Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn môn công nghệ ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học dự án phần động cơ...

Tài liệu Skkn môn công nghệ ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học dự án phần động cơ đốt trong

.DOC
92
143
138

Mô tả:

CỘNG HOÀ Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng thẩm định sáng kiến Sở Giáo Dục và Đào tạo Ninh Bình I. Tác giả sáng kiến - Họ tên: Phạm Thị Thu Hường - Giáo viên môn Công nghệ (Kỹ thuật Công nghiệp) - Trình độ đào tạo: Cử nhân sư phạm kỹ thuật - Đơn vị công tác: Trường THPT Hoa Lư A - Địa chỉ thường trú: Phố Hợp Thành, Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình - Email: [email protected] - Điện thoại: 0913.144.449 II. Tên sáng kiến Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học dự án phần Động cơ đốt trong. III. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Sáng kiến được áp dụng trong lĩnh vực giảng dạy phần Động cơ đốt trong môn Công nghệ lớp 11 THPT. IV. Nội dung cơ bản của sáng kiến 1. Một số giải pháp cũ thường làm Trong giáo dục, từ rất lâu chúng ta đã quen với các phương pháp dạy học truyền thống(phương pháp dạy học cũ). PPDH truyền thống là những cách thức dạy học quen thuộc được truyền từ lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. PPDH truyền thống là "Hệ thống ban phát kiến thức", là quá trình chuyển tải thông tin từ đầu thầy sang đầu trò. Về cơ bản, phương pháp dạy học này lấy hoạt động của người thầy là trung tâm. Thực hiện lối dạy này, giáo viên là chủ thể, là tâm điểm, là người thuyết trình, diễn giảng, là "kho tri thức" sống, học sinh là khách thể, là quỹ đạo, là người nghe, ghi chép và ghi nhớ. Giáo án dạy theo phương pháp này được thiết kế kiểu đường thẳng theo hướng từ trên xuống. Do đặc điểm hàn lâm của kiến thức nên nội dung bài dạy theo phương pháp truyền thống có tính hệ thống, tính logic và tính chính xác cao. Xong do quá đề cao người dạy nên nhược điểm của PPDH truyền thống là học sinh thụ động tiếp thu kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành của người học; do đó kỹ năng hành dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế như: - Học sinh ít được thực hành, thí nghiệm trực quan nên xa rời kiến thức thực tế, nhớ kiến thức một cách thụ động nên dễ bị lãng quên. - Phương pháp dạy học truyền thống làm cho học sinh quen với việc để giáo viên chủ động thông báo kiến thức, phân loại các dạng bài rồi từ đó theo mẫu để làm vì vậy hạn chế tính sáng tạo và chủ động trong việc tiếp nhận kiến thức và sinh ra tính “ngại” suy nghĩ, “ngại” tìm tòi phát hiện cái mới, trông chờ, ỷ lại vào sự gợi ý của giáo viên. - Khó kiểm soát quá trình học tập của học sinh (có nhiều tình huống bất ngờ trong câu trả lời, thậm chí câu hỏi từ phía người học, vì vậy giờ học dễ lệch hướng do 1 câu hỏi vụn vặt, không nhất quán). Khó soạn và xây dựng đáp án cho các câu hỏi mở (vì phương án trả lời của học sinh sẽ không giống nhau). 2. Những hạn chế của giải pháp cũ cần khắc phục. - Từ trước đến nay, giáo viên quan tâm trước nhất đến việc hoàn thành bổn phận của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong thời hạn và sách giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học trò hiểu và nhớ những điều giáo viên giảng. Do đó đa số giáo viên sử dụng phương pháp dạy học thuyết trình là chính. Cách dạy này tạo ra cách học bị động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, không đáp ứng được xu hướng phát triển năng động của tầng lớp đương đại. - Trước đây căn cứ vào nội dung sách giáo khoa, phần Động cơ đốt trong môn Công nghệ nội dung kiến thức dài, cấu tạo phức tạp, nguyên lí làm việc trừu tượng, khó hiểu, khó hình dung. Bên cạnh đó phương pháp dạy của giáo viên chủ yếu là phương pháp thuyết trình, đàm thoại. Trong kiều kiện nhà trường có rất ít đồ dùng dạy học trực quan như tranh vẽ, vật thật và mô hình dạy học, bên cạnh đó trang thiết bị thí nghiệm, thực hành còn nhiều hạn chế, làm cho chất lượng giờ dạy không cao, học sinh có tư tưởng chán học, học lệch. - Phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên đóng vai trò là trung tâm, là chuyên gia, nhiệm vụ chính là truyền đạt kiến thức. Học sinh tiếp nhận kiến thức gần như là áp đặt, chưa thấy được bản chất cụ thể của vấn đề. Học sinh vẫn còn mơ hồ khi tìm hiểu nguyên lý hoạt động của các cơ cấu, hệ thống động cơ đốt trong thì đã hết giờ, giờ sau lại học bài mới...Với những giáo viên trẻ, mới ra trường khi giảng dạy phần động cơ đốt trong cho học sinh, muốn học sinh hiểu bài, yêu thích môn học và định hướng nghề nghiệp cho học sinh thì đúng là mò kim đáy bể. - Do đặc điểm hàn lâm của kiến thức nên nội dung bài dạy theo phương pháp truyền thống có tính hệ thống, tính lôgic cao. Song do quá đề cao người dạy nên nhược điểm của PPDH truyền thống là học sinh thụ động tiếp thu kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành của người học. Do đó kỹ năng thực hành và vận dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế. - Những hình ảnh, tranh ảnh minh họa cho động cơ đốt trong không lột tả hết các tính năng, cấu tạo cũng như chu trình hoạt động trong động cơ, làm cho học sinh rất khó hình dung, khó hiểu và khó nhớ. Học sinh thụ động lĩnh hội tri thức, chủ yếu là thừa nhận những kiến thức do giáo viên cung cấp hoặc nghiên cứu được trong sách giáo khoa. Vì vậy không phát huy được tính chủ động và sáng tạo học tập của học sinh. - Động cơ đốt trong được ứng dụng rất nhiều trong cuộc sống. Các doanh nghiệp, các trung tâm sản xuất, lắp ráp, sửa chữa và bảo dưỡng động cơ tuy nhiều nhưng lại không có mối liên hệ chặt chẽ với nhà trường nên không hỗ trợ cho việc giảng dạy của giáo viên cũng như quá trình học tập của học sinh. Do đó học sinh cũng không có cơ hội để tiếp cận và nghiên cứu kĩ hơn về động cơ đốt trong. 3. Giải pháp mới cải tiến 3.1. Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp mới Khác với PPDH truyền thống, trong PPDH tích cực, giáo viên là người giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Người thầy có vai trò là trọng tài, 2 cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy. PPDH này rất chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng việc nâng cao quyền năng cho người học. Giáo viên là người nêu tình huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ thống hoá các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững. Giáo án dạy học theo phương pháp tích cực được thiết kế kiểu chiều ngang theo hai hướng song hành giữa hoạt động dạy của thầy và học của trò. Ưu điểm của PPDH tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học. Đặc điểm của dạy học theo phương pháp này là giảm bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cường dẫn dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý tình huống. Yêu cầu của PPDH tích cực cần có các phương tiện dạy học, học sinh chuẩn bị bài kỹ ở nhà trước khi đến lớp và phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm. Giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các tình huống để chủ động tổ chức giờ dạy có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và hoạt động của trò. Tính mới và sáng tạo nổi bật của giải pháp mới là tạo hứng thú học tập cho học sinh. Hứng thú trong học tập được hiểu là thái độ đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập, biểu hiện sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống cá nhân. Hứng thú được hình thành, duy trì và phát triển nhờ môi trường giáo dục với vai trò dẫn dắt, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Giáo viên là người có vai trò quyết định trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh. Hiệu quả thực sự của việc dạy học là học sinh biết tự học; tự hoàn thiện kiến thức và tự rèn luyện. Có nhiều nhóm biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh và chúng thuộc những bình diện khác nhau của quá trình dạy học. Một trong các biện pháp tác động vào phương tiện, thiết bị dạy học là sử dụng công nghệ thông tin kết hợp với cách sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học và các kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo. Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy theo chủ đề, dạy theo nhóm cũng có những đổi mới trong môi trường công nghệ thông tin. Trong đó xác định mục tiêu đích thực của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học là: Nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao, khắc phục tình trạng “thầy đọc, trò chép”, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình. Công nghệ thông tin giúp giáo viên nâng cao tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. Giáo viên không chỉ bó buộc trong khối lượng kiến thức có trong sách giáo khoa mà còn được tìm hiểu thêm nhiều kiến thức và ứng dụng mới, những nội dung liên môn, tích hợp với bài học. Nhiệm vụ cần thiết mà mà mỗi giáo viên phải làm trong mỗi tiết học ở trường cũng như ở nhà là tổ chức, điều khiển, giám sát để học sinh được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Giáo viên phải tìm hiểu về cách 3 thức áp dụng công nghệ thông tin trong dạy học để biến những lớp học trở thành những sân chơi thú vị, tươi vui và đầy bổ ích. 3.2. Nội dung của giải pháp mới Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tính cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích học sinh tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang hình thức học tập tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học”. Để công cuộc đổi mới giáo dục có hiệu quả thì yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học bên cạnh đổi mới nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền giáo dục nước ta hiện nay. Việc đổi mới phương pháp dạy học không chỉ ở những bộ môn được coi là quan trọng, chính yếu mà đòi hỏi đổi mới phải đồng bộ ở tất cả các môn, trong đó có môn Công nghệ. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học môn Công nghệ hiện nay được đặc biệt quan tâm bởi nó sẽ góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Một trong những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học, học sinh biết cách học, cách vận dụng kiến thức đó là giáo viên phải tăng cường sử dụng phương tiện đồ dùng trực quan dạy học và công nghệ thông tin hợp lí hỗ trợ dạy học. Giới hạn trong phạm vi giảng dạy thì giáo viên cần sử dụng đồng bộ một số phương pháp dạy học đạt hiệu quả cao. A. Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập luôn là những phương pháp quan trọng trong dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả, phát huy ưu điểm và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học này người giáo viên trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kĩ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, chẳng hạn như kĩ thuật mở bài, kĩ thuật trình bày, giải thích trong khi thuyết trình, kĩ thuật đặt các câu hỏi và xử lí các câu trả lời trong đàm thoại, hay kĩ thuật làm mẫu trong luyện tập. Để việc sử dụng các kĩ thuật trên có hiệu quả khi dạy phần Động cơ đốt trong – Công nghệ 11 thì giáo viên cần sử dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình giảng dạy. Từ khâu thu thập tài liệu, soạn giảng đến khâu tổ chức dạy học và khâu kiểm tra đánh giá cũng như hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà. Giáo viên có thể sử dụng các hình ảnh minh họa, các đoạn video tự quay các hoạt động trong thực tiễn để giới 4 thiệu khi vào bài mới sẽ làm tăng tính sinh động và hấp dẫn, khơi dậy hững thú học tập của học sinh. Trong kĩ thuật trình bày, giải thích hoặc làm mẫu nếu giáo viên biết lồng ghép các hình ảnh, các thước phim tư liệu thì rõ ràng, nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh. Chẳng hạn có thể tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học giải quyết vấn đề. B. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy học cá thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm. Trong thực tiễn dạy học ở trường trung học hiện nay, nhiều giáo viên đã cải tiến bài lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc nhóm, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án. Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hoá “bên ngoài” của học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hoá “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp dạy học tích cực khác. C. Phương pháp dạy học tích cực Để nâng cao chất lượng giảng dạy cần phải thay đổi cách học của học sinh, muốn thay đổi cách học của học sinh trước hết cần thay đổi cách dạy của giáo viên, thay đổi cách tổ chức các hoạt động học, thay đổi cách kiểm tra - đánh giá, đó là cách thức dạy học theo lối phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Vì thế thường gọi là phương pháp dạy học (PPDH) tích cực. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy. Khi áp dụng các phương pháp dạy học tích cực dạy phần Động cơ đốt trong – Công nghệ 11, nên sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực kết hợp với ứng dụng công nghệ thông tin. Vì đặc điểm nổi bật của các phương pháp nay là học sinh phải hoạt động nhiều hơn và phối hợp hợp tác nhóm nhiều hơn (kĩ năng hợp tác 5 nhóm là hạn chế của giới học sinh - sinh viên nói riêng và của nguồn lao động Việt Nam nói chung), học sinh phải chủ động tìm kiếm tri thức, qua đó hình thành kĩ năng nên sẽ mất nhiều thời gian hơn. Khi sử dụng công nghệ thông tin để dạy học sẽ không những khắc phục được điều này mà còn làm tăng độ hấp dẫn và hứng thú của học sinh thông qua những thông tin, hình ảnh, mô hình, video clip trực quan, sống động. 1. Một số phương pháp dạy học tích cực 1.1. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là PPDH trong đó giáo viên tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là "tình huống gợi vấn đề" vì "Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề". Tình huống có vấn đề (tình huống gợi vấn đề) là một tình huống gợi ra cho học sinh những khó khăn về lí luận hay thực hành mà họ thấy cần có khả năng vượt qua, nhưng không phải ngay tức khắc bằng một thuật giải, mà phải trải qua quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có. Một số cách thông dụng để tạo tình huống gợi vấn đề là: + Dự đoán những nhận xét trực quan, thực hành hoặc hoạt động thực tiễn. + Lật ngược vấn đề. + Xét tương tự. + Khái quát hóa. + Khai thác kiến thức cũ, đặt vấn đề dẫn đến kiến thức mới. + Giải bài tập mà chưa biết thuật giải trực tiếp. + Tìm sai lầm trong lời giải. + Phát hiện nguyên nhân sai lầm và sửa chữa sai lầm. Trong dạy học, các cơ hội như vậy rất nhiều, do đó PPDH phát hiện và giải quyết vấn đề có khả năng được áp dụng rộng rãi trong dạy học nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. 1.2. Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của học sinh. PPDH hợp tác trong nhóm nhỏ còn được gọi bằng một số tên khác như "Phương pháp thảo luận nhóm" hoặc PPDH hợp tác. Đây là một PPDH mà học sinh được phân chia thành từng nhóm nhỏ riêng biệt, chịu trách nghiệm về một mục tiêu duy nhất, được thực hiện thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các hoạt động cá nhân riêng biệt được tổ chức lại, liên kết với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung. Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và phát biểu ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung bài học. Tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung. 6 1.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình Nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu chuyện có thật hoặc chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống thực tiễn để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề. Đôi khi nghiên cứu trường hợp điển hình có thể được thực hiện trên video hay một băng catset mà không phải trên văn bản viết. 1.4. Phương pháp trò chơi Bản chất của phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề, thực hiện một nhiệm vụ học tập hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi học tập nào đó. Trò chơi học tập là các hoạt động được diễn ra theo trình tự hoạt động của một trò chơi. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt động bằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tải mục tiêu của bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc biệt là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá. Sử dụng trò chơi học tập để hình thành kiến thức, kĩ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kĩ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kĩ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới và cần được duy trì trong suốt quá trình học. * Một số trò chơi thường được vận dụng. + Trò trơi giải ô chữ. Đây là trò chơi dành cho các đội hoặc cá nhân tùy theo mục đích của tiết học. Giáo viên phải thiết kế ô chữ gắn với chủ đề nội dung bài học, mỗi ô chữ phải ẩn chứa một từ chìa khóa. Sau khi giải thành công hàng ngang thì giáo viên có thể cho học sinh lựa chọn để trả lời ô chữ hàng dọc, nếu trả lời đúng thì sẽ chiến thắng, nếu sai thì chọn đội (hoặc cá nhân) tiếp theo. + Trò chơi con số may mắn. Đây là trò chơi dành cho các đội. Trên màn hình là những con số, mỗi con số là một câu hỏi. Đội nào bốc được số nào thì trả lời câu hỏi ẩn sau con số ấy. Nếu trả lời đúng thì ghi được một điểm, còn nếu trả lời sai thì quyền trả lời sẽ thuộc về đội khác. Tuy nhiên, trong các số ấy có số không chứa câu hỏi. Nếu đội nào bốc trúng thì vẫn được điểm. + Trò chơi đuổi hình bắt chữ. Đây là trò chơi dành cho các đội hoặc cá nhân tùy theo mục đích của tiết học. Căn cứ các hình ảnh đưa ra, mỗi cá nhân hoặc đội sẽ đoán được cụm từ hoặc nội dung liên quan đến hình ảnh ấy. + Trò chơi ai nhanh hơn Thường được sử dụng để thi đua giữa các tổ hoặc các đội. Có thể chia lớp thành nhiều nhóm. Sau mỗi thông tin, hình ảnh mà giáo viên đưa ra, đội nào có tín hiệu trả lời nhanh nhất sẽ được quyền trả lời. Nếu trả lời đúng sẽ được ghi một điểm, nếu trả lời sai quyền đó sẽ thuộc về những đội còn lại (với điều kiện, đội đó nhanh tay đưa tín hiệu xin trả lời trước). + Trò chơi tiếp sức. 7 Được thực hiện theo nhóm. Mỗi nhóm cử 3 – 5 người tham gia thành một đội. Giáo viên đưa ra yêu cầu và định vị thời gian chung cho tất cả các đội. Tuy nhiên mỗi cá nhân chỉ được quyền thực hiện một lượt chơi. Người sau có thể lên sửa sai hoặc bổ sung cho người trước để đạt được một kết quả hoàn chỉnh nhất. Trong một khoảng thời gian nhất định, đội nào ghi được nhiều kết quả đúng đội đó sẽ thắng. 1.5. Phương pháp dạy học theo dự án (DHDA) Dạy học theo dự án là một mô hình dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Nó giúp phát triển kiến thức và các kỹ năng liên quan thông qua những nhiệm vụ mang tính mở, khuyến khích học sinh tìm tòi, hiện thực hoá những kiến thức đã học trong quá trình thực hiện và tạo ra những sản phẩm của chính mình. Chương trình dạy học theo dự án được xây dựng dựa trên những câu hỏi định hướng quan trọng, lồng ghép các chuẩn nội dung và tư duy bậc cao trong những bối cảnh thực tế. Bài học thiết kế theo dự án chứa đựng nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau, có thể lôi cuốn được mọi đối tượng học sinh không phụ thuộc vào cách học của các em. Trong các dự án tìm hiểu, học sinh sẽ được làm việc với các chuyên gia và những thành viên trong cộng đồng để giải quyết vấn đề, hiểu sâu nội dung hơn. Các phương tiện kỹ thuật cũng được sử dụng để hỗ trợ việc học. Trong quá trình thực hiện dự án có thể vận dụng nhiều cách đánh giá khác nhau để giúp học sinh tạo ra những sản phẩm có chất lượng. Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học, trong đó học sinh dưới sự điều khiển và giúp đỡ của giáo viên tự lực giải quyết một nhiệm vụ học tập mang tính phức hợp không chỉ về mặt lý thuyết mà đặc biệt về mặt thực hành, thông qua đó tạo ra các sản phẩm thực hành có thể giới thiệu, công bố được. * Đặc điểm của phương pháp dạy học theo dự án - Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm của dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng nhận thức của người học. Các dự án học tập có ý nghĩa thực tiễn xã hội, góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lí tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực. - Định hướng hứng thú người học: Học sinh được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án. - Mang tính phức hợp, liên môn: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ, vấn đề mang tính phức hợp. - Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học. - Tính tự lực của người học: Trong dạy học theo dự án, người học cần tham gia tích cực, tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. Giáo viên chủ yếu đóng 8 vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của học sinh và mức độ khó khăn của nhiệm vụ. - Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. Dạy học theo dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng công tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa học sinh và giáo viên cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được gọi là học tập mang tính xã hội. - Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu. Dựa theo các đặc điểm của phương pháp dạy học dự án ta thấy việc áp dụng phương pháp này để dạy phần Động cơ đốt trong – Công nghệ 11 rất có hiệu quả. * Một số lưu ý - Các dự án học tập cần góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội; có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn, thực hành. - Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của học sinh. - Học sinh được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. - Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp. - Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. - Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những bài thu hoạch lý thuyết mà sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu. - Dạy học dự án rất thích hợp để tổ chức dạy học các ứng dụng kĩ thuật hay vận dụng các kiến thức khoa học để giải quyết các vấn đề thực tiễn (phần Động cơ đốt trong – Công nghệ 11). - Dạy học dự án không phù hợp với các bài học đòi hỏi sự trình bày chính xác, chặt chẽ và hệ thống (đại lượng vật lí, định luật, thuyết vật lí). * Các bước tổ chức dạy học dự án * Công đoạn chuẩn bị - Xây dựng ý tưởng. - Lựa chọn chủ đề, tiểu chủ đề. - Lập kế hoạch các nhiệm vụ học tập. + Hoạt động của giáo viên: - Xây dựng bộ câu hỏi định hướng: xuất phát từ nội dung học và mục tiêu cần đạt được. - Thiết kế dự án: xác định lĩnh vực thực tiễn ứng dụng nội dung học, mục đích, ý tưởng và tên dự án. - Thiết kế các nhiệm vụ cho học sinh: làm thế nào để học sinh thực hiện xong thì bộ câu hỏi được giải quyết và các mục tiêu đồng thời cũng đạt được. 9 - Chuẩn bị các tài liệu hỗ trợ giáo viên và học sinh cũng như các điều kiện thực hiện dự án trong thực tế. + Hoạt động của học sinh: - Làm việc nhóm để lựa chọn chủ đề dự án. - Xây dựng kế hoạch dự án: xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm. - Chuẩn bị các nguồn thông tin đáng tin cậy để chuẩn bị thực hiện dự án. - Cùng giáo viên thống nhất các tiêu chí đánh giá dự án. * Công đoạn thực hiện dự án - Thu thập thông tin. - Thực hiện điều tra. - Thảo luận với các thành viên trong nhóm. - Tham vấn giáo viên hướng dẫn. + Hoạt động của giáo viên: - Theo dõi, hướng dẫn, đánh giá học sinh trong quá trình thực hiện dự án. - Liên hệ các cơ sở, khách mời cần thiết cho học sinh. - Chuẩn bị cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi cho các em thực hiện dự án. - Bước đầu thông qua sản phẩm cuối của các nhóm học sinh. + Hoạt động của học sinh: - Phân công nhiệm vụ các thành viên trong nhóm thực hiện dự án theo đúng kế hoạch. - Tiến hành thu thập, xử lý thông tin thu được. - Xây dựng sản phẩm hoặc bản báo cáo. - Liên hệ, tìm nguồn giúp đỡ khi cần. - Thường xuyên phản hồi, thông báo thông tin cho giáo viên và các nhóm khác. * Công đoạn kết thúc dự án -Tổng hợp các kết quả. - Xây dựng sản phẩm. - Trình bày kết quả. - Phản ánh lại quá trình học tập. + Hoạt động của giáo viên: - Chuẩn bị cơ sở vật chất cho buổi báo cáo dự án. - Theo dõi, đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm. + Hoạt động của học sinh: - Chuẩn bị tiến hành giới thiệu sản phẩm. - Tiến hành giới thiệu sản phẩm. - Tự đánh giá sản phẩm dự án của nhóm. - Đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm khác theo tiêu chí đã đưa ra. * Công đoạn đánh giá + Hoạt động của giáo viên: - Chuẩn bị cơ sở vật chất cho buổi báo cáo dự án. - Theo dõi, đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm. + Hoạt động của học sinh: - Tiến hành giới thiệu sản phẩm. - Tự đánh giá sản phẩm dự án của nhóm. 10 - Đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm khác theo tiêu chí đã đưa ra. * Bộ câu hỏi định hướng Bộ câu hỏi định hướng được biên soạn dựa trên bảng mô tả các mức độ yêu cầu của câu hỏi, bài tập dùng trong dạy học và kiểm tra, đánh giá. Từ mục tiêu bài học, có thể mô tả các năng lực cần đạt theo bốn cấp độ tư duy là nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp và vận dụng cao. Bộ câu hỏi giúp học sinh kết nối những khái niệm cơ bản trong cùng một môn học hoặc giữa các môn học với nhau. Các câu hỏi này tạo điều kiện để định hướng việc học tập của học sinh thông qua các vấn đề kích thích tư duy. Các câu hỏi định hướng giúp gắn các mục tiêu của dự án với các mục tiêu học tập và chuẩn của chương trình. Bộ câu hỏi định hướng bao gồm: + Câu hỏi khái quát là những câu hỏi mở, có phạm vi rộng, kích thích sự khám phá, nhằm hướng đến những khái niệm lớn và lâu dài, đòi hỏi các kỹ năng tư duy bậc cao và thường có tính chất liên môn. + Câu hỏi bài học là những câu hỏi mở có liên hệ trực tiếp với dự án hoặc bài học cụ thể, đòi hỏi các kỹ năng tư duy bậc cao, giúp học sinh tự xây dựng câu trả lời và hiểu biết của bản thân từ thông tin mà chính các em thu thập được. + Câu hỏi nội dung là những câu hỏi đóng có các câu trả lời “đúng” được xác định rõ ràng, trực tiếp hỗ trợ việc dạy và học các kiến thức cụ thể. Chúng thường có liên quan đến các định nghĩa, khái niệm hoặc yêu cầu nhớ lại thông tin, giải thích một số vấn đề, vận dụng các kiến thức tiếp thu được để giải một số bài tập áp dụng, hoặc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn (như các câu hỏi kiểm tra thông thường). * Đánh giá dự án * Công tác đánh giá Đánh giá dự án không chỉ đơn thuần là đánh giá sản phẩm của dự án mà còn phải đánh giá mức độ hiểu, khả năng nhận thức và kĩ năng của học sinh đồng thời theo dõi sự tiến bộ ở các em. * Một số công cụ đánh giá - Bài kiểm tra viết và kiểm tra nói: Các bài kiểm tra có thể đưa ra được những minh chứng trực tiếp về khả năng tiếp thu kiến thức và thông hiểu kiến thức của học sinh. - Sổ ghi chép: Sổ ghi chép là những phản ảnh về việc học và những hồi đáp với những gợi ý ở dạng viết. Ngoài những phản hồi, các gợi ý giúp thể hiện rõ các kỹ năng tư duy cụ thể ở những phần quan trọng của dự án. - Phỏng vấn và quan sát dựa trên kế hoạch đã chuẩn bị: Các cuộc phỏng vấn miệng chính thức, được lên lịch với các thành viên trong nhóm để thăm dò sự hiểu bài của học sinh. Thể thức câu hỏi phỏng vấn là yêu cầu học sinh giải thích và đưa ra lý do về cách hiểu vấn đề. Các quan sát cũng được tiến hành tương tự nhưng dùng cho việc đánh giá kỹ năng, tiến trình và sự thể hiện năng lực và cũng có thể được thực hiện bởi học sinh. - Sự thể hiện: là những bài báo cáo, các sản phẩm và các sự kiện mà học sinh thiết kế và thực hiện để thể hiện quá trình học tập của các em. 11 - Kế hoạch dự án: Kế hoạch dự án giúp học sinh tự chủ trong học tập. Học sinh xác định mục tiêu, thiết kế chiến lược để đạt mục tiêu, đặt thời gian biểu và xác định các tiêu chí để đánh giá. - Phản hồi qua bạn học: Phản hồi của bạn học giúp cho học sinh tiếp thu được đặc điểm về chất lượng học tập qua đánh giá việc học của bạn học. - Quan sát các nhóm làm việc để hỗ trợ đánh giá kĩ năng cộng tác. - Các sản phẩm: Sản phẩm là những gì học sinh sáng tạo ra hoặc xây dựng nên thể hiện việc học tập của các em. Các công cụ đánh giá này phải được sử dụng trong suốt quá trình thực hiện dự án, tại các thời điểm quan trọng hay vào giai đoạn cuối của dự án. Những kĩ thuật đánh giá trên cung cấp thông tin có giá trị cho cả giáo viên và học sinh. Mỗi kĩ thuật đưa ra những phương pháp và công cụ đồng nhất. Điều then chốt là phải hiểu được các mục đích khác nhau của chúng, chúng được thiết kế như thế nào và cuối cùng, xử lý kết quả thu được ra sao. * Ưu điểm – Nhược điểm của phương pháp dạy học theo dự án + Ưu điểm: - Người học là trung tâm của quá trình dạy học. - Tập trung vào những mục tiêu học tập quan trọng gắn với các chuẩn. - Được định hướng theo bộ câu hỏi khung chương trình. - Hình thức đánh giá đa dạng và thường xuyên. - Tính liên hệ với thực tế cao. - Người học thể hiện sự hiểu biết của mình thông qua sản phẩm và quá trình thực hiện. - Công nghệ hiện đại hỗ trợ và thúc đẩy việc học của người học. - Kĩ năng tư duy là yếu tố không thể thiếu trong phương pháp dạy học dự án. - Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội. - Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học. - Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm. - Phát triển khả năng sáng tạo. - Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp. - Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn. - Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc. - Phát triển năng lực đánh giá. Theo đánh giá chung, DHDA có những ưu điểm nổi trội sau: Gắn lý thuyết và thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội; kích thích động cơ và hứng thú cho người học; phát huy tính tự lực và tính trách nhiệm; phát triển khả năng sáng tạo; rèn luyện khả năng giải quyết những vấn đề phức hợp; rèn luyện tính bền bỉ và kiên nhẫn; rèn luyện năng lực cộng tác làm việc; rèn luyện năng lực đánh giá. - Đặc biệt ưu điểm nôi bật nhất là tập trung vào một câu hỏi lớn hoặc một vấn đề quan trọng có thể có nhiều quan điểm liên quan tới nhiều bộ môn khác nhau. Đây còn là cơ hội đưa ra sáng kiến và thực hiện nhiều hoạt động khác nhau dựa trên các thông tin có thể tiếp cận được, đòi hỏi thực hiện trong một thời gian nhất định nhằm phát huy sự hợp tác. - Giải pháp mới nhằm hướng dẫn học sinh tiếp cận kiến thức thông qua các nhiệm vụ, tình huống mà giáo viên thiết kế. Dạy học theo hướng tiếp cận năng lực. 12 Người học phải là chủ thể của hoạt động học. Học thông qua hành động và bằng hành động, học có động cơ, học có mục đích. Nói về học, ông cha ta từ xưa có câu học và hành; học phải đi đôi với hành; trăm nghe không bằng một thấy hay tôi nghe tôi sẽ quên, tôi nhìn tôi sẽ nhớ, tôi làm tôi sẽ hiểu. Ngày nay, các nghiên cứu về năng lực nhận thức của con người cũng chỉ ra quan hệ mật thiết giữa thực hành với khả năng ghi nhớ, thông hiểu và vận dụng. Vì vậy trọng tâm của giải pháp mới là nghiên bài học thông qua các hình ảnh trực quan sinh động và hướng dẫn học sinh chủ động lĩnh hội tri thức . + Nhược điểm: Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là DHDA không có những nhược điểm. Thực tiễn cho thấy, DHDA không phù hợp trong việc truyền thụ kiến thức lý thuyết mang tính hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kỹ năng cơ bản. Mặt khác, DHDA đòi hỏi nhiều thời gian vì vậy phương pháp dạy này không thể thay thế cho phương pháp thuyết trình và luyện tập, ... mà chỉ là hình thức dạy học bổ sung cần thiết cho các phương pháp dạy học truyền thống. Tóm lại, DHDA là hình thức dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học hiện đại như: Định hướng phát triển năng lực học sinh, định hướng người học, định hướng hành động, dạy học giải quyết vấn đề và quan điểm dạy học tích hợp. Bên cạnh đó, DHDA góp phần gắn lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội; tham gia vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác của người học. * Vai trò của giáo viên, học sinh và công nghệ trong dạy học dự án * Vai trò của giáo viên Khác với phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên đóng vai trò trung tâm, là chuyên gia và nhiệm vụ chính là truyền đạt kiến thức. Trong DHDA, giáo viên chỉ là người hướng dẫn và tham vấn chứ không phải là “cầm tay chỉ việc” cho học sinh. Theo đó, giáo viên không dạy nội dung cần học theo cách truyền thống mà từ nội dung nhìn ra sự liên quan của nó tới các vấn đề của cuộc sống, hình thành ý tưởng về một dự án liên quan đến nội dung học, tạo vai trò cho học sinh trong dự án, làm cho vai trò của học sinh gần với nội dung cần học (thiết kế các bài tập cho học sinh)…Tóm lại, giáo viên không còn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học mà trở thành người hướng dẫn, người giúp đỡ học sinh, tạo môi trường thuận lợi nhất cho các em trên con đường thực hiện dự án . * Vai trò của học sinh Học sinh là người quyết định cách tiếp cận vấn đề cũng như phương pháp và các hoạt động cần phải tiến hành để giải quyết vấn đề đó. Học sinh tập làm quen với việc phát hiện và giải quyết các vấn đề trong thực tiễn bằng các kĩ năng sống thông qua làm việc theo nhóm. Chính học sinh là người lựa chọn các nguồn dữ liệu, chọn cách thức thu thập dữ liệu, rồi phân tích, tổng hợp và tích lũy kiến thức từ quá trình làm việc đó. Học sinh hoàn thành hoạt động học với các sản phẩm cụ thể (kết quả dự án) và có cơ hội trình bày, bảo vệ sản phẩm đó. Học sinh cũng là người trình bày kiến thức mới và các ứng dụng mà họ đã tích lũy thông qua dự án. Cuối cùng, bản thân học sinh là người đánh giá và được đánh giá dựa trên những gì đã thu thập được, 13 dựa trên tính khúc chiết, tính hợp lý trong cách thức trình bày của các em theo những tiêu chí đã xây dựng trước đó. * Vai trò của công nghệ thông tin Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính Trị đã khẳng định : " ...Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ cho nhu cầu học tập của toàn xã hội". Chỉ thị 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu rõ: “Đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi phương pháp, phương thức dạy và học. Công nghệ thông tin là phương tiện để tiến tới một xã hội học tập”. Mặc dù công nghệ không phải là vấn đề cốt yếu đối với phương pháp DHDA nhưng nó có thể nâng cao chất lượng học tập và đem lại cho học sinh cơ hội để hòa nhập với thế giới bên ngoài, tìm thấy các nguồn tài nguyên và tạo ra sản phẩm minh họa sống động nhất, dễ truyền cảm nhất. Công nghệ sẽ giúp học sinh nâng cao hứng thú và động lực học tập. Tạo cơ hội tốt hơn để học sinh tham gia và hợp tác cùng nhau, phát triển kỹ năng xã hội và con người. Học sinh cũng có thể xử lý và nắm bắt được nhiều thông tin thông qua bài giảng rõ ràng, hiệu quả và linh hoạt. Công nghệ giúp học sinh trở nên sáng tạo và tự tin hơn khi thuyết trình trước lớp. Các phương tiện truyền thông cùng với hệ thống mạng toàn cầu Internet đang làm thay đổi cách con người tiếp cận tri thức : không chỉ đọc để biết , mà còn nghe, thấy, cảm nhận sự kiện xảy ra ở xa như đang diễn ra trước mắt. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ đã tạo ra một khối lượng thông tin khổng lồ, vượt các giới hạn về thời gian và không gian. Chính vì thế, rèn luyện khả năng thu nhận, xử lý để hiểu biết thông tin một cách nhanh chóng và chính xác là yêu cầu quan trọng hiện nay. Phần Động cơ đốt trong với các nội dung kiến thức về cấu tạo và nguyên lý làm việc rất phức tạp, trừu tượng, khó hiểu. Do đó công nghệ thông tin là một công cụ hỗ trợ rất hiệu quả khi dạy và học phần này. Bằng những hình ảnh trực quan, bằng những video sống động, bằng những ứng dụng thực tế sẽ giúp học sinh lĩnh hội tri thức nhanh hơn, hiểu rõ hơn và nhớ lâu hơn. Các em sẽ dễ dàng nhận biết được các loại động cơ, các bộ phận, các cơ cấu, hệ thống và ứng dụng của động cơ trong thực tế. Tìm hiểu cấu tạo của các chi tiết, các cơ cấu và hệ thống của động cơ cụ thể, chính xác hơn. Đặc biệt khi nghiên cứu nguyên lí làm việc của động cơ cấu như các cơ cấu, hệ thống thì còn rõ ràng hơn cả khi quan sát trong thực tế. 2. Một số kĩ thuật dạy học tích cực Mỗi quan điểm dạy học có những phương pháp dạy học cụ thể phù hợp với nó; mỗi phương pháp dạy học cụ thể có các kĩ thuật dạy học đặc thù. Tuy nhiên, có những phương pháp dạy học cụ thể phù hợp với nhiều quan điểm dạy học, cũng như có những kĩ thuật dạy học được sử dụng trong nhiều phương pháp dạy học khác nhau. 14 2.1. Kĩ thuật chia nhóm Khi tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm, giáo viên nên sử dụng nhiều cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho học sinh, đồng thời tạo cơ hội cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Mỗi nhóm nhỏ thường từ 4 – 6 học sinh là phù hợp. * Chia nhóm theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa trong năm, theo tháng sinh, theo giới tính, theo sở thích, theo hình ghép,.... 2.2. Kĩ thuật giao nhiệm vụ - Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng: + Nhiệm vụ giao cho cá nhân, nhóm nào? + Nhiệm vụ là gì? + Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu? + Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu? + Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì? + Sản phẩm cuối cùng cần có là gì? + Cách thức trình bày, đánh giá sản phẩm như thế nào? - Nhiệm vụ phải phù hợp với: mục tiêu hoạt động, trình độ học sinh, thời gian, không gian hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị. 2.3. Kĩ thuật đặt câu hỏi Kĩ thuật đặt câu hỏi được dùng cho cả phương pháp đàm thoại và phương pháp thảo luận. Trong dạy học theo phương pháp nhóm, giáo viên thường phải sử dụng 15 câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới, để đánh giá kết quả học tập của học sinh; học sinh cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm giáo viên và các học sinh khác về những nội dung bài học chưa sáng tỏ. Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa học sinh - giáo viên và học sinh - học sinh. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của học sinh càng nhiều, học sinh sẽ học tập tích cực hơn. Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau: - Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học . - Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. - Đúng lúc, đúng chỗ. - Phù hợp với trình độ học sinh - Kích thích suy nghĩ của học sinh. - Phù hợp với thời gian thực tế. - Sắp xếp theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. - Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xích. - Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc. 2.4. Kĩ thuật động não Một kĩ thuật hội ý bao gồm một nhóm người nhằm tìm ra lời giải cho vấn đề đặc trưng bằng cách góp nhặt tất cả ý kiến của nhóm người đó nảy sinh trong cùng một thời gian theo một nguyên tắc nhất định. Các ý kiến có thể rất rộng và sâu cũng như không giới hạn bởi các khía cạnh nhỏ nhặt nhất của vấn đề mà những người tham gia nghĩ tới.Trong động não thì vấn đề được đào bới từ nhiều khía cạnh và nhiều cách nhìn khác nhau. Sau cùng các ý kiến sẽ được phân nhóm và đánh giá. 2.5. Kĩ thuật thảo luận viết Thảo luận viết là một biến thể của động não, tuy nhiên, trong thảo luận viết, từng thành viên trình bày ý kiến của mình trên giấy trước khi gửi kết quả về cho thư ký của nhóm. Mỗi thành viên có giấy và bút riêng để viết ra ý tưởng của mình. Trong quá trình phát triển ý kiến, được phép tham khảo ý kiến của các bạn khác cùng nhóm để phát triển ý tưởng. 2.6. Kỹ thuật động não không công khai Động não không công khai là một hình thức biến đổi của thảo luận viết, mỗi thành viên của nhóm cũng viết ra ý nghĩ của mình để giải quyết vấn đề, tuy nhiên không công khai và không tham khảo người khác, sau đó nhóm mới tiến hành thảo luận chung. Trong quá trình động não cá nhân không được tham khảo ý kiến của các thành viên khác trong nhóm. 2.7. Kĩ thuật khăn trải bàn - Học sinh được chia thành các nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Mỗi nhóm sẽ có một tờ giấy A0 đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn. - Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh, tiếp tục chia phần xung quanh thành 4 hoặc 6 phần tuỳ theo số thành viên của nhóm (4 hoặc 6 người). - Mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và viết các ý tưởng của mình (về một vấn đề nào đó mà GV yêu cầu) vào phần cạnh “khăn trải bàn” trước mặt mình. Sau đó thảo luận nhóm, tìm ra những ý tưởng chung và viết vào phần chính giữa “khăn trải bàn” 16 2.8. Kĩ thuật phòng tranh Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm. - GV nêu câu hỏi vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm. - Mỗi thành viên (hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm) phác hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và treo lên tường xung quanh lớp học như một triển lãm tranh. - Học sinh cả lớp đi xem “triển lãm’’và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ sung. - Cuối cùng, tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và tìm phương án tối ưu. 2.9. Kĩ thuật các mảnh ghép Là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích thích sự tham gia tích cực của học sinh, nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác. Kĩ thuật này được tổ chức thành hai vòng. Mỗi nhóm ở Vòng 2 góp mặt các thành viên trong các nhóm ở Vòng 1. Các cá nhân không chỉ hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt kết quả và hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 2. Để thực hiện kĩ thuật này có hiệu quả thì phải đảm bảo ở bước thảo luận đầu tiên, mọi thành viên đều có khả năng trình bày kết quả thảo luận của nhóm trước khi tiến hành tách nhóm. Các chủ đề thảo luận ở hai vòng cần được chọn lọc kỹ lưỡng, có tính độc lập với nhau. 2.10. Kĩ thuật "Bể cá" Kỹ thuật bể cá là một kỹ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm thành viên ngồi giữa phòng và thảo luận với nhau, còn những thành viên khác ngồi xung quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc cuộc thảo luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những thành viên đang thảo luận. Trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí không có người ngồi. Các thành viên tham gia nhóm quan sát có thể thay nhau ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý kiến vào cuộc thảo luận, ví dụ ra một câu hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc phát biểu ý kiến khi cuộc thảo luận bị chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này được gọi là phương pháp thảo luận “bể cá”, vì những người ngồi vòng ngoài có thể quan sát những người thảo luận, tương tự như xem những con cá trong một bể cá cảnh. Trong quá trình thảo luận, những người quan sát và những người thảo luận sẽ thay đổi vai trò với nhau. Bảng câu hỏi cho những người quan sát: - Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình không? - Họ có nói một cách dễ hiểu không? - Họ có để những người khác nói hay không? - Họ có đưa ra được những luận điểm đáng thuyết phục hay không? - Họ có đề cập đến luận điểm của người nói trước mình không? - Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay không? - Họ có tôn trọng những quan điểm khác hay không? 2.11. Kĩ thuật Bản đồ tư duy (Sơ đồ tư duy) Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, ý tưởng được liên kết, do vậy bao quát được phạm vi sâu rộng. 17 - Viết tên chủ đề ý tưởng chính ở trung tâm. - Từ chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh chính viết một nội dung lớn của chủ đề hoặc các ý tưởng có liên quan xoay quanh ý tưởng trung tâm nói trên. - Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó. - Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo. Có nhiều cách tổ chức thông tin theo sơ đồ: Sơ đồ thứ bậc, sơ đồ mạng, sơ đồ chuỗi vv. Giáo viên cần để học sinh tự lựa chọn sơ đồ mà các em thích và phù hợp với từng nội dung bài học. Giáo viên cần đưa câu hỏi gợi ý để thành viên nhóm lập sơ đồ. Khuyến khích sử dụng biểu tượng, ký hiệu, hình ảnh và văn bản tóm tắt. 2.12. Kĩ thuật chia sẻ nhóm đôi Kỹ thuật này giới thiệu hoạt động làm việc nhóm đôi, phát triển năng lực tư duy của từng cá nhân trong giải quyết vấn đề. Giáo viên giới thiệu vấn đề, đặt câu hỏi mở, dành thời gian để học sinh suy nghĩ. Sau đó học sinh thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý tưởng, thảo luận, phân loại. Nhóm đôi này lại chia sẻ tiếp với nhóm đôi khác hoặc với cả lớp. Điều quan trọng là người học chia sẻ được cả ý tưởng mà mình đã nhận được, thay vì chỉ chia sẻ ý kiến cá nhân. 2.13. Kĩ thuật ”đọc hợp tác” (còn gọi là đọc tích cực) Kĩ thuật này nhằm giúp học sinh tăng cường khả năng tự học và giúp giáo viên tiết kiệm thời gian đối với những bài học/phần đọc có nhiều nội dung nhưng không quá khó đối với học sinh. Cách tiến hành như sau: - Giáo viên nêu câu hỏi/yêu cầu định hướng học sinh đọc bài/phần đọc. - Học sinh làm việc cá nhân: + Đoán trước khi đọc: Để làm việc này, học sinh cần đọc lướt qua bài đọc/phần đọc để tìm ra những gợi ý từ hình ảnh, tựa đề, từ/cụm từ quan trọng. + Đọc và đoán nội dung: Học sinh đọc bài/phần đọc và biết liên tưởng tới những gì mình đã biết và đoán nội dung khi đọc những từ hay khái niệm mà các em phải tìm ra. + Tìm ý chính: học sinh tìm ra ý chính của bài/phần đọc qua việc tập trung vào các ý quan trọng theo cách hiểu của mình. + Tóm tắt ý chính. - Học sinh chia sẻ kết quả đọc của mình theo nhóm 2, hoặc 4 và giải thích cho nhau thắc mắc (nếu có), thống nhất với nhau ý chính của bài/phần đọc. - Học sinh nêu câu hỏi để giáo viên giải đáp (nếu có). Một số câu hỏi giáo viên thường dùng để giúp học sinh tóm tắt ý chính: - Em có chú ý gì khi đọc ............ ? - Em nghĩ gì về................... ? - Em so sánh A và B như thế nào? - A và B giống và khác nhau như thế nào? 2.14. Kĩ thuật “ Trình bày một phút” 18 Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho học sinh tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời học sinh đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho giáo viên thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào. - Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), giáo viên yêu cầu học sinh suy nghĩ, trả lời các câu hỏi ngắn liên quan đến bài học. - Học sinh suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của học sinh có thể dưới nhiều hình thức khác nhau. - Mỗi học sinh trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm. 3. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Việc sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương tiện dạy học và phương pháp dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường phổ thông từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và công nghệ thông tin có nhiều khả năng ứng dụng trong dạy học. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E-Learning). Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học mới. * Một số hình thức ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy - học + Giảng dạy bằng bài giảng điện tử Giảng dạy bằng bài giảng điện tử theo công nghệ E-Learning có ưu điểm là tạo hứng thú cho cả thầy và trò trong buổi học nhờ có sự truyền đạt và tiếp nhận bài giảng thông qua những hình thức phong phú, đa dạng như hình ảnh, âm thanh giúp cho học sinh tiếp nhận bài giảng dễ hiểu hơn. Giáo viên không lo “cháy” giáo án vì thời gian được kiểm soát bằng máy, thời gian dành cho công việc viết bảng, vẽ hình, treo tranh ảnh sẽ giảm xuống. Giáo viên được giảm nhẹ việc thuyết giảng, có điều kiện trao đổi, thảo luận với học sinh về những vấn đề nảy sinh. Qua đó, học sinh được kích thích khám phá tri thức qua thông tin thu nhận được, có thể nêu câu hỏi với giáo viên, giúp cho giờ học thêm sinh động. Giáo viên không phải soạn bài giảng nhiều lần mà chỉ cần đầu tư cho lần soạn đầu tiên và cập nhật, chỉnh sửa cho bài giảng tốt hơn vào những lần sau. Tuy nhiên, việc dạy và học bằng bài giảng điện tử cũng có những hạn chế nhất định. Muốn có một tiết dạy với bài giảng điện tử có hiệu quả, người thầy giáo phải dành nhiều thời gian cho việc sưu tầm, chuẩn bị chu đáo về tài liệu, kiến thức để có được những hình ảnh minh hoạ, âm thanh phục vụ cho bài giảng. Giáo viên phải biết sử dụng thành thạo máy tính. Trên thực tế, việc dạy - học bằng bài giảng điện tử 19 không thể áp dụng với tất cả các nội dung của từng bài học, có những tiết dạy sẽ không thể đạt hiệu quả tối đa nếu thiếu phương pháp dạy truyền thống, có những tiết học sẽ không giúp học sinh hiểu và nhớ lâu nếu không được hỗ trợ bằng hình ảnh, âm thanh, vì vậy giáo viên cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp giảng dạy bằng bài giảng điện tử và cách dạy truyền thống để có thể phát huy tối đa hiệu quả của việc dạy và học. + Tìm kiếm tài liệu, tra cứu thông tin trên mạng Internet Ngày nay, giáo viên và học sinh phải có thói quen và khả năng tự học để bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tích luỹ kiến thức. Tuy nhiên, người dạy và người học thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu, tra cứu thông tin do các thư viện truyền thống chưa đáp ứng đủ nhu cầu học hỏi, tìm hiểu và nghiên cứu của họ. Vì vậy, Internet và máy vi tính chính là một phương tiện giúp mỗi người tự học tốt nhất. Giáo viên và học sinh có thể tìm kiếm, tra cứu tri thức về mọi lĩnh vực. + Tham khảo sách điện tử, giáo trình điện tử Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tăng cường hoạt động tự học, tự nghiên cứu là vấn đề bức thiết đặt ra cho mỗi nhà giáo và học sinh. Để tăng cường tính chất nghiên cứu, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo của học sinh, người dạy, với tư cách là người hướng dẫn quá trình cần phải chỉ ra cho học sinh cách tìm kiếm, khai thác những nguồn học liệu mở trên mạng công nghệ thông tin toàn cầu. Có thể nói, với sách điện tử và giáo trình trên mạng Internet, mỗi giáo viên và học sinh có thể tham nhiều tài liệu khác nhau ở bất cứ thời gian và không gian nào. + Sử dụng các thiết bị điện tử vào quá trình dạy học Quá trình dạy - học cho sinh viên cần đẩy mạnh sử dụng các thiết bị nghe nhìn để tăng hiệu quả tiếp thu, ghi nhớ bài giảng của sinh viên, giảm bớt việc ghi, đọc, chép của giảng viên và học viên. Các nghiên cứu giáo dục cho thấy người học chỉ nhớ được 10% những gì đã đọc, 20% những gì đã nghe, khoảng 50% những gì họ nghe và thấy và khoảng 95% những gì họ được làm. Một số thiết bị thường dùng trong nhà trường hiện nay là máy chiếu và máy tính nối mạng. Học sinh được học tập thường xuyên trong môi trường có các thiết bị điện tử sẽ luôn tăng hứng thú học tập, phát huy khả năng tư duy sáng tạo. Phương pháp dạy và học có sự tham gia nhiều hơn của học sinh bằng thảo luận nhóm, nêu ý kiến sẽ phát huy nhiều hơn tính chủ động trong tiếp nhận kiến thức. Cùng một thời lượng như nhau, nhưng số lượng kiến thức và kỹ năng học sinh thu nhận lại nhiều hơn, cụ thể, sinh động, sâu sắc hơn. Số lượng bài tập thực hành của học sinh cũng được rèn luyện nhiều hơn. Từ đó, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu sẽ phát huy có hiệu quả cao hơn. Trong phương pháp dạy học theo dự án thì học sinh không chỉ được đọc, được nghe nhìn mà còn được trực tiếp làm thành sản phẩm về một đơn vị kiến thức nào đó. Do đó, học sinh sẽ hiểu bài nhanh hơn, thấu đáo hơn và rèn luyện được kĩ năng làm việc với máy tính. + Gửi, nhận văn bản bằng thư điện tử Thư điện tử hay email là một hệ thống chuyển nhận thư từ qua các mạng máy tính. Một email có thể được gửi đi ở dạng mã hoá hay dạng thông thường và được chuyển qua các mạng máy tính, đặc biệt là mạng Internet. Nó có thể chuyển mẫu 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng