SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"LINH HOẠT, SÁNG TẠO TRONG DẠY “QUAN HỆ TỪ” CHO
HỌC SINH LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC"
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh
những kĩ năng cơ bản ban đầu về nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong môi
trường hoạt động của lứa tuổi. Để thực hiện được mục tiêu này, mỗi phân môn trong môn
Tiếng Việt đều có nhiệm vụ quan trọng trong việc hình thành kiến thức, phát triển các kĩ
năng sử dụng tiếng Việt để giao tiếp và làm phương tiện học tập.
Luyện từ và câu ở Tiểu học là phân môn mang tính công cụ nhằm huy động vốn từ,
mở rộng vốn từ làm cho học sinh hiểu nghĩa từ và tác dụng của chúng trong câu, tạo lập
câu,…Có sử dụng từ chính xác, viết câu đúng ngữ pháp thì người đọc, người nghe mới
hiểu được nội dung văn bản. Muốn viết câu trong văn bản đúng và hay ngoài việc dùng
từ chính xác chúng ta cần phải biết liên kết từ, liên kết câu, liên kết các ý lại với nhau. Đó
chính là nhiệm vụ rất quan trọng và khó khăn của phân môn Luyện từ và câu nói chung
và việc dạy Quan hệ từ nói riêng.
Lâu nay, việc học từ ngữ nói chung và học từ loại nói riêng là một phần nhiệm vụ
rất khó khăn đối với học sinh Tiểu học. Bởi vì ranh giới để phân biệt từ, dấu hiệu để nhận
diện các từ do nhiều lúc không rõ ràng. Việc nhận diện các thực từ như: danh từ, động từ,
tính từ đã khó; việc nhận biết các hư từ ( quan hệ từ, phó từ,…) lại càng khó hơn. Bởi thế
mà khi dạy quan hệ từ cho học sinh lớp 5, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ
chức, hướng dẫn, gợi mở để giúp các em nắm được những kiến thức sơ giản ban đầu về
quan hệ từ. Chính vì dạy quan hệ từ là một nội dung khó trong phân môn LT&C ở Tiểu
học nên đã từ lâu bản thân tôi luôn băn khoăn, trăn trở, tìm tòi các biện pháp để giúp học
sinh tiếp thu nội dung quan hệ từ (QHT) một cách nhẹ nhàng, hiệu quả hơn. Nhờ Linh
hoạt sáng tạo trong dạy “Quan hệ từ”, tôi đã gặt hái được những thành công nhất định
trong việc dạy môn Tiếng Việt và dạy học nói chung.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I .THỰC TRẠNG :
Qua thực tế giảng dạy, qua dự giờ thăm lớp, sinh hoạt chuyên môn, trao đổi với
đồng nghiệp, tìm hiểu các bậc phụ huynh,…bản thân tôi thấy việc dạy quan hệ từ ở lớp 5
trường Tiểu học lâu nay nổi lên một số điểm sau đây:
1. Về giáo viên:
a. Ưu điểm:
Một bộ phận GV đã có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn Tiếng Việt nói
chung phân môn LT&C hay phần QHT nói riêng. Có những GV đã đưa ra được một số
2
thủ thuật dạy QHT, biết khắc phục những khó khăn vướng mắc mà HS thường xuyên
mắc phải như: sử dụng nhầm QHT, xác định sai QHT, …
b. Tồn tại:
Nhận thức của một số giáo viên về quan hệ từ còn hạn chế, chưa thấy được tầm
quan trọng của nó trong đặt câu, viết văn bản. Nhiều GV chưa yêu thích môn Tiếng Việt
vì bộ môn này có nhiều phân môn, mỗi phân môn có cái khó riêng. Đặc biệt, ngữ pháp
tiếng Việt rất phức tạp, khó hiểu. Có lúc ở tài liệu này thì viết thế này còn tài liệu khác lại
viết kiểu khác; hoặc ở bậc Tiểu học thì dùng khái niệm khác với bậc học trên. Từ đó giáo
viên rất e ngại, lúng túng, khó khăn, thiếu hào hứng trong việc dạy Tiếng Việt, kết quả
giảng dạy chưa cao so với các môn học khác.
Một số GV kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, còn lúng túng trong việc lựa chọn
nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy QHT hầu hết các giáo viên còn rập
khuôn theo sách giáo khoa mà chưa có sự tìm tòi, sáng tạo, linh hoạt.
Nhiều giáo viên chưa biết kết hợp dạy lồng ghép QHT vào các phân môn khác, bộ
môn khác cũng như trong thực tế cuộc sống, chưa biết khơi dậy sự hứng thú học Tiếng
Việt nói chung và QHT nói riêng cho học sinh.
2. Về học sinh:
a. Ưu điểm:
Phần đa HS nắm chuẩn kiến thức kỹ năng cơ bản của môn Tiếng Việt vì thế chất
lượng môn Tiếng Việt đạt khá cao trên 90% đạt trung bình trở lên. Một số HS có năng
khiếu học văn, yêu thích môn Tiếng Việt.
b. Tồn tại:
Lâu nay, trong thực tế, một bộ phận không nhỏ HS Tiểu học chưa ham thích học
Tiếng Việt nói chung, Luyện từ và câu nói riêng vì các em cho rằng trong bộ môn này có
nhiều quy tắc rườm rà khó nhớ, hay nhầm và hay lẫn lộn. Các em thường lười đọc sách,
báo, truyện ngắn, tiểu thuyết,..mà chỉ đọc các truyện Đô- rê -mon, truyện tranh. Hơn nữa
các em dành thời gian cho môn học này còn ít, chủ yếu là dành thời gian học Toán, Ngoại
ngữ. Chương trình quy định phần QHT ở Tiểu học chỉ học trong 3 tiết. Đây là một thời
lượng rất ít ỏi nhưng phần lớn các em sử dụng chưa có hiệu quả, có khi còn nói chuyện,
làm việc riêng nên không nắm vững bài học, sau một thời gian ngắn là quên ngay các tác
dụng, cách sử dụng QHT. Do HS chưa nắm vững kiến thức của mỗi bài học cho nên
trong nói và viết các em chưa biết sử dụng QHT hay sử dụng QHT không phù hợp với
văn cảnh. Có thể nói đây là tình trạng chung của học sinh Tiểu học hiện nay.
3. Về phía phụ huynh:
3
Một số phụ huynh mặc dù rất quan tâm tới việc học của con cái nhưng do sự hiểu
biết còn hạn chế nên chưa định hướng đúng đắn cho việc học tập của con em. Do xu thế
của xã hội hiện nay viêc “học lệch” khá phổ biến phụ huynh thường động viên con em
tập trung vào các môn khoa học tự nhiên và xem nhẹ các môn khoa học xã hội. Một số
người chỉ quan tâm đầu tư, ép buộc con mình học Toán, học Ngoại ngữ mà không chú
trọng tới môn Tiếng Việt. Cũng có những phụ huynh coi trọng, quan tâm tới việc học
Tiếng Việt của con em mình nhưng thiếu phương pháp hướng dẫn con học môn Tiếng
Việt, nhất là phân môn Luyện từ và câu.
4. Về môi trường giáo dục:
Lâu nay, ngành GD&ĐT đã phát động và tổ chức nhiều cuộc thi sôi nổi trên mạng
Internet và ở các trường học như: Giải Toán, thi Tiếng Anh, Toán tuổi thơ ,…nhằm kích
thích sự hứng thú học tập phát huy trí tuệ của HS. Nhưng theo tôi các cuộc thi vẫn tập
trung chủ yếu vào môn toán và Tiếng Anh, còn các cuộc thi phục vụ cho môn Tiếng Việt
Như: “Văn hay - Chữ tốt”, “Nói lời hay - Viết chữ đẹp” chưa được tổ chức thường xuyên
vì thế chưa có tác dụng động viên HS hứng thú học môn Tiếng Việt.
Trước thực trạng nêu trên, là một GV nhiều năm liền được phân công giảng dạy lớp
5 tôi thường xuyên trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu các giải pháp nhằm khắc phục những khó
khăn, tồn tại, yếu kém tác động đến chất lượng học môn Tiếng Việt của HS nhất là trong
phân môn Luyện từ và câu, cụ thể là phần Quan hệ từ. Sau đây tôi xin nêu ra các giải
pháp tôi đã giúp HS hứng thú hơn trong việc học tập môn Tiếng Việt, từ đó chiếm lĩnh tri
thức một cách dễ dàng hơn, chất lượng môn học được nâng lên rõ rệt và góp phần nâng
cao chất lượng các môn học khác. Sau đây là một số giải pháp mà tôi đã nghiên cứu
thành công trong việc dạy học phần Quan hệ từ ở lớp 5 trường Tiểu học.
II . CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Giải pháp 1: Giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của Quan hệ từ:
Để dạy tốt QHT trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5 thì người giáo viên phải
nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của QHT đó là giúp các em học tốt hơn bộ môn
Tiếng Việt cũng như các môn học khác và còn giúp cho các em biết cách giao tiếp, cư xử
với mọi người trong cuộc sống hàng ngày lịch sự nhã nhặn hơn. Giáo viên cần nhận thức
được Quan hệ từ như là “chất keo dính” nối kết các từ ngữ, câu văn, đoạn văn lại với
nhau một cách chặt chẽ hơn có ý nghĩa hơn. “Chất keo dính” này nó còn góp phần làm
cho linh hồn của đoạn văn đoạn thơ trở nên bay bổng, mượt mà hơn; nội dung bài văn trở
thành một chỉnh thể thống nhất không thể tách rời được. Nói cách khác để có một bài văn
hay, một câu nói rõ ràng, súc tích, dễ hiểu thì phải biết cách sử dụng QHT. Chúng ta có
thể hiểu các từ ngữ khác như là “những viên gạch” còn QHT là “vôi vữa, xi măng” để
gắn kết các từ đó lại với nhau để tạo nên một “bức tường” hoàn chỉnh, chắc chắn, đẹp
4
đẽ,…để từ đó GV có định hướng đúng đắn trong việc dạy học môn Tiếng Việt cũng như
dạy nội dung QHT cho HS lớp 5 ngay từ những kiến thức sơ giản đầu tiên của nó.
Giải pháp 2: Linh hoạt sáng tạo khi sử dụng các kỹ thuật, các phương pháp dạy
QHT:
2.1. Sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ:
Đây là phương pháp rất quan trọng trong quá trình dạy học Tiếng Việt nói chung và
dạy quan hệ từ nói riêng.
Phương pháp phân tích ngôn ngữ là phương pháp học sinh dưới sự chỉ dẫn của thầy
giáo vạch ra những hiện tượng ngôn ngữ nhất định từ các tài liệu cho trước, quy các hiện
tượng đó vào một phạm trù nhất định và chỉ rõ đặc trưng của chúng. Như vậy, thực chất
của phương pháp này là từ việc quan sát, phân tích các hiện tượng ngôn ngữ theo các chủ
đề nhất định và tìm ra những dấu hiệu đặc trưng của các hiện tượng ấy. Phương pháp
phân tích phát hiện được tiến hành như sau:
Phân tích – phát hiện:
Trên cơ sở các tài liệu mẫu, thầy giáo sử dụng các câu hỏi định hướng học sinh
quan sát, so sánh đối chiếu và rút ra quy tắc mới. Thao tác này thường được áp dụng
trong quá trình hình thành quy tắc, khái niệm mới của bài học.
Ngoài ra còn có các thao tác: phân tích - chứng minh; phân tích - phán đoán và
phân tích - tổng hợp.
Giáo viên có thể vận dụng phương pháp này vào việc dạy các dạng bài tập về
Quan hệ từ trong phân môn luyện từ và câu. Sau đây tôi xin trình bày cách sử dụng
phương pháp phân tích ngôn ngữ vào dạy hai loại bài tập cơ bản của Quan hệ từ: Bài tập
Hình thành kiến thức và bài tập luyện tập, thực hành.
a. Đối với loại bài tập “Hình thành kiến thức.”
Cách tiến hành:
- Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ, phát phiếu bài tập và phổ biến hình thức tổ
chức hoạt động.
- Bước 2 : Nhóm trưởng điều khiển nhóm mình tìm hiểu ngữ liệu.
- Cá nhân tự đọc và tìm hiểu và hoàn thành các yêu cầu của cá nhân trên phiếu bài
tập của mình.
- Nhóm trưởng điều khiển các thành viên trong nhóm trao đổi thảo luận những nội
dung đã ghi ở trong phiếu bài tập.
5
- Nhóm rút ra kết luận nội dung mình vừa tìm hiểu được
- Bước 3 : Tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả.
- Các nhóm báo cáo kết quả trước lớp, nhóm khác nhận xét, bổ sung.
-Bước 4 : Giáo viên tổ chức cho học sinh rút ra kết luận, bài học.
Ví dụ 1 : Tiết Luyện từ và câu (tuần 11, TV5, trang 109, 110)
Đọc và hoàn thành các bài tập dưới đây :
Bài 1 : Từ in đậm trong các câu dưới đây được dùng để làm gì ?
a. Rừng say ngây và ấm nóng.
Ma Văn Kháng
b. Tiếng hót dìu dặt của Hoạ Mi giục các loài chim dạo lên những khúc nhạc tưng
bừng ca ngợi núi sông đang đổi mới.
Võ Quảng
c. Hoa mai trổ từng chùm thưa thớt, không đơm đặc như hoa đào. Nhưng cành mai
uyển chuyển hơn cành đào.
Theo mùa xuân và phong tục Việt Nam
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ và phổ biến hình thức tổ chức hoạt động
Bước 2: Phân tích ngữ liệu:
- Nhóm trưởng điều khiển nhóm làm việc:
Cá nhân đọc và hoàn thành bài tập 1:
PHIẾU BÀI TẬP BÀI 1:
Ví dụ
Tìm từ Tác dụng của từ in đậm
in đậm
a.Rừng say ngây và ấm nóng.
b.Tiếng hót dìu dặt của Hoạ Mi giục
các loài chim dạo lên khúc nhạc tưng
bừng ca ngợi núi sông đang đổi mới.
c. Hoa mai trổ từng chùm thưa thớt,
không đơm đặc như hoa đào. Nhưng
cành mai uyển chuyển hơn cành đào.
6
- Nhóm trưởng điều khiển nhóm mình thảo luận để kiểm tra việc hoàn thành bài tập
của từng cá nhân:
Từ in đậm trong câu văn ở ví dụ trên dùng để tả các đặc điểm, tính chất, hoạt
động,... của các sự vật hay nối các từ ngữ tả các đặc điểm, tính chất của sự vật? (Dùng để
nối các từ ngữ tả đặc điểm, tính chất,... của các sự vật )
Bước 3: Tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả, nhận xét, bổ sung
Bước 4: GV tổ chức cho HS tổng hợp và thống nhất các ý kiến, rút ra kết luận:
QHT là từ dùng để nối các từ ngữ, các câu đứng sau và trước nó.
Để giúp HS bước đầu hiểu được ý nghĩa QHT tôi cho HS làm bài tập sau:
Bài 2: Gạch chân dưới các quan hệ từ trong các câu sau và nêu ỹ nghĩa của các câu
sau ? Nhờ vào đâu mà các câu sau có ý nghĩa khác nhau:
a. Anh nói rồi tôi nói.
b. Anh nói và tôi nói.
c. Anh nói nhưng tôi không nói.
d. Anh nói còn tôi lắng nghe.
Phiếu bài tập Bài 2:
QHT trong câu đó
Ví dụ
Ý nghĩa của câu
a. Anh nói rồi tôi nói.
b. Anh nói và tôi nói.
c. Anh nói nhưng tôi không nói.
d. Anh nói còn tôi nghe.
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ và phổ biến hình thức tổ chức hoạt động
Bước 2: Phân tích ngữ liệu:
- Cá nhân tự hoàn thành bài tập váo phiếu bài tập trên.
- Nhóm trưởng điều khiển nhóm mình thảo luận để kiểm tra việc hoàn thành bài tập
của từng cá nhân:
Dự kiến kết quả bài tập 2:
7
Ví dụ
QHT trong câu
Ý nghĩa của câu
a. Anh nói rồi tôi nói.
rồi
Hai người không nói
cùng một lượt, người nói
trước người nói sau.
b. Anh nói và tôi nói.
và
Cả hai người nói cùng
một lượt.
c. Anh nói nhưng tôi không nhưng
nói.
Chỉ có người thứ nhất
nói, người thứ hai không
nói
d. Anh nói còn tôi nghe.
Người thứ nhất nói,
người thứ hai nghe.
còn
Nhờ vào đâu mà các câu trên có ý nghĩa khác nhau?( nhờ vào QHT trong các câu
trên)
Bước 3 : Tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả, nhận xét, bổ sung
Bước 4 : GV tổ chức cho HS tổng hợp và thống nhất các ý kiến, rút ra kết
Để giúp HS hiểu được thấu đáo hơn ý nghĩa của QHT và sử dụng được QHT trong
nói và viết tôi cho HS làm bài tập sau:
Bài 3: Hình thành kiến thức về một số quan hệ từ: rồi, và, của...
Nêu tác dụng của các từ in đậm trong các câu sau :
Giai đoạn 1: Các nhóm chuyên sâu hoàn thành nhiệm vụ của mình
Nhóm 1: a. Nêu tác dụng của quan hệ từ “ rồi ” trong các câu dưới đây:
- Vườn cây đâm chồi nảy lộc rồi vườn cây ra hoa.
- Em học thuộc lý thuyết rồi em mới làm bài tập.
- Các em quét nhà sạch sẽ rồi mới lau chùi bàn ghế.
- Con ăn cơm xong rồi mới uống nước con nhé!
Áp dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ để hình thành kiến thức :
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ và phổ biến hình thức tổ chức hoạt động
Bước 2: Phân tích ngữ liệu:
8
- Nhóm trưởng tổ chức cho nhóm mình tìm hiểu đặc trưng chung của các từ đứng
trước và sau QHT rồi
+ Cá nhân hoàn thành nội dung phiếu bài tập sau:
PHIẾU BÀI TẬP NHÓM: Đánh dấu vào ô trống em chọn:
Ví dụ
Các hoạt động
Các HĐ đó Các HĐ đó
diễn ra theo diễn
ra
thứ tự trước cùng một
sau
lúc
- Vườn cây đâm chồi Đâm chồi nảy lộc,
nảy lộc rồi vườn cây ra ra hoa
hoa.
- Em học thuộc lý thuyết Học
thuộc
lý
rồi em mới làm bài tập. thuyết, thực hành.
- Các em quét nhà sạch
sẽ rồi mới lau chùi bàn Quét nhà, lau chùi
ghế.
bàn ghế
- Con ăn cơm xong rồi Ăn cơm,
mới uống nước con nhé! nước
uống
+ Nhóm trưởng điều khiển nhóm mình thảo luận thống nhất ý kiến
Nêu các hoạt động trong từng câu trên? ( đầm chồi - nảy lộc ; học lý thuyết - làm
bài tập ; quét nhà - lau chùi bàn ghế ; ăn cơm - uống nước)
Các hoạt động này diễn ra cùng đồng thời một lúc hay các hoạt động đó diễn ra
theo thứ tự trước sau ? ( Diễn ra theo thứ tự trước sau)
Để nối các từ ngữ chỉ các hoạt động đó người ta đã dùng quan hệ từ nào? (dùng
quan hệ từ “rồi”)
Từ rồi thường dùng để nối các từ ngữ có mối quan hệ gì với nhau?( Các từ ngữ đó
chỉ các hoạt động, các đặc điểm diễn ra theo thứ tự trước sau)
Bước 3: Tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả, nhận xét bổ sung.
Bước 4: Nhóm rút ra kiến thức:
9
Vậy quan hệ từ “rồi” thường dùng để nối các từ ngữ chỉ các hoạt động, các đặc
điểm,… diễn ra theo thứ tự trước sau.
* Tương tự tiến hành luyên tập về QHT vào các buổi học tăng tôi tổ chức cho
các em luyện tập như sau:
Nhóm 2: b. nêu tác dụng của quan hệ từ “và”:
- Rừng say ngây và ấm nóng.
- Hoa hồng và hoa huệ đều thơm.
- Lan học giỏi và hát hay.
- Mây bay và gió thổi.
* Cá nhân đọc và hoàn thành bài tập sau:
Phiếu bài tập nhóm 2:
QHT "và" nối Các từ ngữ được
các từ ngữ QHT"và" nối chỉ
nào?
các đặc điểm,
hoạt động diễn ra
theo thứ tự trước
sau:
Ví dụ
Các từ ngữ được
QHT "và" nối chỉ
các đặc điểm,
hoạt động diễn ra
cùng một lúc:
- Rừng say ngây và ấm
nóng.
Hoa hồng và hoa huệ
đều thơm.
Lan học giỏi và hát
hay.
- Mây bay và gió thổi.
* Nhóm trưởng điều khiển nhóm thảo luận và tìm ra kết luận
Những từ trước và sau từ “và” có quan hệ gì với nhau?( Là các từ có cùng chức vụ
ngữ pháp hay là các từ chỉ các đặc điểm của cùng một sự vật hay các sự việc cùng diễn ra
một lúc)
Vậy quan hệ từ “và” nó dùng để nối các từ ngữ cùng chỉ đặc điểm hay chỉ các
hoạt động của sự vật diễn ra cùng một lúc.
10
Nhóm 3: c. nêu tác dụng của Quan hệ từ “của”:
- Tiếng hót dìu dặt của Hoạ Mi giục các loài chim dạo lên những khúc nhạc tưng
bừng ca ngợi núi sông đang đổi mới .
- Mùi hương ngọt lựng của thảo quả lan toả cả khu rừng.
- Tôi rất thích tiết trời ấm áp của mùa xuân.
* Cá nhân đọc và hoàn thành bài tập sau:
Phiếu bài tập nhóm 3:
Ví dụ
QHT "của" nối Từ đứng trước QHT "của"
các từ nào
chỉ sự vật hay đặc điểm, tính
chất của sự vật đứng sau
QHT "của"
- Tiếng hót dìu dặt của
Hoạ Mi giục các loài
chim dạo lên những
khúc nhạc tưng bừng ca
ngợi núi sông đang đổi
mới .
- Mùi hương ngọt lựng
của thảo quả lan toả cả
khu rừng.
- Tôi rất thích tiết trời
ấm áp của mùa xuân.
* Nhóm trưởng điều khiển các thành viên trong nhóm thảo luận thống nhất ý kiến
và rút ra kết luận:
Tiếng hót dìu dặt là đặc điểm tiếng hót của ai? (Hoạ Mi). Vậy tiếng hót dìu dặt là
đặc điểm tiếng hót của loài chim nào?
Mùi hương ngọt lựng là đặc điểm của loại quả nào? (quả thảo quả)
Tiết trời ấm áp là đặc điểm tiết trời mùa nào? (mùa xuân)
Để nối đặc điểm, tính chất,… của sự vật với sự vật người ta dùng quan hệ từ nào?
(Quan hệ từ “của”)
11
Quan hệ từ “của”dùng để nối các từ chỉ đặc điểm của sự vật với bản thân sự vật
đó hay nói cách khác đây là QHT biểu thị mối quan hệ sở hữu.
Giai đoạn 2: Nhóm mảnh ghép
Mỗi nhóm chuyên sâu lúc đầu cả 6 em cùng nghiên cứu 1 nội dung, bây giờ sang
giai đoạn 2 mỗi nhóm cúng có 6 em nhưng có 2 thành viên cùng nhóm ở giai đoạn 1(
Nhóm chuyên sâu) tức là mỗi nhóm có 6 em trong đó có 2 em thuộc cùng một nhóm
chuyên sâu lúc đầu. Nhiệm vụ của các em trong giai đoạn này là dùng phương pháp phân
tích ngôn ngữ để hướng dẫn các bạn còn lại biết được tác dụng của QHT mà mình đã
được tìm hiểu ở giai đoạn 1. Đồng thời các em phải chú ý lắng nghe những ý kiến mà các
thành viên trong nhóm mới đưa ra để phân tích tổng hợp tìm ra kết luận hay nhất cho
nhóm mới.
Nêu tác dụng của các từ in đậm: của, và, rồi:
Vận dụng kiến thức vừa tìm hiểu được ở nhóm chuyên sâu lúc đầu để giúp đỡ
hướng dẫn cho những thành viên trong nhóm mình hiểu được tác dụng của quan hệ từ
mình đã được tìm hiểu trước (có thể lấy ví dụ lúc trước hoặc lấy ví dụ khác)
a. QHT của
- Tiếng hót dìu dặt của Hoạ Mi giục các loài chim dạo lên những khúc nhạc tưng
bừng ca ngợi núi sông đang đổi mới.
- Mùi hương ngọt lựng của thảo quả lan toả cả khu rừng.
- Tôi rất thích tiết trời ấm áp của mùa xuân.
Từ đứng sau từ của chỉ sự vật hay chỉ đặc điểm của sự vật?
Từ đứng trước từ của chỉ sự vật hay đặc điểm của sự vật?
Các từ đứng trước và sau từ của có mối quan hệ gì?
Nếu bỏ từ “của” thì câu văn đó có hay không, có thành câu không?
b.QHT và:
- Rừng say ngây và ấm nóng.
- Hoa hồng và hoa huệ đều thơm.
- Lan học giỏi và hát hay.
- Mây bay và gió thổi.
Các từ đứng sau và đứng trước từ và chỉ các hoạt động diễn ra như thế nào?
Các từ đứng trước và sau từ và có điểm gì chung?
12
Trong các câu đó có thể thay từ và bằng ngữ khác hay dấu câu gì hay bỏ nó đi được
không?
c. QHT rồi:
- Vườn cây đâm chồi nảy lộc rồi vườn cây ra hoa.
- Em học thuộc lý thuyết rồi em mới làm bài tập.
- Các em quét nhà sạch sẽ rồi mới lau chùi bàn ghế.
- Con ăn cơm xong rồi mới uống nước con nhé!
Các từ được từ rồi nối lại là những từ nào?
Các từ được từ rồi nối lại chỉ các hoạt động diễn ra như thế nào?
Chúng ta có thể bỏ từ rồi được không? Hay có thể thay từ “rồi” bằng từ ngữ khác
được không?
QHT rồi có tác dụng nối những từ ngữ có đặc điểm gì?( QHT “rồi” có tác dụng nối
các từ ngữ chỉ các hoạt động, các đặc điểm diễn ra theo thứ tự trước sau)
Sau khi các nhóm đã hoàn thành xong giai đoạn 2 GV tổ chức cho các nhóm báo
cáo kết quả của nhóm mình đúc rút được để cả lớp nhận xét thống nhất và rút ra kết luận
chung.
Giáo viên kết luận chốt kiến thức các em vừa tìm hiểu được:
Vậy quan hệ từ “và” nó dùng để nối các từ ngữ cùng chức vụ ngữ pháp hay nối
các từ cùng chỉ đặc điểm hay chỉ các hoạt động của cùng một sự vật.
Quan hệ từ “của”dùng để nối các từ chỉ đặc điểm của sự vật với bản thân sự vật
đó hay nói cách khác đây là QHT biểu thị mối quan hệ sở hữu.
Quan hệ từ “rồi” thường dùng để nối các từ ngữ chỉ các hoạt động, các đặc
điểm,… diễn ra theo thứ tự trước sau.
* Tương tự chúng ta có thể dùng các kỹ thuật dạy khác như: Kỹ thuật trình bày một
phút, kỹ thuật khăn trải bàn để tổ chức các hoạt động học tập giúp HS hình thành kiến
thức QHT hoặc, nhưng, như, trên; các cặp QHT vì…nên, nếu… thì, tuy… nhưng;….
Quan hệ từ “hoặc”:
- Vào chủ nhật hàng tuần tôi về thăm bà ngoại hoặc bà ngoại lên tôi.
- Các em về nhà làm đề một hoặc đề hai.
- Tôi ngồi xe máy hoặc chị tôi ngồi xe máy.
13
Trong các câu trên các sự việc trước và sau từ hoặc được thực hiện cả hai sự
việc hay chỉ được thực hiện một sự việc?(Chỉ được lựa chọn thực hiện một sự việc)
Để nối các sự việc ấy lại người ta dùng QHT nào? ( hoặc)
Vậy QHT “hoặc” nối các từ ngữ có mối quan hệ gì với nhau? ( QHT “hoặc” nối
các từ ngữ có mối quan hệ lựa chọn - chỉ được lựa chọn một trong hai sự việc ở trong câu
)
Quan hệ từ “nhưng (mà)”
- Trời rét đậm nhưng (mà) cây cối vẫn xanh tốt.
- Tôi tìm mãi nhưng (mà) không thấy quyển sách ấy đâu cả.
- Mẹ bảo mãi nhưng (mà) con không nghe.
- Tôi học mãi nhưng (mà) không thuộc.
Các sự việc sau và trước từ nhưng (mà) có mối quan hệ gì với nhau? ( các sự việc
này có mối quan hệ tương phản (đối lập) nhau.
Nếu những từ ngữ đứng trước QHT nhưng (mà) nêu sự việc tốt, thuận,… thì
những từ ngữ đứng sau QHT nhưng (mà) nêu sự việc xấu, nghịch,.. hoặc ngược lại.
Vậy khi nối các sự việc có mối quan hệ tương phản đối lập nhau ta dùng quan
hệ từ “nhưng (mà)”
Quan hệ từ “như”:
- Trời nắng như đổ lửa.
- Mưa như trút nước.
- Nói như tát nước và mặt.
- Trông anh hùng dũng như một chàng hiệp sĩ cổ đeo cung ra trận.
- Hàng khuy áo thẳng tắp như hàng quân đang duyệt binh.
Tương tự các quan hệ từ trên từ “như”: Các từ ngữ đứng sau và trước từ như có
mối quan hệ gì với nhau? (Những từ ngữ đứng sau làm rõ đặc điểm của sự vật được nêu ở
trước từ “như”, là vật được so sánh với sự vật đứng trước từ “như”)
Quan hệ từ “trên”:
- Chú chuồn chuồn nước đậu trên một cành lộc vừng .
- Màu vàng trên lưng chú lấp lánh.
- Sóng nhè nhẹ liếm trên bãi cát, tung bọt trắng xoá.
14
Chú chuồn chuồn đậu ở đâu? (Trên cành lộc vừng)
Màu vàng ở vị trí nào? ( Trên lưng)
Sóng nhè nhẹ liếm nơi nào? ( Trên bãi cát)
Để nối các sự vật “chuồn chuồn”, “màu vàng”, “sóng” với vị trí hoạt động của sự
vật đó ta dùng quan hệ từ nào?( Quan hệ từ “trên”)
Vậy quan hệ từ “trên” có tác dụng nối các sự vật với vị trí diễn ra các hoạt động
hay nối sự vật với vị trí chỉ đặc điểm của sự vật đó.
* Cặp quan hệ từ:
Các cặp quan hệ từ biểu thị mối quan hệ nguyên nhân - kết quả:
- Vì trời mưa nên đường lầy lội.
- Bởi tôi ăn uống điều độ nên tôi chóng lớn lắm.
- Do tôi chủ quan khi làm bài nên bài kiểm tra của tôi bị điểm kém.
- Nhờ tôi chăm học nên tôi thi đậu học sinh giỏi.
- Tại tôi lười học nên tôi phải ở lại lớp.
- Tại vì rét đậm rét hại kéo dài cho nên lúa trên đồng bị chết gần hết.
- Lúa gạo quý vì nó phải đổ bao mồ hôi mới làm ra được. Vàng cũng quý vì nó rất
đắt và hiếm.
- Cả nhà vui mừng vì tôi học rất giỏi.
Trời mưa là nguyên nhân của đường lầy lội. Ngược lại đường lầy lội là do đâu?
Đường lầy lội là kết quả của trời mưa.
Để nối nguyên nhân trời mưa với kết quả đường lầy lội người ta dùng cặp quan hệ
từ nào? (Dùng cặp quan hệ từ Vì - nên). Nếu không có cặp QHT Vì - nên việc xác định
những từ ngữ nào là nguyên nhân, những từ ngữ nào là kết quả có dễ dàng không? Mối
quan hệ nguyên nhân - kết quả có chặt chẽ như trước nữa không?
Các vế câu có quan hệ từ Vì, bởi, do, nhờ, tại, tại vì,…nêu nguyên nhân hay kết
quả của sự việc ? Các vế câu có QHT nên, mà,… làm rõ nội dung gì của sự vệc trong
câu?
(Các vế câu có QHT: Vì, bởi, tại, nhờ, do, tại vì,…làm rõ nguyên nhân của sự việc
trong câu, thường đứng trước những từ ngữ nêu nguyên nhân. Còn các vế câu có quan hệ
từ nên, mà,… làm rõ kết quả của sự việc và các QHT này thường đứng trước các từ ngữ
nêu kết quả trong câu đó.
15
Thông thường vế câu nêu nguyên nhân thường đứng trước bộ phận kết quả.
Khi muốn nhấn mạnh kết quả thì chúng ta làm thế nào? Khi đó cách diễn đạt câu
đó có gì thay đổi? ( Muốn nhấn mạnh kết quả chúng ta đưa vế nêu kết quả lên đầu câu
khi đó QHT đi kèm với vế kết quả bị lược bỏ).
Các cặp quan hệ từ biểu thị mối quan hệ “giả thiết - kết quả”
- Nếu ngày mai trời mưa thì chúng ta không đi cắm trại.
- Hễ cóc kêu thì trời mưa.
GV hướng dẫn HS trả lời các câu hỏi sau để tìm hiểu tác dụng của cặp quan hệ từ
nêu “giả thiết - kết quả” cũng như tác dụng của câu văn nêu giả thiết kết quả.
H . Chúng ta không đi cắm trại là kết quả của giả thiết nào?
H. Giả thiết ngày mai trời mưa đã diễn ra chưa? Nếu giả thiết này không diễn ra thì
kết quả có phải là : “chúng ta không đi cắm trại nữa không”?
H. Khi đọc câu văn này các em hiểu ngày mai trời nắng thì các em làm gì? Còn
trời mưa thì các em sẽ làm gì?
H . Hiểu được hai cách như vậy là nhờ vào đâu?
H . Nếu câu văn chỉ viết: “Ngày mai trời mưa, chúng ta không đi cắm trại” thì có
được hiểu theo hai cách như thế không? Mối liên kết giữa các vế câu đó có chặt chẽ như
khi sử dụng cặp quan hệ từ “nếu- thì” không?
Như vậy các cặp quan hệ từ : “nếu - thì”, “hễ - thì”,..dùng để nối các vế câu có mối
quan hệ giả thiết - kết quả. Nhờ có các cặp quan hệ từ này mà mối quan hệ giữa các vế
câu trở nên chặt chẽ hơn, rõ ràng hơn, câu văn trở nên sinh động hơn.
Các cặp quan hệ từ biểu thị mối quan hệ “tương phản”
- Tuy thời tiết rét đậm rét hại kéo dài nhưng cây lúa trên đồng vẫn tươi tốt.
- Mặc dù nhà ở xa trường nhưng Hoàng không bao giờ đi học muộn.
Thời tiết rét đậm rét hại thì thường cây cối có phát triển tươi tốt không? Rét mà cây
cối vẫn tươi tốt điều đó có mâu thuẩn với sự phát triển của cây cối khi thời tiết xấu
không?
Nội dung vế câu này tương phản với nhau (một vế nêu sự việc xấu còn một vế câu
nêu sự việc tốt) và chúng được nối với nhau bằng cặp QHT nào?(Tuy- nhưng)
Vậy để nối các vế câu có quan hệ tương phản đối lập nhau, mâu thuẩn nhau
ngoài dùng QHT nhưng, mà,...chúng ta còn dùng cặp QHT: tuy - nhưng, mặc dù nhưng,...
16
b. Đối với loại bài tập luyện tập, thực hành:
Bài 1: Tìm quan hệ từ trong đoạn trích dưới đây và cho biết QHT đó nối những từ
ngữ nào trong câu:
A Cháng đeo cày. Cái cày của người Hmông to, nặng, bắp cày bằng gỗ tốt màu
đen, vòng như hình cái cung, ôm lấy bộ ngực nở. Trông anh hùng dũng như một chàng
hiệp sĩ cổ đeo cung ra trận.
Bước1 : Nhóm trưởng điều khiển các thành viên trong nhóm xác định rõ yêu cầu
của bài tập.
-
Tìm quan hệ từ.
-
Các quan hệ từ đó nối những từ ngữ nào trong câu.
Bước 2: Cá nhân HS nhớ lại các đặc điểm của các quan hệ từ đã học.
Bước 3: Cá nhân HS tiến hành làm việc ghi kết quả vào phiếu bài tập.
Bước 4: Các nhóm dưới sự điều khiển của nhóm trưởng thảo luận trong nhóm
thống nhất ý kiến.
Bước 5: Các nhóm thống nhất và kết luận.
Bước 6: Kiểm tra kiến thức:
PHIẾU BÀI TẬP : Gạch hai gạch dưới quan hệ từ và một gạch dưới những từ được
các quan hệ từ đó nối lại.
A Cháng đeo cày. Cái cày của người Hmông to, nặng, bắp cày bằng gỗ tốt màu
đen, vòng như hình cái cung, ôm lấy bộ ngực nở.Trông anh hùng dũng như một chàng
hiệp sĩ cổ đeo cung ra trận.
Khi các nhóm thảo luận GV đến các nhóm hỏi để kiểm tra xem các em có nắm
vững kiến thức không :
H. Đoạn văn trên có mấy câu ? Câu nào có sử dụng quan hệ từ ? QHT nào dùng để
nối những từ nào? Nếu bỏ các quan hệ từ đó thì các câu trên có thành câu nữa không?
Mối quan hệ giữa các câu, các ý có chặt chẽ như trước nữa không ?
Hướng dẫn tương tự với các bài tập luyện tập sau:
Bài 2: Điền quan hệ từ thích hợp trong ngoặc đơn vào chỗ chấm các câu sau:
( của, bằng, mà, và, hay, còn, nhưng)
- Các em đã hoàn thành bài tập Toán … bài tập Tiếng Việt chưa?
- Chiếc xe nổ máy ….lướt nhanh trên đường.
17
- Tôi rất yêu chiếc cặp làm……. da của bố mua tặng tôi.
- Cây đa ….. làng tôi rất cổ kính.
- Anh hát ….. tôi hát?
- Nó học hành ngày càng tấn tới….. tôi thì ngày một kém đi.
- Tôi đọc mãi …… chẳng thuộc.
- Quyển sách này ….. tôi.
Cho HS thảo luận nhóm tìm quan hệ từ cần điền thích hợp, sau đó HS trình bày,
nhận xét và kết luận từ nào điền vào là thích hợp nhất. GV bổ sung sửa chữa kết luận của
HS: Cần nhấn mạnh cho HS biết nếu không điền QHT thích hợp vào các dòng trên thì
các dòng đó đã thành câu hoàn chỉnh chưa? Nội dung thông báo của câu có hợp lý
không?
Bài 3: Điền quan hệ từ thích hợp vào chỗ chấm
Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao! Màu vàng …..lưng chú lấp
lánh. Bốn cái cánh mỏng……..giấy bóng. Cái đầu tròn …..hai con mắt long lanh
…….thuỷ tinh. Thân chú nhỏ…….thon vàng…… màu vàng…….nắng mùa thu. Chú đậu
……cành lộc vừng ngã dài …..mặt hồ. Bốn cánh khẽ rung rung ……còn đang phân vân.
Chú bay lên cao hơn …xa hơn. Dưới tầm cánh chú bây giờ là luỹ tre xanh rì rào
trong gió, là bờ ao …..những khóm khoai nước rung rinh. Rồi những cảnh tuyệt đẹp……
đất nước đang hiện ra: cánh đồng …..những đàn trâu thung thăng gặm cỏ ; dòng sông
……. những đoàn thuyền ngược xuôi. Còn ….tầng cao cánh chú là đàn cò đang bay, là
trời xanh trong ….cao vút.
Bài 4: Viết một đoạn văn miêu tả cảnh ( người, cây cối, con vật, đồ vật,…) có sử
dụng các quan hệ từ và gạch chân dưới các quan hệ từ đó.
Khi chữa bài ngoài nhận xét về bố cục, nội dung, cách dùng từ ngữ gợi tả, gợi cảm
ở trong đoạn văn; GV cần lưu ý, nhấn mạnh, khắc sâu sự liên kết các câu văn là nhờ sử
dụng QHT. Như vậy nhờ sử dụng QHT trong đoạn văn đã làm cho nội dung đoạn văn
hay hơn, các ý trong đoạn được “kết dính” với nhau chặt chẽ hơn.
2.2. Sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu:
Đây là một phương pháp quan trọng trong việc học quan hệ từ. Phương pháp này
thường được sử dụng trong việc tạo ra những câu văn có sử dụng quan hệ từ mà nội dung
các ý trong câu có mối quan hệ chặt chẽ.
Khi mới hình thành được khái niệm, kiến thức để củng cố các kiến thức vừa được hình
thành tôi áp dụng phương pháp Rèn luyện theo mẫu
18
Phương pháp này tôi tiến hành theo các bước sau đây:
- Cung cấp mẫu lời nói hoặc hành động lời nói.
- Hướng dẫn học sinh phân tích mẫu theo 1 số yêu cầu.
- Học sinh mô phỏng mẫu để tạo lời nói của mình.
- Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm.
Ví dụ : Sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu để cho học sinh đặt câu có sử dụng
quan hệ từ
-
Em về nhà và……………….……
-
Em về nhà rồi………………..…..
-
Em về nhà còn………………..….
-
Em về nhà hoặc………………….
-
Em về nhà nhưng……………..…
-
Em về nhà mà……………………
-
Em về nhà hay…………………...
Cho HS điền vào phiếu bài tập sau đó gắn phiếu bài tập lên bảng cho HS nhận xét,
câu đúng câu sai, bình chọn câu hay.
Ví dụ: Đặt câu có các quan hệ từ: và, rồi, bằng, nhưng, còn, hay,…
Để đa dạng hoá các phương pháp dạy học dưới nhiều hình thức khác nhau tôi đã tổ
chức cho HS tiếp thu kiến thức dưới hình thức “Học mà chơi - Chơi mà học” Trò chơi:
“Ai đúng”, “Ai nhanh”, “Ai hay!”
Khi tổ chức chữa bài cho HS GV cần chú ý chấm cả 3 tiêu chí: Đúng, nhanh, hay,
nhưng khuyến khích cho những em HS kém hơn yêu cầu mức độ thấp hơn đúng là được.
Với cách làm này không ngoài mục đích huy động tối đa sự nỗ lực phấn đấu của các em;
không em nào cảm thấy tự ty hay nhàm chán nội dung học tập.
2.3. Sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp.
Phương pháp thực hành giao tiếp là phương pháp hướng dẫn học sinh vận dụng lí
thuyết được học vào thực hiện các nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc
điểm và các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp.
Sử dụng phương pháp này là giáo viên đưa ra những bài tập tình huống để học sinh
đặt mình vào hoàn cảnh nói năng, sản sinh ra những câu có sử dụng QHT để từ đó các em
vận dụng vào bài văn của mình.
19
Hằng ngày, chúng ta vẫn thường xuyên dùng QHT vào để diễn đạt nội dung lời nói
và bất kì sự biểu đạt nào cũng có thể sử dụng QHT. Vì vậy, đây là phương pháp rất gần
gũi với học sinh, tích cực hoá được hoạt động học tập của học sinh.
Ví dụ: Sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp trong việc củng cố kiến thức và
hình thành kĩ năng giao tiếp của học sinh.
- Các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp GV tạo ra nhiều tình huống giao tiếp trong
môi trường vui chơi có mục đích. Khi đó GV có thể tổ chức cho các em thi nhau giới
thiệu bản thân hoặc giới thiệu về vấn đề nào đó trước nhóm, tổ, lớp,...Nói thành câu,
đoạn,...mà có sử dụng quan hệ từ ( Tuỳ đối tượng HS để yêu cầu mức độ nhiều hay ít, cao
hay thấp để các em không ngại khó mà phấn đầu thi đua cùng các bạn)
- Khi giao nhiệm vụ cho các bạn trong nhóm: Nếu một bạn làm 2 công việc em sẽ
nói như thế nào? Em hãy nêu câu mình phân công nhiệm vụ cho bạn để bạn biết mình
làm những công việc gì? (An trang trí lớp và làm báo tường nhé !) Để bạn biết công việc
nào làm trước công việc nào làm sau em sẽ nói với bạn như thế nào? (An trang trí lớp
xong rồi làm báo tường nhé!) Để bạn biết lựa chọn một trong hai công việc đó em sẽ nói
như thế nào? (An trang trí lớp hay làm báo tường?). Vận dụng linh hoạt những khoảnh
khắc " Vui chơi có mục đích ” mỗi hôm một ít lâu dần sẽ tạo cho các em một thói quen
bất cứ lúc nào cũng “ học mà chơi - chơi mà học ” rất bổ ích và không biết lúc nào các em
đã tự hình thành cho mình cách nói “ có đầu có đuôi ”; nói có lập luận chặt chẽ, biết sử
dụng QHT để giao tiếp. Với cách học này các em luôn có một môi trường học tập lành
mạnh phát huy được tính độc lập tự chủ, tư duy sáng tạo không máy móc lệ thuộc mọi
công việc vào thầy cô giáo bạn bè và còn luyện tập được thực hành những kiến thức được
học tập hàng ngày .
* Khi dạy bài Đạo Đức: Hợp tác với những người xung quanh ( Đạo Đức lớp 5)
Bước 1: GV nêu tình huống:
- “Có một số bàn ghế để giữa sân. Lúc này, em sẽ nói thế nào để cùng bạn khiêng
số bàn ghế đó vào phòng học ”.
Bước 2: HS Thảo luận nhóm bàn ghi các câu mà nhóm mình chuẩn bị vào phiếu
bài tập.
(- Mình và các bạn khiêng bàn ghế vào lớp đi!
- Mình bảo này: các bạn nam đằng ấy khiêng bàn còn các bạn nữ đằng này khiêng
ghế nhé ! )
- “ Có hai đống rác ở giữa sân trường cô giáo bảo em và một bạn cùng lớp đi hốt
rác. Em sẽ nói với bạn như thế nào để cùng bạn hoàn thành công việc cô giáo giao cho”.
20
- Xem thêm -