng. bài viết này phù hợp với nội dung câu hỏi hướng dẫn học bài ở sách giáo khoa. ở sách giáo, khoa có ba câu hỏi: Câu hỏi 1 và 2 đòi hỏi học sinh tìm hiểu ý nghĩa của một số từ ngữ, thành ngữ trong việc thuyết phục Vân cuả Thúy Kiều. Câu hỏi 3 đòi hỏi phân tích tâm trạng của Thúy Kiều từ câu: "Ngày xuân em hãy còn dài " đến hết đoạn trích Như vậy chúng ta thấy rằng các bài viết đã có những thành công.Tuy nhiên chưa tác giả nào khám phá đoạn trích từ phía tìm hiểu dòng thời gian tâm lý. chính sự cảm nhận thời gian của nhân vật trong đoạn trích đã quy định cách thể hiện ngôn ngữ, hành động cũng như thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật. Vì thế để khám phá sâu sắc diễn biến tâm lý nhân vật tôi đề xuất khám phá đoạn trích từ cái nhìn thời gian nghệ thuật. III. CƠ SỞ ĐỀ RA GIẢI PHÁP 1. Cơ sở lý luận: Truyện Kiều là đỉnh cao cùa ngôn ngữ văn học dân tộc. Nguyễn Du là nhà nghệ sĩ ngôn ngữ bậc thấy. Phong cách ngôn ngữ trong truyện Kiều rất đa dạng, điều này cũng được bộc lộ phần nào trong các đoạn trích ở SGK. Khi hướng dẫn học sinh tìm 3 hiểu các đoận thơ, cần hết sức chú ý đến các sắc thái riêng của ngôn ngữ nghệ thuật ở mỗi đoạn và cả sự biến đổi về ngôn từ, giọng điệu trong một đoạn. Nhiều nhà nghiên cứu, nhà thơ đã bình giảng rất kĩ về nhiều chữ nghĩa đặc sắc trong truyện Kiều. Một số chữ từng là đề tài tranh luận, và đến nay vẫn còn là những cách hiểu khác nhau. Không cần đi quá sâu vào những điểm tranh luận về chữ nghĩa, nhưng giáo viên cũng cần biết các ý kiến ấy trong khi đưa ra cách hiểu của SGK. Một trong những đặc điểm của ngôn ngữ Truyện Kiều là sử dụng rộng rãi cách nói ước lệ, sử dụng nhiều ẩn dụ, tượng trưng, nhiều điển cố, điển tích. Trong quan niệm của thơif Trung đại thì đĩều đó chứng tỏ sự uyên bác, điêu luyện của tác giả. Nhưng với người đọc ngày nay thì đây là một khó khăn, thậm chí là một rào cản khi tiếp nhận tác phẩm cổ điển - sự ngăn cách không chỉ ở phạm vi ngôn từ mà còn là cơ tầng văn hóa. Để khắc phục phần nào khó khăn này của học sinh, nhất thiết phải lưu ý các em đọc kĩ các chú thích và đọc nhiều lần đoạn thơ được học. Giảng dạy tác giả Nguyễn Du - Truyện Kiều là yêu cầu cho học sinh cảm thụ sâu sắc về con người - cuộc đời- sự nghiệp của Nguyễn Du, những sáng tác của ông mà đỉnh cao là Truyện Kiều. Khi giảng đến phần này thì như chúng ta biết con người và sự nghiệp sáng tác của ônng không đứng trên lập trường, quan điểm của giai cấp mình, mà đứng trên quan điểm của nhân dân để sáng tác. Để rồi gửi gắm và tâm sự vào tác phẩm văn chương. Giáo viên cần lí giải cho học sinh biểu hiện tượng văn học này cũng phức tạp. Cho nên học sinh cần phải tiếp cận với tác phẩm nhiều hơn, bởi vì tác phẩm Truyện Kiều có giá trị hiện thực lớn, giá trị nhân đạo sâu sắc. 2. Cơ sở thực tiễn Nghiên cứu Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những vấn đề được các nhà khoa học chú trọng từ trước đến nay, trong đó có hai công trình lớn rất có giá trị là: "Phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều" của Phan Ngọc và "Thi pháp Truyện Kiều" của Trần Đình Sử; hai tác giả này đã nghiên cứu nhiều phương diện khác nhau của Truyện Kiều trong đó có sự tập trung khám phá thời gian nghệ thuật trong tác phẩm. Qua nghiên cứu, Phan Ngọc khẳng định, Truyện Kiều có 4 “hai thời gian", "một thời gian khách quan của thế giới và một thời gian nội tâm trong lòng từng nhân vật”, ông còn nói "thời gian nghệ thuật này không được đo bằng kim đồng hồ mà được đo bằng xúc cảm con tim”. Ông còn chỉ ra sự cảm nhận thời gian cụ thể ở nhân vật Thúy Kiều: "Thế giới nội tâm tách ra thành ba thời gian: sững sờ trước hiện tại, hồi tưởng tới quá khứ và lo lắng cho tương lai". Trong "Thi pháp Truyện Kiều " Trần Đình Sử dành một mục lớn để khám phá nhiều phương diện của hình tượng thời gian ông đã chỉ ra Truyện Kiều có "một dòng thời gian tâm lý" đó là sáng tạo độc đáo vượt xa truyện nôm đương thời của Nguyễn Du. Dòng thời gian tâm lý xuất hiện ở tất cả các nhân vật nhưng rõ nhất ở Thúy Kiều: "thời gian của Kiều là do hoạt động có ý thức của Kiều tạo ra trong tương quan với hoàn cảnh”. Vì thế trước mỗi hoàn cảnh, cảnh ngộ Kiều lại có sự cảm nhận thời gian theo một cách riêng và dòng thời gian đó bộc lộ rõ thế giới nội tâm của Kiều. Sự cảm nhận thời gian của Kiều rất phong phú và đa dạng tùy vào sự biến thái, đổi thay tâm trạng của nàng trước mọi cảnh huống. Như vậy ta có thể khẳng định trong Truyện Kiều có một dòng thời gian tâm trạng, dòng thời gian đó được xây dựng trên sự cảm nhận, ý thức của nhân vật trong mối quan hệ với hoàn cảnh vì thế muốn khám phá thế giới nội tâm nhân vật ta có thể dựa vào khám phá hình tượng thời gian nghệ thuật mà tác giả xây dựng trong tác phẩm. Những thành tựu của ngành thi pháp học cộng với những nghiên cứu cụ thể của các giáo sư trong hai công trình trên đã trang bị cho tôi phương tiện để đi vào khám phá những biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong đoạn trích "Trao duyên”. Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy thế giới nội tâm của Kiều được bộc lộ rõ qua việc nhà thơ xây dựng một dòng thời gian một cách đặc biệt đó là một thời gian hiện tại dồn nén, thắt ngặt trong cảnh huống đầy bi kịch, một thời gian đồng hiện trong sự hoảng loạn của nội tâm vì tình yêu tan vỡ. IV. MỘT HƯỚNG KHAI THÁC ĐOẠN TRÍCH “TRAO DUYÊN” 1. Lưu ý khi dạy phần tiểu dẫn: Bên cạnh việc xác định vị trí đoạn trích trong toàn bộ bố cục kết cấu của tác phẩm như sách giáo khoa đã trình bày chúng tôi còn chú ý giúp học sinh xác 5 định sự kiện trao duyên xảy ra trong giai đoạn nào của cuộc đời Kiều để xác định rõ tâm lý nhân vật lúc đó đồng thời định hướng cho học sinh thấy đoạn trích tập trung miêu tả tâm trạng nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại: Nhân vật tự suy ngẫm, tự nếm trải, giãi bày, cảm nhận trước thực tế phũ phàng nên thế giới nội tâm đó càng sâu sắc, chân thực. Từ những suy nghĩ đó, chúng tôi thử đề xuất hệ thống câu hỏi trong phần này: Câu hỏi : Dựa vào phần tiểu dẫn ở SGK và những hiểu biết về Truyện Kiều em hãy nêu ngắn gọn vị trí đoạn trích? Yêu cầu: Đoạn trích nằm phần đầu tác phẩm từ câu 724 đến câu 756 sau một loạt những biến cố lớn: Kiều phải chia tay để Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, gia đình Kiều bị vu oan, Kiều phải từ bỏ tình yêu, bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em, đây là đêm cuối cùng trước ngày ra đi Kiều tâm sự và nhờ Vân trả nghĩa chàng Kim. Câu hỏi Những biến cố này xảy ra trong giai đoạn nào của đời Kiều?ở Kiều nảy sinh tâm lý gì? Yêu cầu: Sự kiện này xảy ra khi Kiều chỉ mới "Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê" (khoảng 15, 16 tuổi) Kiều còn rất ngây thơ trong sáng chưa có va chạm trong cuộc đời, chưa hề có sự chuẩn bị chống đỡ những nghiệt ngã của số phận, tai họa lúc này tạo nên ở Kiều một cú sốc tâm lý lớn với những biến thái nội tâm vô cùng phức tạp. Câu hỏi : Truyện Kiều là tác phẩm tự sự nhưng đoạn trích lại sử dụng ngôn ngữ độc thoại, dụng ý của tác giả ? Yêu cầu: Để nhân vật tự độc thoại, tức là để cho nhân vật tự suy ngẫm, tự nếm trải, tự giãi bày thế giới nội tâm của mình thì thế giới nội tâm đó hiện lên một cách chân thực và sâu sắc nhất. Từ đó chúng ta rút ra cho học sinh thấy đoạn trích "Trao duyên" chủ yếu thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật, khám phá đoạn trích tức là đi sâu khám phá diễn biến tâm lý đó. Đồng thời để thấy rõ tấm lòng cũng như tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả tâm lí nhân vật ở Truyện Kiều. 2. Phân tích đoạn trích : 6 câu hỏi:Dựa vào sự tìm hiểu kết cấu và bố cục đoạn trích em hãy đề xuất cách phân đoạn để phân tích? Theo dòng chảy tâm trạng của nhân vật trong đoạn trích chúng tôi chia đoạn trích làm hai phần để tìm hiểu, phần thứ nhất từ đầu cho đến câu: "Duyên này thì giữ vật này của chung", phần thứ hai: Tiếp đó cho đến hết. a. Phần thứ nhất: Có thể nói màn "Trao duyên" diễn ra toàn bộ ở phần này, ở đây tác giả đã xây dựng một bối cảnh thời gian đặc biệt. Bối cảnh thời gian làm nổi bật diễn biến tâm trạng của nhân vật vì thế để phân tích diễn biến tâm trạng của Kiều ở đây chúng tôi đề xuất những câu hỏi như sau: Câu hỏi: Kiều tâm sự với Vân ở thời điểm nào? Thời điểm đó tác động gì đến nhân vật? Yêu cầu : Kiều tâm sự với Vân vào đêm cuối cùng trước ngày Kiều theo Mã Giám Sinh từ bỏ gia đình, từ bỏ mối tình với chàng kim ra đi,đây là khoảng thời gian ngắn ngủi mà kiều còn được ở với gia đình. Sự thắt ngặt của thời gian đó tạo nên sự dồn nén cảm xúc đậm đặc, trong mỗi tích tắc của thời gian có sự vận động của nội tâm của ý thức với những biến hóa khôn lường, bởi chỉ có một thời điểm duy nhất, một con người duy nhất có khả năng nhận lời gửi gắm cái tài sản quý giá nhất, cái hi vọng cuối cùng của Kiều. Tính chất thắt ngặt, dồn nén của bối cảnh thời gian đó đã tạo nên một cơn lốc nhỏ làm cồn lên những suy nghĩ, những thổn thức, thúc đẩy nhân vật hành động. Sau những đắn đo: “Hở môi ra cũng ngượng ngùng/ để lòng thì phụ tấm lòng với ai” Kiều quyết định trao duyên cho em Câu hỏi : Việc Kiều trao duyên cho em thể hiện rõ nhất ở những câu thơ nào trong đoạn trích? Yêu cầu: màn trao duyên diễn ra trọn vẹn ở phần thứ nhất của đoạn trích và hoạt động trao duyên cũng chỉ diễn ra ở những câu thơ đầu và cho đến câu thơ "Duyên này thì giữ vật này của chung" Những câu thơ thể hiện một sự kiện có một không hai trong cuộc đời Kiều, bộc lộ sâu sắc nỗi đau của thân phận con người, thân phận tình yêu trong xã hội xưa. Câu hỏi : Màn trao duyên diễn ra qua trình tự như thế nào? 7 Yêu cầu : - Trong 4 câu thơ đầu ngôn từ và hành động của Kiều vô cùng đặc biệt * Câu thơ mở đầu có hai từ em, cậy *Có sự phi lý trong thái độ trân trọng quá đáng với Thúy Vân của Kiều ở hành động "lạy thưa " Câu hỏi: Em có nhận xét gì về lời lẽ, hành động của Kiều đối với Thúy vân trong màn trao duyên? vì sao Kiều lại hành động như thế? Yêu cầu: Lời nói, hành động được Kiều thể hiện liên tiếp dồn dập, vội vàng. Hành động vội vàng này của Kiều trước hết bắt nguồn từ việc Kiều ý thức sâu sắc hoàn cảnh của mình trong hiện tại: Tình yêu vô cùng mãnh liệt, khát khao hạnh phúc thì vô biên mà thời gian để yêu thương thì ngắn ngủi, chật hẹp. Sóng gió cuộc đời khủng khiếp ập tới bất cứ lúc nào. Chính ý thức thời gian này đã làm cho Kiều phải hành động vội vàng. Kiều nói với em bằng những lời lẽ khẩn thiết nhất, cảm động nhất “Cậy em em có chịu lời''. Tất cả sự trông đợi, sự ký thác gửi cả vào từ “cậy”, nàng khẩn khoản van nài em bằng những hành động tôn kính quá mức : "lạy, thưa''...làm những điều đó Kiều muốn Vân không thể chối từ và Kiều có thể trả nghĩa chàng Kim trong muôn một. Hơn nữa nhịp độ gấp gáp vội vàng trong những câu thơ còn thể hiện tinh thần tranh chấp với số mệnh của Kiều; bởi ngay trước đó Kiều đã có những kinh nghiệm xương máu về những phi lý của cuộc đời: vừa nhận lời yêu Kim Trọng “thề hoa chưa ráo chén vàng” Kim Trọng đã phải ra đi. Gia đình đang hạnh phúc “êm đềm trướng rủ màn che” cha mẹ đã : “rường cao rút ngược dây oan”, tai họa có thể ập tới bất cứ lúc nào con người không thể chống đỡ nổi. Kiều phải hành động tranh chấp với thời gian để cứu lấy tình yêu của mình và Kim Trọng. Câu hỏi: em thử so sánh việc Kiều trao dyên với những việc làm khác của nàng trước và sau này? Yêu cầu: Những quyết định trong cuộc đời đều được Kiều cân nhắc, suy nghĩ rất chín chắn. Khi quyết định bán mình nàng đã “để lời thệ hải minh sơn/làm con trước phải đền ơn sinh thành” sau những đắn đo, dằn vặt khủng khiếp và sau này cũng thế bao giờ kiều cũng phải suy nghĩ rất nhiều nhưng ở đây dường như Kiều 8 không hề so đo, tính toán nàng nghĩ đến và làm rất mau chóng. Có lẽ nàng biết mình không thể dùng dằng được nữa, thời gian không cho phép, sáng ra nàng đã phải lên đường, phải từ bỏ tất cả. Câu hỏi: Trong bốn câu cuối của phần thứ nhất Kiều đã thuyết phục em như thế nào? (Bốn câu cuối từ: "Ngày xuân em hãy còn dài” cho đến “ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây” ) Yêu cầu: Để thuyết phục em , Kiều đã dùng những lời lẽ thật đặc biệt. Trong lời của nàng có một loạt thành ngữ nói lên mối quan hệ thân thiết, ruột rà như: tình máu mủ lời nước non Hay là những thành ngữ chỉ cái chết: thịt nát xương mòn ngậm cười chín suối Đó là lời lẽ có sức mạnh lay động tình cảm, lòng trắc ẩn của con người nhất là những người thân. Kiều đã nói với em bằng tất cả sự đau đớn, chua xót cho thân phận mình. Lời của Kiều như là những lời trăng trối, nàng viện dẫn cả tình máu mủ ruột rà, cả cái chết thê thảm để thuyết phục em. Kiều hiểu, để Vân nhận lời cũng rất khó khăn bởi đây là một việc làm thay đổi cả đời Vân, là gánh nặng mà Vân phải mang suốt cả cuộc đời. Nàng vô cùng thông cảm cho em nhưng nàng cũng không còn cách nào khác nghĩa chàng Kim quá nặng mà hoàn cảnh của Kiều lúc này thì quán éo le. Câu hỏi :Lời lẽ, thái độ và hành động của Kiều ở đây,cho ta thấy điều gì ? Yêu cầu: Kiều đã quyết định dứt khoát, và tìm mọi cách để thuyết phục Thuý Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim, bởi Kiều ý thức sâu sắc về hạn chót của thời gian, Kiều không thể làm gì khác để cứu tình yêu. Trong ý thức nàng đây là hành động duy nhất mà nàng có thể làm cho tình yêu, cho chàng Kim. Cho nên nàng đã dùng tất cả nỗi thống khổ của đời mình và những lời lẽ thuyết phục nhất để thuyết phục Vân. Câu hỏi: bên cạnh việc thuyết phục Thuý Vân, lời nói của Kiều còn thể hiện điều gì? 9 Yêu cầu: Bên cạnh đó, lời của Kiều còn cho ta thấy sự cảm nhận của nàng về bi kịch số phận, bi kịch tình yêu, một cách sâu sắc. Trong từng câu, từng chữ nàng nói với em, có sự ý thức sâu sắc về thân phận của mình, đó là sự hiển diện của một "mệnh bạc" của cái chết "Thịt nát xương mòn". Nhưng đặc biệt nhất, ở đây lời của nàng thể hiện nỗi đớn đau tột cùng trước sự tan vỡ của tình yêu. Nàng nhắc lại kỷ niệm tình yêu thật tha thiết (ngay khi đang tìm cách trao duyên cho em). Nàng nhớ như in phút dây gặp gỡ, hẹn thề ''khi gặp chàng Kim, khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề "đó là phút dây đẹp nhất đời nàng. Thế mà tình yêu đó thật ngắn ngủi, những tai hoạ khủng khiếp đổ xuống bất ngờ không thể chống đỡ “sóng gió bất kì”, “giữa đường đứt gánh tương tư” tình yêu phút chốc nát tan. Câu hỏi: để diễn tả nỗi đau này của Kiều tác giả sử dụng những phương tiện nghệ thuật nào? Đoạn thơ có điệp ngữ “khi gặp, khi ngày, khi đêm”, âm điệu thơ luyến láy, nhịp điệu thơ gấp gáp, hình ảnh thơ tương phản gay gắt đã diễn giải ý thức sâu sắc của Kiều về sự ngắn ngủi mong manh của hạnh phúc tình yêu giữa cuộc đời dâu bể. Tất cả những điều này làm nổi bật cái bi kịch oan trái của cuộc đời Kiều: Khát khao hạnh phúc thì vô biên, hiện thực đời sống tàn nhẫn, khủng khiếp đã biến hạnh phúc thành chốc lát, tất cả chỉ còn là sự xót xa nuối tiếc khôn nguôi. Câuhỏi: Sau những lời thuyết phục em việc làm tiếp theo của Kiều là gì? Yêu cầu: việc làm tiếp theo của Kiều là trao kỉ vật cho em Câu hỏi: cảm nhận của em khi nghe Kiều dặn dò Vân lúc trao kỷ vật? Yêu cầu: Kiều trao kỷ vật cho em ''chiếc thoa, bức tờ mây'' những vật minh chứng cho tình yêu của Kim Kiều bây giờ nàng đưa lại cho em, thế là mọi việc đã kết thúc, Vân đã nhận lời việc đền ơn Kim Trọng đã xong. Thế mà, Kiều vẫn không thể thanh thản bởi duyên đã trao nhưng tình thì không thể dứt nên kỷ vật đã trao mà nàng vẫn cố níu kéo bằng lời dặn “vật này của chung”. Câu thơ không hề có một từ ngữ nào miêu tả trực tiếp nội tâm nhân vật, nhưng sự dùng giằng khi trao kỷ vật của Kiều lại gợi dậy cho người đọc những cảm nhận về tâm trạng tiếc nuối, vò xé của nàng. 10 Như vậy ở phần thứ nhất trong đoạn trích này tác giả không chỉ thể hiện sự "sắc sảo" của Kiều trong việc thuyết phục Thúy Vân trả nghĩa chàng Kim. Nếu chỉ là thuyết phục Vân thì bốn câu đầu đã hoàn thành viên mãn. Ở đó có cả việc trao gửi, có người nhận lời gửi gắm, có cả hoàn cảnh éo le "giữa đường đứy gánh tương tư" buộc Kiều phải nhờ cậy nhưng ở đây Kiều giãi bày rất dài dòng, hành động, lời nói của Kiều không chỉ chịu sự chỉ đạo của lý trí mà còn do những cảm nhận về cảnh ngộ của bản thân trong hiện tại đã tạo ra những khủng hoảng nội tâm sâu sắc. Nên những nguồn cơn trong lòng nàng trào dâng không kìm giữ nổi. Chúng ta thấy trong đoạn thơ xuất hiện hai dòng chảy: một dòng chảy của lý trí và một dòng chảy của tâm trạng. Mạch ngầm đầy dư ba đó biểu hiện sâu sắc cái nhìn cảm thông nhân đạo của Nguyễn Du trước bi kịch cuộc đời Kiều. Đồng thời việc khám phá được những rung động tinh vi trong tâm hồn nhân vật như thế, chứng tỏ nhà thơ là một kì tài trong việc phân tích nội tâm nhân vật. b.Phần thứ hai: Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh thấy được diễn biến tâm trạng của nhân vật từ phần thứ nhất đến phần thứ hai bằng câu hỏi có tính chất gợi ý như sau : Câu hỏi : Nếu phần thứ nhất tâm trạng của Kiều chủ yếu được thể hiện qua sự cảm nhận cái hiện tại ngắn ngủi thì ở phần này tâm trạng của Kiều được biểu hiện qua dòng thời gian nghệ thuật như thế nào ? Yêu cầu: ở phần thứ nhất Kiều phải dùng lý trí kìm nén cảm xúc để trao duyên cho em thì lúc này việc vì người đã xong, lý trí không còn đủ sức kìm giữ được cảm xúc Kiều rơi vào sự khủng hoảng tâm lý cực độ. Tâm trạng đó của Kiều được biểu hiện bằng những lời nói, hành động của Kiều trong sự cảm nhận thời gian đặc biệt đó là thời gian đồng hiện quá khứ, hiện tại, tương lai. Câu hỏi : Từ sự kiện trao duyên Kiều cảm nhận hiện tại của mình như thế nào? Yêu cầu : Khi duyên đã trao, tình yêu vĩnh viễn tan vỡ, hạnh phúc trở thành ảo vọng, hiện tại đã trở thành thời điểm phân chia, ngã ba đường của số phận để nhân vật quay nhìn vào quá khứ, soi rọi vào tương lai. Soi rọi vào tương lai Kiều nhìn 11 thấy hạnh phúc của Thúy Vân khi đã "nên vợ nên chồng" với chàng Kim và Kiều cũng thấy thân phận mình đã trở thành kẻ "mệnh bạc", kẻ bị "mất người" vì thế trong Kiều trào lên niềm tự thương khắc khoải, xót xa. Câu hỏi : Đồng thời với việc nhìn thấy tương lai đó trong Kiều có diễn biến tâm lý như thế nào? Bộc lộ tâm trạng gì ? Yêu cầu : Từ hiện tại cay đắng ( mất tình yêu) hình dung một tương lai bất hạnh khi đối sánh số phận mình với duyên tình của Thuý Vân, Kiều quay về tìm đến với tình yêu bằng kỷ niệm của ngày gặp gỡ hẹn thề, "phím đàn với mảnh hương nguyền”nhưng tất cả đã không còn. Mọi việcđã trở thành quá khứ, hai từ "ngày xưa" đã đẩy lùi cái kỷ niệm êm đềm ngày nào vào quá khứ xa xôi, vời vợi (mặc dù tình yêu Kim - Kiều vừa mới ''thề hoa chưa ráo chén vàng”, những sự biến trong gia đình Vương ông xảy ra gần như đồng thời với việc Kim Trọng về Liêu Dương). Cái ngày nay phút chốc đã là cái ngày xưa cả "phím đàn", cả "lò hương " đêm thề thốt, những gì đẹp nhất, quý giá nhất đã hun hút xa xôi, chìm vào bóng tối. Kiều trở về quá khứ tưởng tìm được nơi an ủi nhưng kỷ niệm lại là nhát dao cứa mạnh vào tim, đẩy nàng tới sự hoảng loạn, nàng chạy trốn kỷ niệm tìm đến với tương lai. Câu hỏi : Trước mắt Kiều hiện lên một tương lai như thế nào ? Yêu cầu : Trước mắt Kiều hiện lên một tương lai thật hãi hùng, nàng nhìn thấy số phận của mình nơi mai hậu thật là thê thảm, nàng đã là người của thế giới bên kia, linh hồn nàng vật vờ theo lá cây ngọn cỏ trở về mang theo niềm tiếc nuối khắc khoải ''hồn còn mang nặng lời thề " nhưng tình yêu bất diệt của nàng không còn chỗ trong cuộc sống hiện thực. Cũng ''lò hương ấy",''tơ phím này" nhưng người so tơ, đốt lò không còn là Kiều cũng không còn là Kim của ngày xưa. Sự trở về của Kiều chỉ còn niềm hy vọng duy nhất là sự cảm thông của người ngày xưa “rưới xin chén nước cho người thác oan” Kiều ví mình như chàng Trương Chi thủa nào mang nặng khối tình xuống Tuyền đài chỉ có sự thấu hiểu của người ngày xưa mới có thể hoá giải nỗi oan tình, nàng khẩn cầu niềm an ủi để xoa dịu nỗi đau. Vậy mặc dù duyên đã trao, nhưng Kiều không hề thanh thản, sự tan vỡ oan khuất của tình yêu làm nàng đau đớn không cùng hồn nàng không thể về nơi siêu tịnh, nàng chỉ hy vọng mai hậu Kim Trọng cảm thông may ra nỗi oan thác này mới được giải tỏa. 12 Câu hỏi: em có nhận xét gì về dòng thời gian ở đây? Yêu cầu: Dòng thời gian ở đây không tuân theo sự chảy trôi của thời gian khách quan bên ngoài mà nó có những nhịp độ hoàn toàn khác: có sự hồi hoàn giữa thời gian hiện tại, quá khứ, tương lai trong một khoảnh khắc ngắn của cả cuộc đời. Giọng thơ cũng thay đổi, hình ảnh thơ chập chờn ma mị, thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ) không khí linh thiêng (đốt lò hương, so tơ phím).Tất cả nói lên tâm trạng khổ đau khủng hoảng của nhân vật. Sự đối lập găy gắt giữa ước vọng và hiện thực cuộc sống đã làm cho Kiều rơi vào tột cùng bi kịch, dẫn tới sự khủng hoảng tâm lý dữ dội. Câu hỏi: Nhận xét của em về nghệ thuật miêu tả nội tâm của nhà thơ? Yêu cầu: Xây dựng dòng thời gian tâm lý này Nguyễn Du đã làm nổi bật thế giới nội tâm đầy mâu thuẫn của Kiều. Một mặt nàng muốn trao duyên cho em để chàng Kim đỡ đau khổ, một mặt nàng không dứt nổi mối tình tuyệt đẹp của mình và khi không thể giữ nổi tình yêu nàng đau đớn đến hoảng loạn. Nàng gần như mất hết ý thức về không gian, thời gian. Vì thế dòng thời gian ở đây không tuân theo thời gian khách quan mà nó có một nhịp độ riêng thẫm đẫm cảm xúc, tâm trạng. Dùng dòng thời gian đặc biệt này nhà thơ đã mổ xẻ tâm trạng nhân vật một cách chân thực nhất, những biến đổi tinh vi của tâm hồn được lý giải thật sâu sắc, tài tình. Trong sự hoảng loạn khi tình yêu đã mất, Kiều chìm vào một dòng thời gian ảo, Kiều như nửa tỉnh nửa mê đang nói chuyện cùng Vân nàng bỗng như nói chuyện với mình, nàng đối diện một thực tế đớn đau: Trâm gãy gương tan Tơ duyên ngắn ngủi Câu hỏi : Tâm trạng của Kiều được thể hiện rõ nhất qua từ ngữ nào? Yêu cầu: Từ “bây giờ” như một cái mốc oan nghiệt xẻ cuộc đời Kiều thành hai nửa. Một nửa trong quá khứ êm đẹp, một nửa là hiện tại bi thương. Cái giới hạn chia đời Kiều thành hai nửa đó chính là bi kịch trao duyên mà Kiều vừa thực hiện xong. Cái“bây giờ” trở thành bản lề khép mở hai thế giới của đời Kiều: một quá khứ “êm đềm trướng rủ màn che”, một tương lai “mệnh bạc” hồn vật vờ theo lá cây ngọn cỏ vì ôm mối oan tình không dứt. 13 Câu hỏi: Quay lại với hiện tại, đối diện với bi kịch "bây giờ trâm gãy, bình tan” tâm trạng Kiều như thế nào? Yêu cầu:Tâm trạng Kiều có sự đột biến. Nỗi đau khi tình yêu bị tan vỡ thì người ngoài cuộc không thể hiểu, nàng Vân không thể chia sẻ. Lúc này, tâm trạng Kiều chìm tới đáy của sự chiêm nghiệm cá nhân, của nỗi đau cuộc đời, nàng ý thức sâu sắc thân phận của mình. trâm gãy bình tan tơ duyên ngắn ngủi phận bạc như vôi nước chảy hoa trôi Lời nói của Kiều có một loạt những thành ngữ diễn tả cái tan vỡ, cái bất hạnh, cái nổi trôi vô định của số phận, Kiều nhắc tới điều đó bằng sự ý thức về thân phận, về cuộc đời bi kịch của mình, bằng nhận thức sự đối lập găt gắt giữa cái hữu hạn của số phận và cái "muôn vàn" vô hạn của tình yêu, ước vọng. Hiện tại đẩy nàng xuống tận cùng bi kịch, nỗi đau này không thể chia sẻ cùng ai, kể cả nàng Vân chỉ có chàng Kim là hiểu, chàng là người duy nhất có thể chia sẻ vì thế từ sự tự thương mình Kiều tìm đến chàng Kim và bóng hình chàng Kim xuất hiện trong sự tưởng tượng của Kiều. Đang đối mặt cùng Thuý Vân thế mà Kiều dường như vượt qua cả không gian thời gian để cùng tâm sự với chàng Kim. Lời của nàng giờ đây là những lời than chua xót về thân phận của mình và thân phận của tình yêu, đặc biệt là những lời tạ lỗi cùng Kim Trọng: Kể làm sao hết muôn vàn ái ân Trăm nghìn gửi lạy chàng Kim Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai Nàng gọi tên chàng Kim bằng những tiếng nấc nghẹn ngào như trong cơ mê sảng “Ôi Kim lang hỡi Kim lang/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”. Những gì đã lo cho chàng Kim chỉ làm nàng yên tâm trong khoảng khắc, nàng vẫn mang nặng trong lòng mình nỗi mặc cảm tội lỗi. 14 Câu hỏi: Cảm nhận của em về tâm trạng nhân vật ở đây? Yêu cầu: Đoạn thơ diễn tả một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng của con người tài sắc mà mệnh bạc. Nàng khổ đau, quằn quại đâu phải chỉ vì chính mình mà còn vì người nên nỗi đau càng nhân lên gấp bội Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh tổng kết các phương diện nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, từ đó rút ra những giá trị về mặt nội dung tư tưởng và những thành công nghệ thuật của đoạn trích Câu hỏi: em có nhận xét gì về diễn biến tâm trạng của nhân vật trong màn “trao duyên” vừa phân tích ở trên? Yêu cầu: Diễn biến tâm trạng của nhân vật Thuý Kiều được diễn tả một cách chân thực, theo một dòng chảy tâm lý vô cùng lôgic từ sự kiên quyết trao duyên cho đến đau đớn, bàng hoàng, khủng hoảng khi nhận thấy tình yêu đã mất, cuối cùng là nỗi đau thương cho thân phận bọt bèo. Tâm trạng của nhân vật diễn biến từ những nỗi đau trước thực tế phũ phàng , càng ngày chìm sâu vào sự chiêm nghiệm cá nhân về thân phận về cuộc đời. Nỗi đau của nàng Kiều đã đạt đến nỗi đau của muôn kiếp phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Câu hỏi : Em hãy nhận xét nghệ thuật việc xây dựng dòng thời gian tâm lý của tác giả trong đoạn trích? Yêu cầu: Xây dựng dòng thời gian tâm lý chính là Nguyễn Du đã đi vào nội tâm nhân vật, đi vào cái cá biệt của cuộc đời, của số phận và từ đó đạt đến sự khái quát cho mọi cuộc đời mọi con người. Với việc xây dựng dòng thời gian tâm lý Nguyễn Du đi xa hơn tác phẩm truyện Nôm đương thời, ông nhìn nội tâm nhân vật từ phía nhân vật, từ phía những mục đích khát vọng, xu hướng hoạt động của chúng .Truyện Nôm đương thời chua xây dựng dòng thời gian tâm lí, nếu chúng ta đi sâu vào những tác phẩm như “Chinh phụ ngâm” (Đặng Trần Côn-Đoàn Thị Điểm) hay “Cung oán ngâm” (Nguyễn Gia Thiều) chúng ta cũng thấy ở trong những tác phẩm này có sự xuất hiện của thời gian như “đêm năm canh lần nương vách quế” “đêm năm canh trông ngóng lần lần” rồi “Khuy sớm” rồi “khắc giờ đằng đẵng như niên”… nhưng đó chỉ là yếu tố thời gian mang tính chất tượng trưng, được dùng với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình lấy cái en ngoài để chỉ cái bên trong chứ chưa có 15 cái nhìn thời gian tâm lý như ở Truỵên Kiều của Nguyễn Du. Ở Truyện Kiều thời gian dừng lại ở hiện tại của những sự biến, quay về với quá khứ, hay nới rộng vào tương lai tất cả đều là thế giới nội tâm của nhân vật đối lập với thế giới khách quan giúp tác giả thể hiện được những diễn biến đa dạng, phức tạp của thế giới tâm trạng nhân vật. Tác giả đã mổ xẻ sâu sắc những nỗi đau đớn, chua xót của cuộc đời nhân vật và từ nỗi đau cụ thể của nàng Kiều nhà thơ nói được nhiều điều sâu sắc về xã hội, về cuộc đời. Nhà thơ đã nói được sâu sắc khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu cũng như nỗi đau đớn xót xa của một con người, một số phận và cũng là của mọi cuộc đời, mọi con người trong một xã hội. Chính vì thế có thể nói đoạn trích này là một trong những đoạn tiêu biểu của Truyện Kiều. Những đột phá nghệ thuật của Nguyễn Du đã khẳng định tài năng, vị trí của ông trong nền văn học dân tộc, cũng như thể hiện tâm huyết của một con người có “con mắt nhìn suốt sáu cõi, tâm lòng nghĩ suốt nghìn đời”(Mộng Liên Đường chủ nhân V. KẾT QUẢ THỂ NGHIỆM: Trước khi dạy theo phương pháp Sau khi dạy theo phương pháp trên Khi tìm hiểu đoạn trích, học sinh hục trên Học sinh tiếp cận đoạn trích với tư của Thúy Kiều, qua đó, thấy được tài cách là một sản phẩm nghệ thuật của năng của Nguyễn Du trong việc sử dụng một nghệ sỹ. Từ các yếu tố nghệ thuật ngôn từ; mà chưa cảm nhận diễn biến các em đã giải mã một cách sâu sắc thế tâm trạng đặc biệt của nhân vật giới nội tâm nhân vật với đầy những thôngthường đi vào tìm hiểu tài lập luận, đổi thay biến hóa tinh vi. Cảm nhận và thuyết p qua thời gian nghệ thuật được rung động trước nỗi đau số phận nhân thể hiện trong đoạn trích. Học sinh chưa vật. Cảm nhận được tấm lòng nhân đạo có được những rung động, cảm thông cao cả của thiên tài Nguyễn Du và tài trước nỗi đau của số phận con người. năng nghệ thuật của nhà thơ. Đồng thời Đặc biệt là khó nhận thấy những sáng học sinh còn có thể nhận thấy được tạo đột phá của Nguyễn Du so với văn những tiến bộ của Nguyễn Du trong học đương thời vì thế chưa đánh giá Truyện Kiều so với các truyện Nôm 16 đúng mực giá trị của đoạn trích. đương thời. VI. KẾT LUẬN : Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm lớn, tác giả đã gửi gắm nỗi niềm tâm sự của mình . Tâm sự nỗi niềm ấy là một bi kịch nhưng nó là một bản tình ca mà tình yêu của nhà thơ tạo ra giai điệu. Từ thực tế dạy văn đã khó, giảng dạy văn học cổ lại càng khó. Đòi hỏi người giáo viên không chỉ cho học sinh tiếp cận tác phẩm, tác giả một cách cụ thể mà khám phá yếu tố nghệ thuật đặc sắc của nhà văn, nội tâm của nhân vật, và cần phải nhạy cảm, có tâm hồn dễ đồng cảm như thấy mình đang sống với nhân vật, nhập vai với nhân vật. Truyện Kiều của Nguyễn Du một lần nữa được khẳng định” Văn chương có loại đáng thờ có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương.Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người” . Trên đây là những suy nghĩ, cảm nhận của bản thân sau nhiều trăn trở, băn khoăn khi giảng dạy đoạn trích Trao duyên, nhưng văn chương là giếng không đáy, thiết nghĩ những trình bày của chúng tôi ở đây cũng chỉ là những tìm tòi bước đầu cho nên không tránh khỏi những bất cập, thiếu sót hy vọng nhận được sự bổ sung, góp ý của các đồng nghiệp để bài viết tốt hơn, và áp dụng vào việc khám há đoạn trích có hiệu quả hơn. Xin chân thành cảm ơn! 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan