Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Skkn kinh nghiệm “giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tạ...

Tài liệu Skkn kinh nghiệm “giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường ptdtnt trung học cơ sở huyện krông ana”

.PDF
23
87
55

Mô tả:

Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” MỤC LỤC STT 1 Nội dung A. PHẦN MỞ ĐẦU: I. Lý do chọn đề tài. II. Mục tiêu, nhiêm vụ của đề tài. III. Đối tượng nghiên cứu. IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu V. Phương nghiên cứ Trang 2 2 11 14 14 14 2 3 4 B. PHẦN NỘI DUNG: I. Cơ sở lý luận. II. Thực trạng. III. Nội dung và hình thức giải pháp. 15 C. PHẦN KẾT, KIẾN NGHỊ. I. Kết luận. II. Kiến nghị 22 Chú thích phần viết tắt – tài liệu tham khảo 15 16 23 24 Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 1 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài 1. Cơ sở khoa học Học sinh trung học cơ sở (THCS) người dân tộc thiểu số (DTTS) cũng có những đặc điểm tâm lí chung như những học sinh THCS người Kinh cùng trang lứa. Tuy nhiên bên cạnh những đặc điểm chung đó các em có những nét đặc trưng riêng, những đặc trưng mang tính của tộc người và những đặc trưng do điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa tạo nên. Trong phạm vi bài viết này, tôi dựa trên những đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THCS người DTTS và đi sâu tìm hiểu và phân tích một số đặc điểm tâm lí tiêu biểu mà ở trường PTDNT THCSKrông Ana vùng dân tộc và miền núi nơi tôi quan tâm để trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học và giáo dục kỷ luật. Là cán bộ quản lí, giáo viên công tác ở trường PTDTNT THCS cấp huyện, việc hiểu những đặc điểm tâm lí của học sinh THCS người DTTS là rất cần thiết. Nắm được những đặc điểm tâm lí của học sinh THCS người DTTS giúp cho giáo viên lựa chọn được những phương pháp giáo dục thích hợp với từng đối tượng học sinh dân tộc, phát huy được tính tích cực, chủ động, sang tạo của học sinh, nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục ở trường PTDTNT THCS đặc biệt là giáo dục kỷ luật tích cực. 2. Cơ sở thực tiễn: Học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) được sự quan tâm của Đảng và nhà nước đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị để nuôi, dạy, ăn, ở tại trường, điều kiện học tập, thời gian học tập rất thuận lợi. Song trong thời gian vừa qua chất lượng học tập vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo, một bộ phận học sinh học xong lớp 9 ở trường PTDTNT huyện không vào được trường PTDTNT tỉnh đã bỏ học ở nhà làm nông hoặc đi học nghề ngắn hạn tại địa phương hoặc vào trường THPT rồi bỏ học giữa chừng. Bởi vậy việc nâng cao chất lượng học tập ở trường PTDTNT là vấn đề hết sức nan giải bản thân luôn trăn trở để tìm ra biện pháp. Trước hết phải tìm hiểu nguyên nhân học sinh học yếu: - Những rào cản của chính bản thân các em: Khả năng nói và hiểu tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số còn yếu nhất là lớp đầu cấp, phần lớn các em còn thiếu tự tin, nhút nhát, không biết ghi chép, không biết cách sử dụng tài liệu, sách giáo khoa...Một phần do các em còn nhỏ, lần đầu tiên phải sống xa gia đình, một phần do chất lượng đào tạo ở một số trường tiểu học vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế. - Môi trường học tập: chưa có sự quan tâm chu đáo, tận tình của giáo viên, thiếu sự đồng cảm của bạn bè, điều kiện học tập chưa đảm bảo. Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 2 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” Do đặc thù của các trường PTDTNT THCS hầu hết đối tượng học sinh là con em đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn huyện như: ÊđêGia rai, Tày, Nùng, Mường, Thái… Nên mỗi dân tộc, mỗi địa phương có phong tục tập quán, ngôn ngữ khác nhau. Khi mới vào trường PTDTNT THCS các em còn nhỏ (độ tuồi từ<= 13 tuổi) có không ít em chưa thành thạo tiếng phổ thông. Khả năng tiếp thu của các em còn chậm. Các em rất rụt rè trong giao tiếp. Hơn nữa hiện nay trong xã hội vấn nạn giáo viên đánh đập học sinh vẫn còn xảy ra không ít và nhiều lý do khác làm cho các em sợ thầy cô, ngại giao tiếp với thầy cô. Vì vậy tôi mạnh dạn đưa nội dung giáo dục kỷ luật kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số để toàn thể giáo viên trong trường nghiên cứu vận dung vào việc giáo dục kỷ luật cho học sinh DTTS trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana để giúp các em học tốt các môn học, có tinh thần yêu trường, mến bạn,quí thầy cô và giúp các em luôn luôn cảm thấy: “Mỗi ngày mình sống ở trường là một niềm vui, niềm hạnh phúc” Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: 1. Mục tiêu: Mục tiêu củađề tài GDKLTC là giúp học sinh DTTS tại trường PTDTNT THCS Krông Ana phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng sống cơ bản nhằm phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách học sinh, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2. Nhiệm vụ: • Đối với lãnh đạo nhà trường. II. + Tổ chức tuyên truyền vận động Tuyên truyền, vận động là một trong những biện pháp quan trọng để cán bộ quản lý giáo dục tác động đến nhận thức của giáo viên. Công tác tuyên truyền, vận động càng rộng rãi, thường xuyên bằng nhiều hình thức phong phú như treo panô, khẩu hiệu, tờ rơi sẽ giúp giáo viên thay đổi nhận thức trong thời gian sớm nhất. + Cung cấp sách báo, tài liệu: Sách báo, tài liệu là một trong những nguồn cunhg cấp thông tin không thể thiếu, giúp cho việc thay đổi nhận thức của giáo viên. Thông qua nguồn thông tin này, giáo viên tự học hỏi và tích lũy kinh nghiệm giao dục học sinh mà không dung hình phạt. + Tổ chức các lớp tập huấn: Các lớp tập huần, hội thảo luôn mang lại cho giáo viên những ý tưởng hay. Cán bộ quản lý giáo dục cần tổ chức các cuộc hội thảo, tập huấn để giáo viên nhận thức được mục đích việc sử dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực, giúp họ chọn lọc, sáng tạo những hình thức giáo dục phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình. Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 3 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” + Xây dựng cơ chế khuyến khích việc thực hiện các biện pháp giáo dụckỷ luật tích cực Nhà trường cần có cơ chế cụ thể trong việc thực hiện các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực. Cơ chế này được xây dựng trên cơ sở thống nhất của Hội đồng sư phạm bao gồm đầy đủ các nội dung như kiểm tra giám sát việc thực hiện, khen thưởng, tôn vinh những giáo viên thực hiện tốt, kỷ luật nghiêm khắc những giáo viên vi phạm nội quy. Việc nhà trường thực hiện tốt cơ chế này sẽ đảm bảo tất cả học sinh để được hưởng lợi ích của biện pháp giáo dục tích cực. + Tuyên truyền tới phụ huynh: + Tổ chức tuyên truyền cho phụ huynh về GDKTTC thông qua các buổi họp phụ huynh, các buổi hội thảo, tọa đàm… + Mời phụ huynh tham gia vào quá trình thực hiện. Ví dụ: Lấy ý kiến của phụ huynh đóng góp cho nội quy lớp/ trường học để phụ huynh năm được và phối hợp với nhà trường trong việc theodõi, giám sát thực hiện. + Mời phụ huynh tham gia vào các hoạt động tập thể do nhà trường / lớp tổ chức. + Tuyên truyền bằng tờ rơi bằng cách gửi trực tiếp cho phị huynh, bằng áp píc treo ở các trung giáo dục cộng đồng hay các nhà văn hóa của các thôn buôn • Đối với giáo viên: Khi GDKLTC cho học sinh giáo viên cần thực hiện các nội dung sau: + Dạy trẻ tự hiểu hành vi của mình, tự có các sáng kiến và có trách nhiệm đối với sự lựa chọn của mình, biết tôn trọng mình, biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác. Nói cách khác giúp trẻ có một quá trình phát triển tư duy và có các hành vi tích cực có thể ảnh hưởng lâu dài đến cả cuộc đời con người. + Gây dựng mối quan hệ tôn trọng giữa giáo viên và học sinh. + Dạy cho học sinh những kỷ năng sống mà các em sẽ cần trong suốt cả cuộc đời. + Làm tăng sự tự tin và khả năng xử lý các tình huống khó khăn trong học tập và cuộc sống của các em. + Dạy cho học sinh biết cách cư xử nhã nhặn, không bạo lực, tôn trọng bản thân, biết thông cảm và tôn trọng quyền của người khác. Khi giáo viên áp dụng các nội dung GDKLTC như đã nêu trên, học sinh không cảm thấy bị xúc phạm dẫn đến chán nản, GDKLTC giúp cho việc tạo ra mối quan hệ thân thiết giữa giáo viên và học sinh , học sinh và học sinh, bố mẹ và con cái. • Đối với Phụ huynh: Tìm hiểu về GDKTTC thông qua các buổi họp phụ huynh, các buổi hội thảo, tọa đàm… Tham gia ý kiến đóng góp cho nội quy lớp, trường học để phụ huynh năm được và phối hợp với nhà trường trong việc theo dõi, giám sát thực hiện. Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 4 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” Mời phụ huynh tham gia vào các hoạt động tập thể do nhà trường / lớp tổ chức. III. Đối tượng nghiên cứu: Giáo dục kỷ luật tích cực cho học sinh dân tộc thiểu số trường PTDTNT THCS HuyệnKrông Ana từ năm học 2015-2017. IV. Giới hạn của đề tài: Học sinh trường PTDT nội trú Krông Ana, thực hiện áp dụng từ năm học 2015 2017. V. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện bằng cách đem lý thuyết áp dụng vào thực tế, có điều chỉnh bổ sung và từ thực tế rút ra những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện. Quá trình nghiên cứu, thực hiện sử dụng các phương pháp sau: Viết thành chuyên đề để cán bộ, giáo viên, phụ huynh và học sinh thảo luận, bàn bạc và góp ý cụ thể từng nội dung.Tổ chức chuyên đề phổ biến cho toàn thể cán bộ, giáo viên nắm vững nội dung để thực hiện. Qua quá trình triển khai thực hiện có lấy ý kiến đóng góp của cán bộ giáo viên, phụ huynh và học sinh để bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế ở trường. B. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận: Trong trường học, khi học sinh vi phạm các quy định, quy tắc của lớp, của trường, tùy mức độ vi phạm, các em sẽ bị kỷ luật theo mức độ và hình thức khác nhau. Trong thực tế có rất nhiều hình thức kỷ luật học sinh. Do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và cách giáo dục truyền thống “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” “Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”, nhiều giáo viên sử dụng các hình thức như mắng nhiếc, sỉ nhục, đánh, tát, phạt quỳ, bêu riếu… Biện pháp cuối cùng của hình thức là đuổi học sinh. Biện pháp này thể hiện sự bất lực của giáo viên đặc biệt là giáo viên các trường có học sinh DTTS, vô hình chung chúng ta đẩy ra ngoài xã hội những “sản phẩm kém GD chất lượng” và đó chính là mầm mống của các hiện tượng tiêu cực gây rối loạn trật tự xã hội tại các vùng miền núi. 1 Kỷ luật và giáo dục kỷ luật: Chúng ta biết rằng kỷ luật là những quy tắc quy định, luật lệ mà con người phải thực hiện, chấp hành, tuân theo để đạt được mục tiêu đề ra.Kỷ luật là chìa khóa vạn năng giúp con người trở nên hoàn tất và thành công trong cuộc sống. Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 5 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” Trong thực tế “kỷ luật” thường được hiểu nhầm là “khống chế” và “ trừng phạt” đặc biệt trừng phạt thân thể. Tuy nhiên, đó không phải là nghĩa thực của từ “kỷ luật” đối với học sinh. Quan điểm của giáo dục kỷ luật tích cực là: Việc mắc lỗi của học sinh được coi như lẽ tự nhiên của quá trình học tập và phát triển. Nhiệm vụ quan trọng của chúng ta là làm thế nào để học sinh tự nhận thức được bản thân, tự kiểm soát được hành vi, thái độ, trên cơ sở các quy định, quy ước đã được xây dựng, thỏa thuận giữa người dạy và người học. Khi học sinh mắc lỗi, giáo viên là bạn, là anh, là chị, người mẹ, người cha – chỉ cho các em nhận ra lỗi của mình để tự điều chỉnh. Việc tự nhận ra lỗi để điều chỉnh bản thân là cơ sở cho sự phát triển hoàn thiện nhân cách. Kỷ luật tích cực mang tính xây dựng và là biện pháp hiệu quả, nhằm tìm ra giải pháp giải quyết các tình huống mang tính thách thức trong lớp học và trong nhà trường. Giáo dục kỷ luật tích cực hỗ trợ việc dạy học và giáo dục các em học sinh DTTS. Giáo dục kỷ luật tích cực còn xây dựng sự tự tin của học sinh và long ham thích học tập cho các em. 2 Giáo dục kỷ luật tích cực là gì? Giáo dục kỷ luật tích cực là: - Những giải pháp mang tính dài hạn giúp phát huy tính kỷ luật tự giác của học sinh. - Sự thể hiện rõ ràng những mong đợi, quy tắc và giới hạn mà học sinh phải tuân thủ. - Giáo dục kỷ luật tích cực là việc dạy và rèn luyện cho các em tính tự giác tuân theo các quy định và nguyên tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt cũng như về lâu dài. Giáo dục kỷ luật tích cực là để phát triển hành vi cho các em, cụ thể là: - Giáo dục học sinh tự kiểm soát và tự tin để biết cách thực hiện các hành vi mong đợi. - Dạy trẻ biết cách tự kiềm chế bản thân và chungsống hài hòa với người khác. - Giáo dục kỷ luật tích cực là sự động viên khích lệ thực hiện hành vi, xây dựng sự tự tin, lòng tự trọng và tính trách nhiệm, giúp các em phát triển nhân cách, chứ không phải làm cho các em bị đớn đau. Giáo dục kỷ luật tích cực tôn trọng trẻ và không mang tính bạo lực. Đây là cách tiếp cận mang tính giáo dục, giúp trẻ thành đạt, cung cấp cho các em thông tin các em cần để học và hỗ trợ sự phát triển của các em. Giáo dục kỷ luật tích cực không phải là: - Sự buông thả, để cho học sinh muốn làm gì thì làm. - Không có các quy tắc, giới hạn hay sự mong đợi. - Những phản ứng mang tính ngắn hạn hay những hình phạt thay thế cho việc tát, đánh hay sỉ nhục. Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 6 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” II. Thực trạng 1. Thực trạng về tâm sinh lý của học sinh Thực trạng về tâm sinh lý của học sinh THCS người DTTS được mô tả một số nội dung dưới đây: 1.1 Một số vấn đề về tri giác: Tri giác là một quá trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan. Nghiên cứu đặc điểm tri giác của học sinh THCS người DTTS có thể rút ra một số nhận xét sau: Độ nhảy cảm của thính giác của các em rất cao, mắt các em rất tinh. Tai và mắt của các em rất tinh nhạy la do từ nhỏ các em đã theo người lớn vào rừng săn bắn, bẫy chim, tìm cây, tìm rau rừng… nên hình thành thói quen tri giác tập trung, khả năng phân biệt sự vật và hiện tượng tốt. Nghe tiếng chim hót các em có thể nhận ra đó là chim gì, nhìn vết chân các em biết đó là loài thú gì, các em có thể phát hiện những con vật nhỏ bé như con vắt, con kiến… Giác quan tinh, nhạy là điều kiện thuận lợi cho các em tri giác đối tượng trong học tập và biết vâng lời thầy cô giáo. Sự định hướng tri giác theo nhiệm vụ (học tập) đặt ra chưa cao. Các em thường bịthuhút vào những thuộc tính rực rỡ, màu sắc mới lạ ở bên ngoài đối tượng tri giác, do vậy các em khó phân biệt được đâu là thuộc tính bản chất, đâu là thuộc tính không bản chất. Khả năng tư duy hình học, vật lí của các em còn yếu. Các em có thể nhận ra từng dấu hiệu, thuộc tính đơn lẻ của sự vật, hiện tượng. Song quá trình tổng hợp khái quát để đi đến nhận xét chung lại hạn chế, khả năng kết hợp các giác quan yếu. Các em có thể nhận diện nhanh chóng các hình vẽ do giáo viên vẽ trên bảng, song để các em tự vẽ lại thì rất khó khăn, nhất là phải sử dụng dụng cụ học tập như Compa, thước kẻ. Tính kế hoạch và sự kiên trì quan sát trong quá trình học tập hạn chế. Các em không thể tập trung được lâu. Nếu giờ dạy thiếu đồ dung dạy học trực quan, thiếu ngôn ngữ dân tộc để giải thích, giáo viên (GV) nói nhanh không nhấn mạnh nội dung quan trọng cần giáo dục (GD), hoặc nói quá to… thì sự chán nản của các em đến rất nhanh, khi đó các em không quan sát, không nói chuyện, không phá phách như học sinh người kinh, các em vẫn ngồi yên, song trong đầu không hoạt động. Một giáo viên tâm sự “Giáo viên chỉ nói to hơn bình thường một chút là học sinh nghĩ là chúng tôi mắng các em, vì vậy chúng tôi phải thận trọng hơn khi giáo dục kỷ luật”. 1.2 Đặc điểm nhận thức ngôn ngữ tiếng Việt Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp, là phương tiện để thực hiện quá trình nhận thức của bất cứ dân tộc nào trẻ em sinh ra đã nói tiếng mẹ đẻ. Các em giao Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 7 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” tiếp bằng tiếng mẹ đẻ. Khi đến trường các em học bằng tiếng Việt, các em đã gặp khó khăn về ngôn ngữ trong học tập và giao tiếp. Qua thảo luận nhóm với học sinh, qua xem bài kiểm tra của các em, xem vỡ ghi chép hàng ngày của các em và quan sát các em giao tiếp với nhau… Từ đó có thể kết luận nhận thức về ngôn ngữ tiếng Việt của học sinh DTTS: - Vốn tiếng Việt của học sinh DTTS còn nghèo nàn; Các em hiểu rất ít về ngôn ngữ tiếng Việt; Khó khăn trong sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt; Khó khăn trong tư duy và nhận thức khoa học. Theo nhận thức của tôi, tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của học sinh dân tộc nhưng không phải là ngoại ngữ. Học sinh dân tộc tiếp nhận tiếng Việt là tiếp nhận với trách nhiệm, tình cảm, nghĩa vụ và quyền lợi. Tiếng Việt và các tiếng dân tộc cũng có nhiều điểm gần gũi về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Vấn đề quan trọng là giáo viên cần giúp học sinh khắc phục những chuyển di ngôn ngữ có hại và khai thác tốt các chuyển di ngôn ngữ có lợi, tôi nghĩ rằng chúng ta coi nhẹ khó khăn hay quá nhấn mạnh khó khăn của học sinh dân tộc khi học tiếng Việt đều là không đúng với khoa học dạy tiếng. 1.3 Đặc điểm về tư duy: Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ bên trong có tính chất quy luật của sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó chưa biết. Học sinh DTTS có các đặc điểm tư duy riêng biệt sau: Các em chưa có thói quen lao động trí óc, phần lớn các em ngại suy nghĩ, ngại động não, khi gặp phải vấn đề khó khăn là các em bỏ qua, nên dẫn tới khả năng tự học hạn chế. Vì vậy khi gặp vấn đề này thì trong quá trình giáo dục kỷ luật giáo viên cần lưu ý. Tư duy của học sinh DTTS còn thể hiện kém nhanh nhẹn, kém linh hoạt và kém mềm dẻo. Mặt khác do hạn chế về Tiếng Việt nên ngại tranh luận, ngại trình bày các vấn đề khó nói, sợ bị các bạn cười. Học sinh DTTS tư duy trực quan – hình ảnh tốt, tư duy trừu tượng logic yếu. Học sinh DTTS thường tồn tại kiểu tư duy kinh nghiệm; yếu về tư duy lí luận, tư duy sáng tạo, tư duy khoa học. Những đặc điểm về tư duy chi phối toàn bộ quá trình nhận thức của các em, tác động mạnh mẽ tới các thuộc tính tâm lí và trạng thái tâm lí, trong giáo dục giáo viên cần giúp các em tư duy lí luận, tư duy khoa học thong qua các hoạt động. 1.4 Đặc điểm về trí nhớ Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 8 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” Học sinh DTTS có một số đặc điểm về ghi nhớ sau: Ghi nhớ máy móc chiếm ưu thế, các em ghi nhớ một cách rời rạc, thiếu logic với nhau. Để khắc phục nhược điểm này GV phải kiên trì, mỗi vấn đề giáo dục yêu cầu các em nhớ mình phải làm cái gì, dựa vào đâu để làm được, làm thế nào để không vi phạm kỷ luật. Khả năng tái hiện không tốt. Biểu hiện là do các em trình bày lại vấn đề đã các em đã đọc là rất khó khăn. Vậy để giúp học sinh tái hiện nhanh chóng giáo viên cần hướng dẫn học sinh có thói quen truy bài, trao đổi bài thường xuyên, phát biểu trước đám đông… 1.5 Đặc điểm về tình cảm: Học sinh DTTS có những đặc điểm về tình cảm như sau: Tình cảm của các em là chân thực, mộc mạc, yêu ghét rõ ràng, không có hiện tượng quanh co, lèo lái hoặc khéo léo che đậy những tình cảm của mình. Tình cảm của các em rất thầm kín. Các em học sinh rất gắn bó với gia đình, làng bản, quê hương. Hầu hết các em không muốn xa gia đình. Khi phải đi học ở trường PTDTNT THCS các em rất nhớ nhà, nhiều khi khóc cả tuần. Tình cảm bạn bè của các em học sinh DTTS rất độc đáo, thân nhau như anh em, bảo vệ nhau đến cùng. Bạn nghỉ học cũng phải nghỉ học theo. Các em rất ưa tình cảm và giải quyết mọi vấn đề bằng tình cảm. Một em gái dân tộc nói “Khi giáo viên mắng, em thấy buồn và không muốn học nữa” Sự phát triển cơ thể của thiếu niên diễn ra mạnh mẽ nhưng không cân đối. Sự hoạt động tổng hợp của các tuyến nội tiết quan trọng nhất (tuyến yên, tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận) tạo ra nhiều thay đổi trong cơ thể trẻ, trong đó sự nhảy vọt về chiều cao và sự phát dục. 1.6 Đặc điểm về tính cách: Học sinh THCS người DTTS có một số đặc điểm riêng: Các em sống hồn nhiên, giản di, thật thà, chất phác. Do hạn chế về Tiếng Việt nên các em rất rụt rè, rất ít nói, hay tự ti. Các em đã bắt đầu có lòng tự trọng, có tính bảo thủ và đặc biệt là hay tự ái và hay tủi thân. Các em sống theo kiểu phóng khóang, tự do, không thích gò bó, chặt chẽ. Trong giao tiếp, các em không biết nói năng mềm dẻo, tế nhị. Đại đa số nói trống không, cộc lốc, không cần thưa gửi, một phần do ngôn ngữ bị hạn chế. 1.7 Đặc điểm về nhu cầu: Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 9 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” Học sinh DTTS từ khi chưa đi học đến khi đi học là cả một sự đấu tranh bên trong của cá nhân. Ở nhà các em hoạt động chủ yếu là vui chơi. Đối với học sinh DTTS đến trường, đi học là sự thay đổi căn bản của hoạt động chủ đạo. Thời kỳ này tâm lý học sinh có sự chuyển biến, ý thức vì mình là học sinh. Do vậy, duy trì được nhu cầu thích học, khẳng định được vị trí của mới của người học là một trong những yêu cầu sư phạm cần thiết để giáo dục học sinh. Ý thức tập thể, kỷ luật học tập, phải trở thành nếp sống mới, thói quen mới và dần được khắc sâu trong học sinh. Đồng thời với yêu cầu trên là hình thành nhu cầu Tiếng Việt cho học sinh DTTS. Tuy nhiên, đối với học sinh DTTS, tiếng mẹ đẻ đã có chiều sâu nhất định, do vậy không thể hạn chế, cưỡng ép, xóa bỏ thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ trong học tập. Quan trọng là hình thành cho học sinh một cách nhìn mới về giá trị của ngôn ngữ công cụ và ngôn ngữ mẹ đẻ. Việc hạn chế, cưỡng ép học sinh bỏ thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ là một hành vi trái với văn hóa, đồng thời với khoa học dạy tiếng. Tiếng mẹ đẻ của học sinh không phải là hòn đá chặn đường mà chính là viên đá lát đường dẫn các em nhanh chóng đến với ngôn ngữ thứ hai và đến với chân trời khoa học. Vấn đề quan trọng ở chổ là chúng ta phải nắm rất chắc bản chất và các bước đi của giáo dục song ngữ để vận dụng các hoạt động dạy học trong nhà trường, vì vậy để giáo dục lỷ luật có hiệu quả giáo viên cần phải biết tiếng mẹ đẻ của dân tộc đó. Những kích thích bên ngoài không xuất phát từ chính đối tượng của hoạt động học tập có vai trò quan trọng vì đáp ứng nhu cầu đang có ở học sinh. Nhu cầu được khen, chiếm được uy tín của bạn bè, nhu cầu được chơi, hoạt động ngoại khóa… đều có tác dụng tích cực đối với hoạt động giáo dục của học sinh DTTS. Do vậy việc mở rộng phạm vi nhu cầu như: Tổ chức các hoạt động học tập thể, lao động, vui chơi, giao lưu, hoạt đ6ọng xã hộ, văn hóa thể thao… là tiền đề sinh ra nhu cầu mới, nhu cầu nhận thức. Tổ chức giáo dục theo các hình thức khác nhau như giáo dục tự học, giáo dục học ngoài giờ chính khóa, giáo dục qua tình huống, giáo dục qua hoạt động ngoại khóa đều có tác dụng bổ sung tri thức, mở ra những nhu cầu mới cho học sinh. Trong một môi trường mới, trường PTDTNT THCS, hoạt động của bản thân học sinh là động lực trở thành thành viên xã hội, phát triển nhân cách. Các dạng hoạt động như: Học tập, vui chơi, hoạt động xã hội …đều được thong qua giao lưu quan hệ với người khác (thầy- trò, bạn bè, gia đình, xã hội…). Trong dó nhu cầu khẳng định trong học tập và rèn luyện ngày càng chiếm ưu thế và là đặc điểm quan trọng của học sinh. Đồng thời, nhu cầu của học sinh ở cuối cấp hướng vào sự thành đạt, nhu cầu học nghề, nhu cầu tình bạn, tình yêu… so với học sinh người kinh có sự đa dạng và phân hóa về mức độ và tính chất. Sự phát triển về nhu cầu của học sinh đang diễn ra đúng quy luật chung: Từ những quá trình và chức năng trực tiếp thành gián tiếp, từ không chủ định thành chủ định, từ chưa có ý thức đến có ý thức. Quá trình hình thành nhu cầu, động cơ học tập không tách Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 10 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” rời phương pháp, biện pháp tổ chức học tập. Do đó, mọi hoạt động của học sinh DTTS, dưới sự chí đạo của thầy phải xác định học sinh là chủ thể của hoạt động giáo dục. Nếu như trước khi đến trường PTDTNT THCS, học sinh chưa có nhu cầu, động cơ học tập rõ rệt thì quá trình hình thành nhu cầu của học sinh trong trường PTDTNT THCS có nội dung mới: Nhu cầu giao tiếp, nhu cầu hoạt động xã hội… có đặc điểm và tính chất riêng. Như vậy khi thực hiện các biện pháp thu hút học sinh vào hoạt động tập thể, làm cho học sinh nào cũng nhìn thấy rõ kết quả học tập của mình thì các em yên tâm học tập hơn. Từ những đặc điểm nhu cầu của học sinh DTTS, có thể nhận xét như sau: Nhu cầu học tập của học sinh DTTS đã đáp ứng và phát triển nhờ vào giải pháp xây dựng trường PTDTNT THCS. Đây là biện pháp có tính chiến lược quan trọng xét về khía cạnh nhu cầu học tập. Vấn đề quan trọng tiếp theo là tổ chức học tập, giáo dục có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm nhận thức, hứng thú của học sinh. Hình thành và phát triển nhu cầu cho học sinh gắn liền với việc cải tiến nội dung phương pháp, các hình thức tổ chức học tập thích hợp, để nâng cao kết quả học tập của học sinh thông qua các đa dạng học tập có hiệu quả là hướng đi quan trọng của lực lượng giáo dục. Nhu cầu giao tiếp của học sinh DTTS phụ thuộc vào khả năng ngôn ngữ công cụ. Do vậy, trang bị cho học sinh ngôn ngữ phổ thông là cung cấp cho các em phương tiện giao tiếp cục kỳ quan trọng, để mở rộng phạm vi nhu cầu, hiệu quả hóa những nhu cầu đặc trưng lứa tuổi và những nét riêng trong nhu cầu học sinh DTTS hiện nay. 1.8 Đặc điểm về giao tiếp: Sự hình thành kiểu quan hệ mới: Học sinh người DTTS khi học hết bậc tiểu học tiếp tục học lên các trường THCS hoặc vào tại trường PTDTNT THCS cấp huyện, các em có nhu cầu mở rộng mối quan hệ và thực sự có nhiều mối quan hệ hình thành đối với các em. Khi đến trường PTDTNT THCS hoặc trường THCS nhiều mối quan hệ mới nảy sinh: Quan hệ với thầy cô chủ nhiệm, quan hệ với thầy cô bộ môn, quan hệ với cô cấp dưỡng, bác bảo vệ, quan hệ với bạn bè trong từ các địa phương khác đến; quan hệ với các bạn cùng phòng trong ký túc xá… các quan hệ này là hoàn toàn mới lạ đối với các em. Bên cạnh đó các em lại xa gia đình sống tự lập, đây thực sự là thách thức đối với các em. Các em sẽ phải giải quyết các mối quan hệ này như thế nào? Đặc biệt là những em học lớp đầu cấp.đến trường PTDTNT THCS thực sự là môi trường mới và hoàn toàn xa lạ đối với các em, Thực tế cho thấy chỉ có một hành vi cử chỉ không thân thiện của giáo viên là các em có thể bỏ học. Một em gái dân tộc ÊĐê nói “Khi giáo viên mắng, em thấy buồn và không muốn học nữa”. Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 11 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” Giao tiếp với người lớn: Ở tuổi thiếu niên xuất hiện một cảm giác rất độc đáo: “Cảm giác mình đã là người lớn” Các em cảm thấy mình không còn là trẻ nhỏ nữa, nhưng các em cũng có cảm giác mình chưa thực sự là người lớn. Cảm giác mình đã là người lớn được thể hiện rất phong phú về nội dung và hình thức. Các em quan tâm đến hình thức, tác phong, cử chỉ… và những khả năng của bản thân. Cảm giác về sự trưởng thành và nhu cầu được người lớn thừa nhận nó là người lớn đã đưa đến vấn đề quyền hạn của người lớn và các em trong quan hệ với nhau. Các em mong muốn hạn chế quyền hạn của người lớn mà mở rộng quyền hạn của mình; các em mong muốn người lớn tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và mở rộng tính độc lập của các em. Do đặc điểm cư trú, văn hóa cho nên học sinh THCS người DTTS đã sớm có tính tự lập từ nhỏ, khi học tiểu học các em tự đến trường không cần phải người lớn đưa đón như học sinh người Kinh ở thành phố; các em gái đã làm giúp gia đình được nhiều việc; nhiều em gái dân tộc Mnông có thể biết tự may vá quần áo cho mình; các em có thể nấu cơm, giặt quần áo… khi học lên THCS các em đã phát triển về thể lực và sinh lí, do vậy các em càng khẳng định mình là người lớn. Quá trình học tập ở trường PTDTNT THCS học sinh được mở rộng tầm nhìn do môi trường mới đa dạng, phong phú về các hình thức tổ chức học tập, học trên lớp, ngoài lớp, hoạt động xã hội, trong và ngoài nhà trường, môi trường giao lưu ngày càng mở rộng. Đối tượng giao tiếp của các em ngày càng đa dạng, phong phú, cường độ tiếp xúc của học sinh PTDTNT THCS cũng nhiều hơn so với học sinh trường khác. Do tính chất nội trú, những đặc điểm quản lý tập trung nên giờ tự học, sinh hoạt của học sinh có sự giao tiếp thường xuyên với các lực lượng giáo dục. Toàn bộ hoạt động diễn ra trong ngày, trong tuần, trong không gian nội trú là một môi trường giao tiếp sư phạm có ý nghĩa lớn đối với hệ thống các trường phổ thong không có sự giúp đỡ, quản lý trực tiếp của các lực lượng giáo dục đối với các em. Phương tiện giao tiếp chủ yếu của học sinh trong trường PTDTNT THCS là dùng Tiếng Việt, tiếng dân tộc dung để sử dùng để giao tiếp giữa các em cùng dân tộc. Đây là bước chuyển đổi căn bản về phương thức giao tiếp trong nhà trường. Do vốn từ hạn chế, khả năng diễn đạt còn kém nên nhiều học sinh ngại tiếp xúc, thiếu mạnh dạn trong trao đổi thong tin. Trên lớp thì các em ngại phát biểu, thảo luận, bảo vệ ý kiến vì sợ sai xấu hỗ. Thông qua các hoạt động của trường như hoạt động tự học, vui chơi, thể thao, văn hóa, lao động… học sinh được tiếp xúc với phương tiện của xã hội văn minh, các em rất ham thích, tuy nhiên khả năng định hướng trong giao tiếp thiếu trọng tâm, biểu hiện ở nhiều em là dung Tiếng Việt, tiếng dân tộc được sử dụng để giao tiếp của học sinh có quan hệ hữu cơ với trình độ nhận thức, với khả năng Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 12 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” ngôn ngữ. Nhu cầu giao tiếp tích cực, chủ động mở rộng phạm vi giao tiếp phụ thuộc vào năng lực, trí tuệ và động cơ. Tóm lại phạm vi giao tiếp của học sinh ở trường THCS, trường PTDTNT THCS được mở rộng: Phương tiện giao tiếp chủ yếu của các em là tiếng phổ thông; tính tích cực giao tiếp chưa cao; khả năng giao tiếp và nhận thức, nhu cầu còn có mâu thuẫn. Giao tiếp của học sinh được định hướng bởi mục đích, nội dung các hoạt động, phương thức giáo dục của nhà trường. Từ những đặc điểm này đòi hỏi các tổ chức học tập của học sinh DTTS phải đổi mới, phù hợp với nhu cầu đúng đắn của các em, tạo ra môi trường rèn luyện giao tiếp cho học sinh. 1.9 Đặc điểm về sự hình thành ý thức và tự ý thức: Đặc điểm về nhận thức, về tính cách, tình cảm, giao tiếp… của học sinh THCS đã nói lên những đặc điểm về sự hình thành ý thức và sự tự ý thức của học sinh DTTS. Do sự phát triển mạnh mẽ của cơ thể, đặc biệt do sự phát triển của các mối quan hệ xã hội và sự giao tiếp trong tập thể mà ở các em đã biểu hiện nhu cầu tự đánh giá nhu cầu so sánh mình với người khác. Các em đã bắt đầu xem xét mình, vạch cho mình một nhân cách tương lai, muốn hiểu biết mặt mạnh mặt yếu trong nhân cách của mình. Mức độ ý thức của các em cũng có sự khác nhau. Về nội dung, không phải tất cả là những phẩm chất của nhân cách đều ý thức được hết. Ban đầu các em chỉ nhận thức hành vi của mình trong những phạm vi khác nhau, cuối cùng các em mới nhận thức hành vi của mình, sau đó là nhận thức những phẩm chất đạo đức , tính cách và năng lực của mình trong những phạm vi khác nhau, cuối cùng các em mới nhận thức những phẩm chất phức tạp thể hiện nhiều mặt nhân cách (tình cảm, trách nhiệm, lòng tự trọng…) về cách thức, ban đầu các em còn dựa vào đánh giá của những người gần gủi và có uy tín với minh. Dần dần các em hình thành khuynh hướng độc lập phân tích và đánh giá bản thân. Nhưng khả năng tự đánh giá của thiếu niên còn hạn chế, chưa đủ khách quan… do đó, nảy sinh những xung đột, mâu thuẫn giữa thái độ kỳ vọng của các em đối với địa vị thực tế của chúng trong tập thể; mâu thuẫn giữa thái độ và các em đối với bản thân, đối với những phẩm chất nhân cách của mình và thái độ của các em đối với người lớn, đối với bạn bè cùng lứa tuổi. Ý nghĩa quyết định nhất để phát triển tự ý thức ở lứa tuổi này cuộc sống tập thể của các em, nơi mà nhiều mối quan hệ giá trị đúng đắn, mối quan hệ này sẽ hình thành ở các em lòng tự tin vào sự tự đánh giá của mình, là những yêu cầu ngày càng cao đối với hành vi, hoạt động của các em… cũng đồng thời giúp cho sự phát triển về ý thức của các em. Nhận thức về minh về thông qua việc đối chiếu so sánh mình với người khác. Nhưng khi đánh giá người khác, các em còn chủ quan, nông cạn, nhiều khi chỉ dựa vào một vài hình tượng không rõ ràng các em đã vội kết luận hoặc chỉ Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 13 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” chú ý vào một vài phẩm chất nào đó mà quy kết toàn bộ. Vì thế, người lớn rất dễ mà cũng rất khó gây uy tín với thiếu niên. Và khi đã có kết luận đánh giá về một người nào đó, các em thường có ấn tượng dai dẳng, sâu sắc. Sự phát triển tự ý thức của thiếu niên có ý nghĩa lớn lao ở chổ, nó thúc đẩy các em bước vào một giai đoạn mới, Kể từ tuổi thiếu niên trở đi, khả năng tự giáo dục của các em được phát triển, các em không chỉ là khách thể của quá trình giáo dục mà còn đồng thời là chủ thể của quá trình này. Ở nhiều em, tự giáo dục còn chưa có hệ thống, chưa có kế hoạch, các em còn lung túng trong việc lựa chọn biện pháp tự giáo dục. Vì vậy, chúng ta cần tổ chức cuộc sống và hoạt động tập thể phong phú, hấp dẫn, lôi cuốn các em vào hoạt động chung của tập thể, tổ chức mối quan hệ giữa người lớn và các em. Là cán bộ quản lí, giáo viên công tác ở trường PTDTNT THCS cấp huyện, việc hiểu những đặc điểm tâm lí của học sinh THCS người DTTS là rất cần thiết. Nắm được những đặc điêm tâm lí của học sinh THCS người DTTS giúp cho giáo viên lựa chọn được những phương pháp giáo dục thích hợp với từng đối tượng học sinh dân tộc, phát huy được tính tích cực, chủ động, sang tạo của học sinh, nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục ở trường PTDTNT THCS đặc biệt là giáo dục kỷ luật tích cực. 2. Thực trạng về cách giáo dục kỷ luật của giáo viên. Khi chưa nắm biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực nếu có học sinh vi phạm các quy định, quy tắc của lớp, của trường thì có một vài giáo viên trong xã hội thường dùng biện pháp trừng phạt thân thể bao gồm: trừng phạt về thể xác (đánh, véo, dùng vật để đánh, kéo tai, giật tóc, buộc học sinh phải ở trong một tư thế không thoải mái (quỳ, úp mặt vào tường…) và trừng phạt về tình thân (la mắng, nhiếc móc, hạ nhục, bỏ rơi, làm cho xấu hổ, chửi rủa làm cho khó xử…) Trừng phạt về thân thể hay tinh thần đều không phải là giáo dục kỷ luật, trừng phạt làm đánh mất sự tự tin của học sinh, giảm ý thức kỷ luật và khiến cho học sinh không thích, thậm chí căm ghét trường học. Trừng phạt thân thể là việc làm đánh mất danh dự của học sinh, có thể để lại những vét sẹo trong tâm hồn của học sinh, khiến các em luôn có thái độ thù địch. Ảnh hưởng của trừng phạt đối với hành vi đạo đức lối sống của học sinh DTTS: 2.1 Việc người lớn trừng phạt thân thể đối với trẻ vô tình đem tới cho trẻ một thông điêp sai lầm, rằng cứ dùng bạo lực là có thể giải quyết hết mọi việc. Từ đó trẻ bắt chước cách làm của người lớn rồi dùng bạo lực để giải quyết các bất đồng của mình với người khác. Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 14 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” 2.2 Việc trừng phạt thân thể có xu hướng nuôi dưỡng thái độ thù địch, hung hăng, trái ngược với ý thức kỷ luật tự giác. Đôi khi do quá dạn đòn, trẻ sẽ trở nên chai lì. Bướng bỉnh, khó bảo, thậm chí chống đối. 2.3 Việc trừng phạt thân thể phá hủy mối quan hệ quan tâm, gắn bó, tin tưởng giữa giáo viên và học sinh. Có trẻ vì thế mà oán hận thù ghét người lớn, làm phản lại quá trình phát triển về mặt đạo đức, ảnh hưởng đến mối quan hệ thầy trò, từ đó sẽ bị mất niềm tin. 2.4 Trừng phạt thân thể làm giảm lòng tự trọng của trẻ, kích thích sự giận dữ, chống đối và đẩy các em tới chỗ muốn chạy trốn khỏi môi trường giáo dục, tệ hại hơn là nó gián tiếp dạy trẻ có thể giải quyết vấn đề bằng bạo lực. Chúng ta hãy đọc những tâm sự dưới đây của học sinh: Tâm sự của học sinh: “Em rất sợ bị trừng phạt thân thể, em thật sự không tưởng tượng nổi một kiểu giáo dục như thế. Nếu cô giáo sử dụng biện pháp ấy, học sinh sẽ trở nên khiếp sợ khi ở trong lớp và kết quả sẽ chẳng nghe cô ấy nói gì vì quá sợ hãi” “Có một điều em rất ghét ấy là bị đánh. Nó làm học sinh không muốn đi học nữa” “Một số học sinh không đi học vì các bạn ấy bị trừng phạt khi không hiểu bài. Một số bỏ học vì thế” “Việc đánh, mắng đã quá quen thuộc với chúng em, lúc đó em cảm thấy chán đời, buồn và muốn tìm bạn bè để tâm sự” “Mỗi ngày của em như sống trong địa ngục, những lúc đó em chỉ muốn bỏ học. Khi viết thư này thì các bạn em đã bỏ học rồi vì không chịu nổi sự mỉa mai và đánh, mắng của cô giáo” III. Nội dung và hình thức của giải pháp: 1. Mục tiêu của giải pháp • Đối với giáo viên: Mục tiêu của giải pháp GDKLTC là giúp giáo viên phải đạt đến các tiêu chí sau: a. Thay đổi cách cư xử trong lớp học: Trước đây một số giáo viên thường xử lý sai phạm của học sinh bằng hình thức trừng phạt như mắng, nhiếc, sĩ nhục, đánh đập … Điều đó có thể giúp mang lại sự sửa đổi tức thì của trẻ nhưng để lại trong tâm hồn trẻ sự tổn thương về thể xác và tinh thần. Khi áp dụng biện pháp Giáo dục kỷ luật tích cực chúng ta cần phải thay đổi cách xử lý sai phạm của học sinh. Cần xử lý nghiêm khắc nhưng với thái độ động viên khuyến khích nhằm giúp học sinh có hành vi và thái độ ứng xử đúng đắn. Nhóm biện pháp này nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của những quy tắc rõ Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 15 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” ràng và nhất quán, niềm tin vào sự tiến bộ của trẻ. Việc xử lý những sai phạm một cách rõ ràng, dứt khoát, sự động viên, khuyến khích và làm gương trong cách cư xử. Nguyên tắc là thay chê bai bằng khen ngợi. b. Xây dựng nguyên tắc rõ ràng và nhất quán: Nguyên tắc cơ bản của việc thay đổi cách cư xử nhằm duy trì kỷ luật ở lớp học, thông qua cách cư xử là xây dựng được những quy tắc rõ ràng và đảm bảo học sinh hiểu được vì sao cần có những quy tắc ấy. Việc xây dựng các quy tắc cần đảm bảo hướng tới những điều kiện tốt đẹp mà giáo viên mong đợi ở học sinh của mình. Những mong đợi về mặt tư cách đạo đức và học tập. Học sinh sẽ cố gắng đạt được điều giáo viên mong đợi và thực hiện các quy tắc tốt hơn khi các em có ý thức được rằng giáo viên thực sự tin tưởng vào khả năng của các em và các quy tắc đề ra phù hợp với long tin ấy. c. Khuyến khích động viên tích cực. Biện pháp này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khen ngợi, động viên khi trẻ có hành vi tích cực. Giáo viên vận dụng tốt các biện pháp thay đổi cách cử xử, ít khi phải dung đến biện pháp xử lý sai phạm, vì mọi hành vi tiêu cực đã được ngăn chặn trước khi xảy ra. Có hai điều quan trọng khiến giáo viên nên sử dụng biện pháp khen ngợi, động viên tích cực. Thứ nhất, những học sinh có hành vi tốt được khen ngợi, khuyến khích và do vậy các em tiếp tục hành động như vậy. Thứ hai, những hành động hoặc hành vi tiêu cực được ngăn ngừa. d. Hình thức xử phạt phù hợp: Khi những yêu cầu, mong đợi đã được đặt ra rõ ràng thì cũng cần có những biện pháp xử phạt cụ thể, rõ ràng đối với những hành vivi phạm và các biện pháp được áp dụng một cách nhất quán. e. Làm gương trong cách cư xử Điều có ý nghĩa hết sức quan trọng là giáo viên cần phải là tấm gương mẫu mực cho học sinh về tư cách đạo đức. Trẻ em học và làm theo những gì các em thấy từ cuộc sống và từ những người xung quanh. Nếu người lớn hay dùng bạo lực, trẻ em chắc sẽ bắt chước sử dụng bạo lực. Nếu giáo viên tỏ ra giận dữ không khoan dung, học sinh chắc cũng sẽ biểu lộ sự tức giận và không khoan dung. Nếu giáo viên cư xử một cách nhẹ nhàng, có lòng khoan dung. Sự nhẫn nại thì học sinh sẽ học theo cách cư xử đó. • Đối với học sinh Giáo dục kỷ luật tích cực góp phần giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh bởi vì mục tiêu của giáo dục kỷ luật tích cực là: a. Dạy trẻ tự hiểu hành vi của mình, tự có các sáng kiến và có trách nhiệm đối với sự lựa chọn của mình, biết tôn trọng mình, biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác. Nói cách khác giúp trẻ có một quá trình phát triển tư duy và có các hành vi tích cực có thể ảnh hưởng lâu dài đến cả cuộc đời con người. Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 16 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” b. Gây dựng mối quan hệ tôn trọng giữa giáo viên và học sinh. c. Dạy cho học sinh những kỷ năng sống mà các em sẽ cần trong suốt cả cuộc đời. d. Làm tăng sự tự tin và khả năng xử lý các tình huống khó khăn trong học tập và cuộc sống của các em. e. Dạy cho học sinh biết cách cư xử nhã nhặn, không bạo lực, tôn trọng bản thân, biết thông cảm và tôn trọng quyền của người khác. Khi giáo viên áp dụng các biện pháp GDKLTC, học sinh không cảm thấy bị xúc phạm dẫn đến chán nản, GDKLTC giúp cho việc tạo ra mối quan hệ thân thiết giữa giáo viên và học sinh, học sinh và học sinh, bố mẹ và con cái. 2. Nội dung và cách thực hiện giải pháp a. Quan tâm đến những khó khăn của học sinh DTTS. Những vấn đề về hành vi có thể khiến học sinh DTTS gặp khó khăn trong học tập và những khó khăn trong học tập có thể gây ra những vấn đề về hành vi. Các chuyên gia tâm lí về trẻ em, những người nghiên cứu về hành vi của trẻ ở trường học kết luận rằng. Những vấn đề về thái độ và cách cư xử trong trẻ em phần lớn bắt nguồn từ những vấn đề thực tế mà các em phải đối mặt trong cuộc sống. Đây thường là những vấn đề có liên quan đến môi trường, hoàn cảnh sống của các em, những khó khăn trong học tập (học yếu, mắt kém, khó khăn về nghe, khó khăn về sử dụng Tiếng Việt) những vấn đề về ở gia đình (hoàn cảnh kinh tế, cha mẹ bất hòa, ly hôn…) những bức xúc khi các em bị tổn thương và bị hiểu lầm hay bị đối xử tàn tệ ( bị chế nhạo, xúc phạm, bị bắt nạt, bị bóc lột, hay lạm dụng) Nhiều khi chỉ vì muốn nhanh chóng chấn chỉnh thái độ và cách cư xử của học sinh mà giáo viên bỏ qua việc tìm hiểu “ cốt lõi” của vấn đề. b. Tăng cường sự tham gia của học sinh DTTS trong hoạt động xây dựng nội quy lớp, trường học. Biện pháp này nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc cho học sinh DTTS tham gia vào quá trình ra quyết định trong lớp học. Cụ thể là việc tham gia xây dựng nội quy lớp, quy định chế độ khen thưởng và xử phạt, học sinh tham gia giám sát và thực hiện nội quy thông qua tổ chức cho các em cảm thấy có trách nhiệm và thực hiện kỷ luật một cách tự giác hơn, giáo viên không cần nhắc nhở và tránh được những sự cố trong lớp học. Theo kinh nghiệm ở những trường, lớp đã tổ chức hoạt động này, nội quy do học sinh xây dựng nói chung đều có nội dung phù hợp với quy định chung của ngành và nhà trường, nhưng với ngôn ngữ của học sinh DTTS nên gần gũi với các em hơn và các em chấp nhận một cách dễ dàng và tự nguyện hơn. Không chỉ vậy, thông qua quá trình tham gia xây dựng nội quy (Nội quy trường, lớp, nội quy ký túc xá, nội quy nhà ăn…), để giúp học sinh rèn luyện cho mình khả năng bày tỏ suy nghĩ của bản thân, biết đưa ra các quyết định, phát huy tinh thần tập thể và tinh thần trách nhiệm của các em. c. Xây dựng tập thể lớp Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 17 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” Việc xây dựng một tập thể lớphọc tốt, tạo ra mối quan hệ thân thiện, cảm thông và gắn bó giữa giáo viên và học sinh trong quá trình giáo dục. Một tập thể lớp tốt là môi trường lý tưởng để trẻ học tập và phát triển nhân cách, là một tập thể hướng tới hoạt động dựa trên các giá trị như: Tôn trọng, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm, biết cách giải quyết các xung đột không bằng bạo lực… Học sinh DTTS có thể học từ một tập thể lớp tốt những bài học đạo đức qua tấm gương tốt của giáo viên và của bạn trong lớp học. Trong tập thể có, học sinh có cơ hội suy nghĩ, cảm xúc của mình về các nguyên tắc đạo đức với sự khuyến khích, cảm thông và tôn trọng của thầy cô và các bạn. Trong tập thể lớp đó không có trừng phạt thân thể và học sinh DTTS học cách giải quyết xung đột bằng cách thức không bạo lực. d. Đề xuất các biện pháp tuyên truyền giáo dục kỷ luật tích cực tới giáo viên, phụ huynh: + Tổ chức tuyên truyền vận động Tuyên truyền, vận động là một trong những biện pháp quan trọng để cán bộ quản lý giáo dục tác động đến nhận thức của giáo viên. Công tác tuyên truyền, vận động càng rộng rãi, thường xuyên bằng nhiều hình thức phong phú như treo panô, khẩu hiệu, tờ rơi sẽ giúp giáo viên thay đổi nhận thức trong thời gian sớm nhất. + Cung cấp sách báo, tài liệu: Sách báo, tài liệu là một trong những nguồn cung cấp thông tin không thể thiếu, giúp cho việc thay đổi nhận thức của giáo viên. Thông qua nguồn thông tin này, giáo viên tự học hỏi và tích lũy kinh nghiệm giao dục học sinh mà không dung hình phạt. + Tổ chức các lớp tập huấn: Các lớp tập huần, hội thảo luôn mang lại cho giáo viên những ý tưởng hay. Cánbộ quản lý giáo dục cần tổ chức các cuộc hội thảo, tập huấn để giáo viên nhận thức được mục đích việc sử dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực, giúp họ chọn lọc, sáng tạo những hình thức giáo dục phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình. + Xây dựng cơ chế khuyến khích việc thực hiện các biện pháp giáo dục tích cực Nhà trường cần có cơ chế cụ thể trong việc thực hiện các biện pháp giáo dục tích cực. Cơ chế này được xây dựng trên cơ sở thống nhất của Hội đồng sư phạm bao gồm đầy đủ các nội dung như kiểm tra giám sát việc thực hiện, khen thưởng, tôn vinh những giáo viên thực hiện tốt, kỷ luật nghiêm khắc những giáo viên vi phạm nội quy. Việc nhà trường thực hiện tốt cơ chế này sẽ đảm bảo tất cả học sinh để được hưởng lợi ích của biện pháp giáo dục tích cực. + Tuyên truyền tới phụ huynh: Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 18 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” Tổ chức tuyên truyền cho phụ huynh về GDKTTC thông qua các buổi họp phụ huynh, các buổi hội thảo, tọa đàm… Mời phụ huynh tham gia vào quá trình thực hiện. Ví dụ: Lấy ý kiến của phụ huynh đóng góp cho nội quy lớp/ trường học để phụ huynh năm được và phối hợp với nhà trường trong việc theo dõi, giám sát thực hiện. Mời phụ huynh tham gia vào các hoạt động tập thể do nhà trường, lớp tổ chức. Tuyên truyền bằng tờ rơi, áp pích… 3. Kết quả khảo nghiệm Sau khi nghiên cứu đề tài: Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số, bản thân đã vận dụng đề tài vào việc giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số trường PTDTNT THCSKrông Ana từ năm hoc 2015-2017 đã đạt kết quả về mặt hạnh kiểm qua các năm như sau: Năm TS Tổng Học Lớp Số HS HẠNH KIỂM Tốt SL % Khá SL % Ghi TB SL Yếu % SL % 2015 -2016 4 156 124 79.5 30 19,2 2 1,3 0 0 2016 - 2017 4 153 127 83,0 24 15,9 2 1,1 0 0 Chú Kết quả trên cho thấy nếu vận dụng tốt “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana”thì tỷ lệ hạnh kiểm tốt năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ hạnh kiểm khá và trung bình giảm. Điều này làm cho học sinh thích thú hơn khi đến trường và các em thực hiện rất tốt trong phong trào thi đua học tốt cụ thể trước năm học 2015 – 2016 học sinh giỏi văn hóa cấp huyện hầu như không có nếu có thì chỉ 1 - 2 emnhưng từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2016 – 2017 số học sinh giỏi văn hóa cấp huyện ngày càng cao cụ thể: Năm học 2015 – 2016 có 4 học sinh đạt học sinh giỏi văn hóa cấp huyện, có 1 học sinh đạt giải ba môn Lịch sử cấp tỉnh. Năm học 2016 – 2017 có 6 học sinh đạt học sinh giỏi văn hóa cấp huyện, có 1 học sinh đạt giải khuyến khích môn Lịch sử cấp tỉnh. Ngoài ra vận dụng tốt “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” còn giúp thầy trò gần gũi nhau hơn, thân thiện hơn. Nhằm góp phần không nhỏ vào sự hình Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 19 Kinh nghiệm “Giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh dân tộc thiểu số tại trường PTDTNT trung học cơ sở huyện Krông Ana” thành công việc thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà ngành đã đề ra trong những năm qua. C. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Để thực hiện mục tiêu này, một trong các hoạt động của đề tài là tập huấn, tuyên truyền vận động giáo viên các trường DTNT chấm dứt sử dụng các hình thức trừng phạt thân thể và tinh thần học sinh, khuyến khích áp dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật trong việc quản lý lớp học và giảng dạy hàng ngày. Qua một thời gian áp dụng tại trường, thông tin phản hồi cho thấy việc áp dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực đã mang lại những thay đổi tích cực trong nhà trường đó làgiảm thiểu các hiện tượng giáo viên mắng, trách phạt học sinh, tạo ra bầu không khí cởi mở thân thiện, cải tiến mối quan hệ thầy trò; học sinh trở nên ngoan hơn, có ý thức kỷ luật tốt hơn, dẫn tới kết quả học tập tốt hơn. Nếu thầy cô giáo nào tâm huyết thì đề tài này áp dụng được vào các trường THCS có nhiều học sinh dân tộc thiểu số. Ngoài ra nếu nghiên cứu thêm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh THCS thì đề tài sẽ áp dụng được vào các trường THCS. Trong quá trình nghiên cứu và vận dụng đề tài sẽ có bất cập, bởi vậy tôi muốn lắng nghe ý kiến đóng góp của quý thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp. Rất mong ý kiến phản hồi. 2.Kiến nghị Một sáng kiến kinh nghiệm có thể áp dụng được cho nhiều năm và cũng có thể nhiều năm mới có một sang kiến kinh nghiệm, do vậy tôi đề nghị các cấp của ngành Giáo dục và Đào tạo nên nghiên cứu và giải quyết hai vấn đề sau: + Vấn đề thứ nhất: Khi một sáng kiến kinh nghiệm có giải cao nên tổ chức thành chuyên đề để áp dụng và nhân rộng. + Vấn đề thứ hai: Khi một sáng kiến kinh nghiệm có giải cao nên tó tác giả đó miễn viết thời gian nào đó. Nếu một năm viết một sáng kiến kinh nghiệm thì hiệu quả không cao. Krông Ana, ngày 2 tháng 2 năm 2018 Người viết Võ Đại Luân Người thực hiện: Võ Đại Luân P. Hiệu trưởng trường PTDTNT THCS huyện Krông Ana 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan