Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Skkn kinh nghiệm chỉ đạo rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trung học cơ sở qua ...

Tài liệu Skkn kinh nghiệm chỉ đạo rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trung học cơ sở qua các giờ ngữ văn góp phần nâng cao chất lượng dạy học

.DOC
17
111
130

Mô tả:

I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Mục tiêu giáo dục của Đảng ta: Đào tạo con người phát triển toàn diện, con người có bản lĩnh làm chủ xã hội làm chủ tương lai. Bên cạnh đó sống ở thế kỉ XXI, chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục chứng kiến sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ thông tin. Làm thế nào để đào tạo được những con người phát triển toàn diện góp phần làm rạng danh đất nước? Trách nhiệm trước hết thuộc về những người thầy, người cô, những người đang làm công tác giáo dục. Đúng như lời nguyên Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Trần Hồng Quân đã nói: "Sản phẩm của nhà giáo gắn liền với tương lai của đất nước. Vì vậy trách nhiệm của nhà giáo là rất lớn. Mỗi giáo viên chịu trách nhiệm cụ thể về quá trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, những chủ nhân tương lai của đất nước..." Theo lí luận dạy học hiện đại thì trong quá trình dạy học phải lấy người học làm trung tâm. Vì thế học sinh cần được xác định như như một chủ thể có ý thức trong quá trình dạy văn và học văn. Người thầy phải biết tổ chức cho học sinh tiếp cận để từng bước nhận thức vấn đề, nhận thức cuộc sống, con người và xã hội. Từ đó các em tự thể hiện mình trong giao tiếp, trong tự đánh giá và đánh giá để hoàn thiện mình. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, trước hết, mỗi học sinh phải được rèn luyện tốt các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết khi còn ngồi trên nghế nhà trường. Tuy nhiên, trong thực tiễn dạy học, không phải khi nào bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cũng được giáo viên chú trọng rèn luyện và phát triển đồng thời. Thông thường, người dạy thường chú ý vào việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu các tri thức theo phân môn mà ít để tâm tới việc rèn luyện, phát triển toàn diện các kĩ năng cho học sinh. Giáo viên ít chú ý tới việc rèn luyện các kĩ năng, nghe, nói, đọc, viết trong những tình huống giao tiếp cụ thể, gần gũi với cuộc sống sinh hoạt của các em. Có khi, giáo viên quá chú trọng rèn luyện kĩ năng này mà quên hoặc ít rèn luyện kĩ năng khác, ví như trong giờ Ngữ văn, việc rèn luyện kĩ năng đọc, viết rất được lưu ý nhưng đôi khi kĩ năng nghe và kĩ năng nói lại rất mờ nhạt. 1 Thực tế cho thấy, nhiều học sinh chưa biết lắng nghe, chưa biết hoặc không tìm được cách nói tốt nhất để diễn đạt, bộc bạch những suy nghĩ, tình cảm, chính kiến của mình; không truyền đạt được chính xác thông tin về một vấn đề nào đó. Là người làm công tác quản lí giáo dục, chúng tôi thực sự trăn trở trước những thực tế vừa nêu nên đã mạnh dạn chỉ đạo giáo viên các nhà trường trên địa bàn chú trọng rèn luyện các kĩ năng nói chung và kĩ năng nói nói riêng cho học sinh THCS qua các giờ dạy - học Ngữ văn. Hoạt động này được chúng tôi tổng kết lại trong SKKN Chỉ đạo rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh Trung học cơ sở qua các giờ Ngữ văn góp phần nâng cao chất lượng dạy học 2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI Với mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông, qua việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh, chúng ta không tham vọng đào tạo những nhà hùng biện, nhưng ít ra cũng luyện cho các em học sinh diễn đạt được ý mình một cách gãy gọn và trôi chảy, có thể truyền đạt một cách tối ưu ý tưởng của mình. Đó là một trong những công cụ hữu hiệu để thành công trong cuộc sống. Bên cạnh đó, chương trình và sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn THCS đã chú trọng tới việc sắp xếp các tiết luyện nói gắn với từng kiểu văn bản được học trong chương trình. Mục đích của các giờ học này là tiếp tục rèn luyện cho học sinh kĩ năng nói trước tập thể về kiểu văn bản vừa được học và thể hiện suy nghĩ của cá nhân về những vấn đề gần gũi, thiết thực với cuộc sống hàng ngày. Ví dụ ở lớp 6, học sinh được trình bày trước tập thể bài văn kể chuyện đời thường, về cách vận dụng quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả và về bài văn miêu tả có chủ đề gắn với những sinh hoạt gần gũi. Các nội dung luyện nói này đều tập trung vào trọng tâm chương trình Tập làm văn là hai kiểu bài kể chuyện và miêu tả, nhằm tăng cường rèn luyện cho các em các kỹ năng liên quan đến việc tạo lập bài văn miêu tả, kể chuyện. 2 Tôi mạnh dạn áp dụng đề tài Chỉ đạo rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh Trung học cơ sở qua các giờ Ngữ văn góp phần nâng cao chất lượng dạy học với mục đích: Bồi dưỡng phương pháp dạy học cho đội ngũ giáo viên môn Ngữ văn trong các nhà trường THCS ở huyện Quảng Xương. Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh tiếp cận kiến thức, chúng tôi yêu cầu cao ở việc rèn luyện các kĩ năng cho học sinh trong đó có kĩ năng nói. Từ mục đích vừa nêu, mỗi giáo viên sẽ giúp học sinh biết lắng nghe và thấu hiểu, biết nói ra những điều mình nghĩ, truyền đạt đúng những thông tin muốn truyền đạt theo đúng những nguyên tắc giao tiếp cơ bản;Giúp học sinh được thực hành luyện tập trên cả 2 phương diện: văn nói và văn viết. Việc chỉ đạo rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh THCS qua các giờ dạy học ngữ văn không chỉ giúp nâng cao chất lượng dạy học các giờ luyện nói, chất lượng môn Ngữ văn mà còn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. II. PHẦN THỨ HAI : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Thực trạng vấn đề rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh THCS qua các giờ dạy - học Ngữ văn 1.1. Cơ sở lí luận Môn Ngữ văn vừa là môn khoa học, vừa là môn công cụ nên việc xác đinh phương pháp dạy học gắn với đặc trưng bộ môn và đạt được mục tiêu của môn học là việc làm hết sức cần thiết. Dạy học Ngữ văn theo quan điểm giao tiếp là một trong những định hướng quan trọng. Hiện nay nhiều nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người đọc. Nếu như nghe và đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin thì nói và viết là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin. Cả bốn kĩ năng năng này đều cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Đặc biệt, với việc dạy học gắn liền với quan điểm giao tiếp 3 như vừa nêu trên thì việc rèn luyện kĩ năng nói và viết càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Luyện nói trong nhà trường là giúp học sinh có thói quen nói trong những môi trường giao tiếp khác nhau. Trong chương trình Ngữ văn THCS, nó được thực hiện một cách hệ thống, theo những chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (lời văn, liên kết, quy tắc hội thoại, cử chỉ, điệu bộ, âm lượng...). Nói tốt sẽ giúp người học có được một công cụ giao tiếp hữu hiệu trong cuộc sống. Trong chương trình ngữ văn THCS, bên cạnh việc rèn luyện cho học sinh văn viết, vấn đề song song cùng tồn tại là rèn luyện cho học sinh văn nói. Trong thao tác tư duy của con người, có nói chuẩn, dùng từ chuẩn, câu chuẩn thì mới dẫn tới viết chuẩn, viết đúng và viết hay. Như vậy, từ nói đến viết là quá trình phải được thực hiện một cách nhuần nhuyễn. Có những học sinh mặc dù viết tốt song khi đứng trước đám đông lại nói năng lúng túng, vấn đề rời rạc, tư thế tác phong không đĩnh đạc. Xã hội càng phát triển, nhu cầu nói, thuyết trình trước một đám đông càng được chú ý. Như vậy có thể đặt ra vấn đề ở đây là cần rèn tốt cho học sinh khâu luyện nói trên lớp để tiến tới viết văn thành công. 1.2. Thưc trạng Trong nhiều năm gần đây, việc dạy và học môn Văn- Tiếng Việt trong nhà trường trung học cơ sở nói riêng và trong nhà trường phổ thông nói chung đã có những chuyển biến theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Việc đổi mới phương pháp dạy học diễn ra sôi nổi, thường xuyên ở các giờ dạy - học của những giáo viên cơ sở đứng lớp. Để khẳng định đổi mới phương pháp dạy học chính là nhấn mạnh tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập, chúng tôi luôn chú ý tới khâu tiếp nhận và vận dụng kiến thức kỹ năng bộ môn. Nếu như giờ học văn cần có chất văn, sự cảm nhận trong nhận thức tình cảm thì giờ học tiếng cần quan tâm tới việc phát triển các kỹ năng thực hành, vận dụng, kỹ năng viết đoạn và tạo lập văn bản. Đặc biệt chúng tôi cho rằng đối với một học sinh trung học cơ sở việc để tạo lập một văn bản là vấn đề phức tạp 4 và khó khăn. Chính vì vậy rất nhiều học sinh cho rằng văn học là môn trừu tượng và khó học. Tâm lí của một bộ phận giáo viên dạy Ngữ văn là ngại rèn luyện kĩ nói cho học sinh trong các giờ học nói chung và qua giờ luyện nói nói riêng. Nguyên nhân cơ bản có lẽ là do mâu thuẫn giữa thời lượng giờ luyện nói có giới hạn mà mục tiêu cần đạt thì không đơn giản. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân rất quan trọng như: học sinh chưa có kĩ năng nói trước tập thể, lớp học chưa được thiết kế và trang thiết bị chưa đáp ứng cho những giờ học kiểu đối thoại, thảo luận. Số lượng học sinh trong một lớp quá nhiều, giáo viên lúng túng khi tổ chức một giờ luyện nói, những vấn đề lí thuyết cũng như đúc kết thực tiễn về dạy kĩ năng nói trong nhà trường chưa được phổ biến rộng rãi. Chính vì thế, thực trạng rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong nhà trường THCS có những thuận lợi nhất định những cũng còn nhiều khó khăn * Thuận lợi : Vốn từ vựng của học sinh THCS là tương đối phong phú, đa dạng do các em học được từ nhà trường, từ giao tiếp xã hội. Đặc biệt, hiện nay sách báo, ti vi, Internet phổ biến rộng rãi nên các em có điều kiện học hỏi, bổ sung vào vốn từ của mình. Chính nhờ vốn từ ấy mà khả năng giao tiếp phát triển hơn theo chiều hướng tích cực. Nhu cầu và ý thức được nói, được nâng cao vốn từ của học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng đã trở thành nhu cầu tự thân. Bên cạnh đó, việc rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp cho học sinh đã và đang trở thành việc làm thường xuyên trong nhà trường và ở cả gia đình. Nhiều giáo viên đã thực sự quan tâm đến việc rèn luyện kĩ năng nói và viết cho học sinh. *Khó khăn : Tại các trường THCS ở Quảng Xương, mặc dù giáo viên xác định được là cần rèn luyện toàn diện cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh nhưng trong thực tế, nhiều khi chúng ta quá chú trọng vào việc truyền tải kiến thức, vào việc rèn luyện kĩ năng đọc và viết mà có phần sao nhãng việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói cho học sinh. 5 Học sinh ở địa bàn huyện Quảng Xương đa số đều là học sinh nông thôn, các em ít có điều kiện học tập và giao tiếp rộng rãi như các em ở thành phố nên nhiều em chưa chủ động và tự tin khi nói trước đông người. Nhiều em chưa biết cách lắng nghe, lại càng chưa biết cách làm thế nào để diễn đạt được những suy nghĩ, nhận xét, trình bày chính kiến hoặc tâm tư tình cảm của mình. - Số tiết luyện nói so với tổng thời lượng môn Ngữ văn không nhiều. Theo phân phối chương trình Ngữ văn THCS, toàn cấp học chỉ có 14 tiết luyện nói: TT Lớp Tiết theo 1 2 3 6 6 6 PPCT 29 43 69 4 6 83 5 6 84 6 7 8 9 10 6 7 7 7 7 96 40 55 56 112 11 8 42 12 8 54 13 9 65 14 Tên bài Ghi chú Luyện nói kể chuyện Luyện nói kể chuyện Hoạt động ngữ văn : Thi kể chuyện Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả Luyện nói về văn miêu tả Luyện nói: Văn biểu cảm nghĩ về sự vật, con người Luyện nói : Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học Luyện nói : Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học Luyện nói: Bài văn giải thích một vấn đề Luyện nói: Kể chuyện theo ngôi kể kết hợp với miêu tả và biểu cảm Luyện nói: Thuyết minh một thứ đồ dùng Luyện nói: Tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm 9 140 Luyện nói: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ Vì vậy, nếu giáo viên không biết lồng nghép việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong các giờ học khác và các hoạt động ngoại khoá thì mục tiêu luyện nói cho học sinh sẽ rất khó thành công - 35/42 trường trong huyện có sĩ số/lớp học đông( trung bình khoảng 40 học sinh/lớp), thời lượng một tiết học không nhiều nên khó có thể tổ chức cho tất cả học sinh được nói. Các tiết luyện nói đã ít, thời gian luyện nói lại càng co hẹp trong 45 phút và số học sinh được lên bảng trình bày bài nói là con số đếm 6 trên đầu ngón tay. Có khi một tiết luyện nói, giáo viên chỉ gọi được 2 hoặc 3 em trình bày. Những con số ít ỏi trên đòi hỏi mỗi giáo viên phải có một biện pháp khắc phục thì mới nâng cao được hiệu quả giờ dạy. Qua khảo sát xác suất về khả năng và kĩ năng nói của học sinh tại 10 đơn vị (đảm bảo về cơ cấu vùng miền, chất lượng giáo dục...) số liệu cụ thể như sau: TT 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. §¬n vÞ Sè HS ®îc kh¶o s¸t Kh¶ n¨ng vµ kÜ n¨ng nãi Trung b×nh Kh¸ SL % SL % Cha tèt SL % Tèt SL % 9 25.7 19 54.3 6 17.1 1 2.9 14 40.0 14 40.0 5 14.3 2 5.7 14 40.0 13 37.1 6 17.1 2 5.7 9 25.7 17 48.6 7 20.0 2 5.7 7 20.0 21 60.0 5 14.3 2 5.7 9 25.7 18 51.4 5 14.3 3 8.6 10 28.6 17 48.6 6 17.1 2 5.7 9 25.7 17 48.6 6 17.1 3 8.6 11 31.4 19 54.3 4 11.4 1 2.9 10 28.6 19 54.3 5 14.3 1 2.9 350 102 29.1 174 49.7 55 15.7 19 5.4 Tæng Như vậy, từ thực tế chỉ đạo công tác chuyên môn, qua dự giờ, kiểm tra tại Qu¶ng T©m Qu¶ng Hïng Qu¶ng Léc Qu¶ng Lîi Qu¶ng Ninh Qu¶ng §«ng Qu¶ng §øc Qu¶ng Hoµ Qu¶ng Väng Qu¶ng Ngäc 35 35 35 35 35 35 35 35 35 35 các nhà trường, có thể khẳng định: việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh ở các giờ dạy - học Ngữ văn chưa được quan tâm đúng mức; chất lượng các giờ dạy học luyện nói chưa cao và các giờ thực hành luyện nói sẽ rất ít hiệu quả nếu không có sự chuẩn bị chu đáo. 2. Những giải pháp Để chỉ đạo việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua các giờ dạy - học Ngữ văn tại nhà trường THCS trong huyện, tôi đã tập trung thực hiện thông qua một số giải pháp sau: 2.1. Tổ chức chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn thảo luận về những yêu cần thiết để rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua các giờ dạy - học Ngữ văn Ngay từ đầu năm học, PGD&ĐT đã mở các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học trong đó có chuyên đề Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh thông qua các giờ dạy- học Ngữ văn. Chuyên đề đã thống nhất một số những yêu cầu cơ bản để rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh. Để làm tốt việc rèn luyện và phát 7 triển kĩ năng nói cho học sinh, ngoài những yêu cầu cụ thể về nội dung của mỗi giờ luyện nói trong chương trình vẫn là rèn luyện cho học sinh tự tin khi giao tiếp, chính vì thế khi luyện nói cho học sinh cần đảm bảo những yêu cầu sau: Thứ nhất, rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh bằng nhiều nội dung và hình thức tổ chức để tránh sự gò bó và gây áp lực cho học sinh Thứ hai, đối với những giờ luyện nói theo phân phối chương trình phải tổ chức giờ học theo một tiến trình khoa học * Yêu cầu chuẩn bị: Trước mỗi tiết luyện nói, giáo viên cần cho học sinh chuẩn bị đề tài trước khoảng một tuần. Có thể giao cho các em cùng một đề tài hay chia lớp từ 4 đến 6 nhóm, mỗi nhóm một đề tài. Giáo viên hướng dẫn để học sinh xác định được nội dung, xác định được đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp và cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe. Thông thường, giáo viên yêu cầu học sinh phải chuẩn bị dàn bài, dàn bài nên ngắn gọn, nêu được các ý chính và học sinh sẽ dựa vào dàn bài để nói. Việc lập dàn bài sẽ làm cho học sinh phải nói theo những ý chính chứ không thể nhìn theo đó mà đọc. Tuy nhiên, với học sinh lớp 6 thì khó có thể nói tốt nếu thực hiện theo cách đó. Vì với trình độ của các em, các em sẽ khó diễn đạt thành nhiều ý khác nhau từ một ý chính, có chăng thì các em sẽ nói theo ý chính đó chứ không phát triển ý thêm được. Do đó, phương pháp lập dàn bài ta nên áp dụng cho đối tượng học sinh lớn hơn như lớp 8, lớp 9, còn đối với các em lớp 6 và lớp 7, ta cho phép các em được chuẩn bị bài nói theo khả năng, sau đó các em sẽ tập nói thành thạo và khi lên lớp các em sẽ nói theo sự chuẩn bị. Chắc chắn giáo viên sẽ nhận được những bài nói tương đối hơn thay vì những lời ấp úng, ngập ngừng vì không tìm được ý. Trong những quyển sách giới thiệu kỹ năng hoạt động của thanh thiếu niên, nhà biên soạn Tôn Thất Sam và Nguyễn Thị Khiết cũng đồng ý với đề xuất này trong quyển “Học sinh với kỹ năng thuyết trình và diễn đạt ý tưởng” (NXB Trẻ). Còn nếu có những học sinh kỹ năng tốt hơn, ta có thể cho các em chuẩn bị bằng cách lập dàn bài và cũng động viên các em còn lại chuẩn bị theo hướng này thì sẽ rất tốt. Vấn đề còn phụ thuộc vào đặc 8 thù của mỗi lớp, giáo viên cũng nên linh động để học sinh có thể tự tin hơn khi bắt đầu bài nói. * Yêu cầu khi tổ chức giờ học Vào giờ học, giáo viên cần cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tư thế trước khi lên nói. Có thể là cá nhân tự chuẩn bị, có thể là cho nhóm thảo luận để chọn đại diện lên nói. Giáo viên Ngữ văn nên hướng học sinh có thái độ cùng nhau hợp tác. Thời gian để thảo luận là 5 phút. Giáo viên cần xác định trọng tâm giờ học là luyện nói nên dành nhiều thời gian cho học sinh được nói. Không khí của giờ luyện nói nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài nói của mình. Để kích thích học sinh, giáo viên nên đánh giá khen ngợi, khuyến khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay sau mỗi bài nói tốt. * Yêu cầu về cách thức và tác phong Tránh đọc lại văn bản đã chuẩn bị sẵn, cũng tránh thuộc lòng văn bản; Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và thuyết phục người nghe (thể hiện cảm xúc chân thành, tự nhiên, không gò bó, áp đặt...); Tác phong tự nhiên, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy; tránh những động tác thừa. Biết chào và giới thiệu đề tài trước khi nói; biết cảm ơn khi kết thúc. Đây là những thao tác nhỏ nhưng gây được thiện cảm lớn cho người nghe. Thứ ba, việc tổ chức rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh cần được chức đồng bộ. Tổ chuyên môn cần có những buổi sinh hoạt tổ, đánh giá rút kinh nghiệm về hiệu quả và cách thức tổ chức thực hiện. 2.2. Các hình thức rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh 2.2.1. Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong tất cả các giờ Ngữ Văn, kết hợp với rèn luyện các kỹ năng khác. Giáo viên Ngữ Văn khó có thể phát triển kỹ năng nói cho học sinh nếu chỉ trông chờ vào số tiết luyện nói trong chương trình sách giáo khoa. Mặc dù sách giáo khoa đã đổi mới theo khuynh hướng quan tâm tới việc rèn luyên kỹ năng nói cho học sinh, phân phối mỗi khối lớp đề có tiết luyện nói ở cả hai học kỳ. 9 Nếu không có sự chuẩn bị ngay từ đầu năm học thì chắc chắn giáo viên sẽ gặp không ít trở ngại khi tổ chưa các giờ học. Vậy nên chú trọng việc luyện nói cho học sinh mọi lúc, mọi nơi có thể thực hiện được vì việc này không quá khó nhất là khi giáo viên Ngữ Văn thực sự muốn đạt hiệu quả trong những giờ luyện nói. Chú trọng đến việc tập nói cho HS có thể thực hiện theo những cách như : - Tạo cho các em có nhu cầu muốn nói, muốn được bộc lộ. Khi tiếp xúc với các em lần đầu tiên, giáo viên Ngữ Văn cần thiết lập tốt mối quan hệ, giúp học sinh thấy được sự gần gũi, thân tình nơi giáo viên Ngữ Văn, điều này là cơ sở giúp học sinh dễ dàng bộc lộ với giáo viên hơn trong những giờ học sau. Giáo viên có thể làm quen với các em bằng cách giới thiệu về mình, cũng là cơ sở để các em theo đó mà tự giới thiệu bản thân về những điều đơn giản như họ tên, tuổi, sở thích... Điều này không kém phần quan trọng, vì nếu làm được như vay thì giáo viên Ngữ Văn đã phần nào giúp học sinh bắt đầu tập làm quen với việc phát biểu miệng. - Phát huy kỹ năng nói trong các giờ học, kết hợp với việc rèn luyện các kỹ năng khác : Trong các tiết học, giáo viên nên chú trọng kỹ năng nói cho học sinh thông qua những lần phát biểu đóng góp xây dựng bài. Đặt những câu hỏi kích thích óc tư duy và sự phản xạ. Những câu hỏi có ích lợi nhiều nhất là những câu hỏi mà học sinh không thể trả lời một cách ngắn gọn là “ có” hay “ không” được, giáo viên nên dùng các loại vấn ngữ : Ai? Tại sao? Như thế nào? Ở đâu? Lúc nào? Cái gì?... Thực tế , nếu giáo viên đặt những câu hỏi quá khó thì học sinh khó trình bày ý kiến của mình một cách trọn vẹn được. Câu hỏi nên đi từ đơn giản đến phức tạp để tập cho các em biết suy nghĩ trước khi nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần bình tĩnh, tự tin... Giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh phát biểu suy nghĩ trong khi phát biểu và cả trong thảo luận, ngay cả khi ý kiến đó là sai hoặc chưa hoàn toàn chính xác. Bên cạnh đánh giá việc trình bày của học sinh, giáo viên cũng nên lưu ý cho học sinh những lỗi cần tránh trong nói tiếng Việt về chính âm và hướng dẫn các em nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn người nghe. 10 Theo kinh nghiệm của các giáo viên Ngữ văn, hiệu quả của việc luyện nói cho học sinh cao hơn hẳn khi giáo viên quan tâm và tạo điều kiện cho các em được tập nói trong các giờ học như trên. - Phát huy kỹ năng nói trong sinh hoạt hàng ngày: Ngoài việc chú trọng cho học sinh tập làm quen với việc trình bày miệng trong những giờ học, theo ý kiến của bản thân tôi, giáo viên cũng nên tiếp xúc với học sinh trong những lúc ngoài giờ lên lớp. Đó là những trao đổi để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các em, ngoài ra còn nhằm mục đích khác là tạo cho các em thaí độ tự tin, mạnh dạn. Trên thực tế, khi giáo viên làm được việc đó thì các em vốn rất nhút nhát và không dám trao đổi với thầy cô trong cuộc sống đã có sự thay đổi, các em dần dần bớt e ngại, rụt rè và trở nên dạn dĩ hơn, tiếp xúc với giáo viên một cách tự nhiên hơn. Thiết nghĩ, mục đích của các tiết luyện nói nhằm giúp cho các em có thể tự tin trình bày ý kiến của mình, và chúng ta tập cho học sinh sự tự tin để các em khỏi ngỡ ngàng khi bắt đầu vào tìm hiểu các giờ luyện nói. 2.2.2. Rèn luyện kĩ năng nói qua các tiết luyện nói trong chương trình Để nâng cao chất lượng các giờ luyện nói, giáo viên cần vận dụng linh hoạt các hình thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của người học, vận dụng sáng tạo lý thuyết giao tiếp vào dạy các giờ luyện nói . Giúp học sinh chuẩn bị tốt nội dung bài nói để các em hình dung được mình sẽ nói gì (xác định đề tài), nói với ai (xác định đối tượng giao tiếp). nói trong hoàn cảnh nào (xác định hoàn cảnh giao tiếp), nói như thế nào (cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe). Ví dụ: Đề bài yêu cầu: Phát biểu cảm nghĩ về cô giáo chủ nhiệm trong buổi tổng kết lớp cuối năm học. Học sinh cần xác định được nội dung là cảm nghĩ về cô giáo chủ nhiệm, xác định được đối tượng giao tiếp: thầy cô giáo và các bạn cùng lớp, hoàn cảnh giao tiếp(buổi tổng kết lớp) và cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe (nói rõ ràng, tình cảm, chân thành...) Tạo tính huống có vấn đề để học sinh có nhu cầu muốn nói, muốn bộc lộ. điều này tưởng chứng đơn giản nhưng rất khó thực hiện trong nhà trường bởi đa 11 số học sinh ngại nói, không tự tin khi nói trước đám đông mặc dù trong giờ chơi, trong cuộc sống các em nói năng rất lưu loát. Vì thế trong quá trình luyện nói , người giáo viên phải tạo ra được những tình huống giả định gần gũi với cuộc sống thường ngày của học sinh để các em có hứng thú Trong các tiết luyện nói, trên thực tế thời lượng dành cho luyện tập kỹ năng nói còn quá ít. Hầu như trong 45 phút giáo viên thường dành 20 phút cho học sinh tập viết các đoạn văn và giáo viên chỉnh sửa. Thời gian còn lại giáo viên có gọi học sinh lên nói trước lớp, cho nên học sinh làm việc và hoạt động trước tập thể còn ít. Những học sinh nông thôn tác phong chậm chạp, rụt rè kết hợp khi đứng trước đám đông, nên bài nói không thuyết phục, hiệu quả thấp. Nguyên nhân của tình trạng trên là giao tiếp hàng ngày của các em còn ít. Mặt khác, việc chuẩn bị ở nhà của các em còn sơ sài, chưa hình thành những đoạn văn cụ thể nên trình bày trước lớp còn lúng túng, rời rạc. Để khắc phục tình trạng trên và tăng cường hiệu quả rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh, chúng tôi đã chỉ đạo như sau: Vấn đề thứ nhất: Chia học sinh mỗi lớp thành những nhóm nhỏ. Mỗi nhóm khi chia cần chú ý phải có đầy đủ các đối tượng học sinh (giỏi, khá, trung bình, yếu) về môn văn. Mục đích khi chia như vậy để các em học sinh giỏi, khá có thể đôn đốc học sinh yếu kém và chỉ đạo nhóm học. Khi chia nhóm cũng cần chú ý, các em này phải cùng thôn với nhau để thuận tiện trao đổi thảo luận. Vấn đề thứ hai: trước khi đến giờ thực hành luyện nói giáo viên phải giao yêu cầu và có hướng dẫn đối với học sinh trong công tác chuẩn bị. Giao nội dung cho từng nhóm chuẩn bị ở nhà.Đây là khâu đơn giản nhưng đem lại hiệu quả rất to lớn. Nếu như một học sinh đứng trước bốn năm đề chuẩn bị ở nhà, các em sẽ nản, không muốn viết hoặc đầu tư vào từng đề có tính chất sơ sài, thậm chí có những em không ngó ngàng tới. Nhưng nếu chia nhỏ số đề và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm, có sự đôn đốc chặt chẽ của nhóm trưởng, các em sẽ tích cực hoạt động và hoạt động có hiệu quả. Vấn đề thứ ba: khi đã chia được nhóm học sinh và giao nhiệm vụ cho từng nhóm, giáo viên bộ môn hướng dẫn các nhóm trưởng điều hành việc chuẩn bị nói ở nhà. Mỗi tuần nhóm học duy trì ít nhất một buổi học ở nhà một bạn nào 12 đó.Trong buổi học đó, nhóm trưởng cần điều khiển để mỗi bạn được nói một, hai lần. Trước bốn năm bạn trong nhóm, các em sẽ có sự bình tĩnh, tự tin. Đặc biệt, có duy trì nhóm học thì vấn đề gánh giữa học sinh giỏi khá với yếu kém được nâng nên, các em đã biết nói theo đoạn và trình bày đoạn, đó là bước đầu rèn được kĩ năng nói viết trong văn bản. Khi có được sự bình tĩnh mạnh dạn, trên lớp giáo viên có thể uốn nắn cho các em những câu mở, lời kết phù hợp, những điệu bộ cử chỉ tạo sự lôi cuốn hấp dẫn người nghe. Ví dụ trong lời mở đầu bài nói bao giờ cũng có câu: " Thưa cô giáo và các bạn, tôi xin trình bày bài nói của mình", kết thúc bao giờ cũng có câu:" Xin cảm ơn cô giáo và các bạn đã chú ý lắng nghe" hoặc:" Rất mong cô giáo và các bạn sẽ bổ sung cho bài nói của tôi được hoàn chỉnh . Đối với giáo viên dạy bộ môn văn, khâu tiến hành hoạt động giờ luyện nói trên lớp phải được chuẩn bị chu đáo, kĩ lưỡng song không cầu kì hoặc mất nhiều thời gian. Giáo viên bộ môn văn có thể phát phiếu học tập cho từng nhóm trước khi đến giờ luyện nói. Khi bước vào giờ luyện nói, việc đầu tiên giáo viên cần làm là kiểm tra sự chuẩn bị của từng nhóm qua việc báo cáo của nhóm trưởng. Khi kiểm tra đánh giá giáo viên có thể cho điểm với những nhóm hoạt động tốt để khuyến khích sự hoạt động của từng nhóm. Khâu kiểm tra này diễn ra khoảng từ 3 đến 5 phút đầu giờ. Thời gian còn lại là dành cho việc học sinh thực hành nói trên lớp. Như vậy trong 45 phút một giờ luyện nói thực sự đem lại hiệu quả rất lớn cho học sinh. Giáo viên Ngữ văn nên cho học sinh ý thức được vai trò của những giờ luyện nói ngay trong tiết đầu tiên, vì các học sinh còn rất lạ lẫm với giờ học này nên giáo viên làm cho các em thấy được bên cạnh việc học những tri thức văn, tiết Việt, tập làm văn… Nhằm nâng cao kỹ năng đọc, viết tiếng Việt được thành thạo, thì việc nói cũng không kém phần quan trọng, là công cụ giao tiếp và là chìa khóa cho sự thành công của cuộc sống. Cũng nên làm cho học sinh ý thức được đây là những giờ học quan trọng bằng cách đưa ra những yêu cầu cụ thể mà các em cần phải đạt được như phải nói được theo một đề tài soạn sẵn, có sự đánh giá của giáo viên… Từ việc giáo dục đó khiến các em học sinh có động lực 13 để phấn đấu hơn trong những lần luyện nói, tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức giờ luyện nói đạt hiệu quả. 2.2.3. Rèn luyện kĩ năng nói thông qua các hoạt động ngoại khoá Vào các dịp như 20/10, 20/11,22/12, 8/3, 26/3, 19/5 ... chúng tôi đã chỉ đạo tổ khối chuyên môn tại các nhà trường THCS trong toàn huyện tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khoá văn học để học sinh được sinh hoạt tập thể, được trình bày ý tưởng và suy nghĩ của mình vừa nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, vừa tăng cường tính đoàn kết, tính tập thể trong học sinh. Nội dung những buổi ngoại khoá này có thể tổ chức rất phong phú đa dạng như Sân chơi bộ môn, Chắp cánh ước mơ, Chúng cháu làm theo lời Bác, Ngày của mẹ, Câu lạc bộ thơ... hay những đề tài gần gũi như Hình ảnh người thầy trong ca dao, tục ngữ hay Trao đổi kinh nghiệm học tập hoặc những đề tài gắn với chủ đề của giờ luyện nói đã học trên lớp. Hình thức: Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các hoạt động ngoại khoá này có thể được tổ chức bằng các hình thức như chia đội dự thi, đóng kịch, múa hát, kể chuyện, hùng biện... PHẦN THỨ BA: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 1. Kết quả: Sau hai năm chỉ đạo rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh THCS qua các giờ dạy - học ngữ văn, chúng tôi đã thu được những kết quả đáng khích lệ. 1.1. Về khả năng và kĩ năng nói của học sinh 14 Chúng tôi khảo sát 350 học sinh/10 đơn vị đã khảo sát tại phần thực trạng về kĩ năng và khả năng nói của học sinh về một chủ đề do các em tự chọn. Thời gian chuẩn bị: 15 phút. Kết quả thu được như sau: TT §¬n vÞ Sè HS ®îc kh¶o s¸t 1 Qu¶ng T©m 2 Qu¶ng Hïng 3 Qu¶ng Léc 4 Qu¶ng Lîi 5 Qu¶ng Ninh 6 Qu¶ng §«ng 7 Qu¶ng §øc 8 Qu¶ng Hoµ 9 Qu¶ng Väng 10 Qu¶ng Ngäc 35 35 35 35 35 35 35 35 35 35 Tæng Cha tèt SL % 2 5.7 2 5.7 2 5.7 0 0.0 1 2.9 1 2.9 0 0.0 0 0.0 1 2.9 2 5.7 350 11 3.1 Kh¶ n¨ng vµ kÜ n¨ng nãi Trung b×nh Kh¸ Tèt SL % SL % SL % 16 45.7 11 31.4 6 17.1 19 54.3 9 25.7 5 14.3 15 42.9 11 31.4 7 20.0 14 40.0 12 34.3 9 25.7 16 45.7 10 28.6 8 22.9 17 48.6 9 25.7 8 22.9 15 42.9 13 37.1 7 20.0 14 40.0 13 37.1 8 22.9 16 45.7 12 34.3 6 17.1 16 45.7 11 31.4 6 17.1 158 45.1 111 31.7 70 20.0 Qua khảo sát thực tế, chúng tôi thấy: Đa số các em không còn rụt rè, e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước đám đông để nói mà theo vào đó là sự dạn dĩ, tự tin, thái độ cởi mở hơn. Tinh thần đoàn kết và khả năng hoạt động theo nhóm của học sinh có nhiều tiến bộ. Kỹ năng nói của các em đã có sự tiến bộ: các em biết chào khi mở đầu và khi kết thúc, biết giới thiệu đề tài, cách nói cũng trôi chảy, gãy gọn, đúng ngữ âm, ngữ điệu có kết hợp những yếu tố phi ngôn ngữ (cử chỉ, nét mặt, thái độ…). Các em biết chọn chủ đề phù hợp với hiểu biết của mình. Bài nói có sự chuẩn bị chu đáo nên khi trình bày các em không có sự ngập ngừng, ấp úng, nội dung cũng trọn vẹn, đầy đủ. Tỷ lệ học sinh trình bày khá, tốt tăng đáng kể so với trước khi áp dụng áp dụng đề tài. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không nhiều học sinh còn rụt rè khi trình bày, lựa chọn nội dung chưa phù hợp hoặc chuẩn bị bài chưa trọn vẹn. 1.2. Chất lượng môn Ngữ văn Kết quả khảo sát chất lượng môn Ngữ văn cuối học kì II năm học 20102011 tại 42 nhà trường trong toàn huyện như sau: TT §¬n vÞ ChÊt lîng m«n Ng÷ v¨n TB Kh¸ Giái Sè HS KÐm YÕu 15 TB trë lªn SL 1 Qu¶ng Ch©u 2 Qu¶ng Thä 3 Qu¶ng Vinh 4 Qu¶ng T©m 5 Qu¶ng Phó 6 Qu¶ng C¸t 7 Qu¶ng Minh 8 Qu¶ng Hïng 9 Qu¶ng Giao 10 Qu¶ng Lưu 11 Qu¶ng Léc 12 Qu¶ng §¹i 13 Qu¶ng H¶i 14 Qu¶ng Nh©n 15 Qu¶ng Lîi 16 Qu¶ng Th¸i 17 Qu¶ng Th¹ch 18 Qu¶ng Nham 19 Ng. B¸ Ngäc 20 Qu¶ng ChÝnh 21 Qu¶ng Khª 22 Qu¶ng LÜnh 23 Qu¶ng B×nh 24 Qu¶ng Ninh 25 Qu¶ng Phong 26 ThÞ TrÊn 27 Qu¶ng T©n 28 Qu¶ng ThÞnh 29 Qu¶ng §«ng 30 Qu¶ng §Þnh 31 Qu¶ng §øc 32 Qu¶ng Yªn 33 Qu¶ng Tr¹ch 34 Qu¶ng V¨n TT §¬n vÞ 35 Qu¶ng Long 36 Qu¶ng Hoµ 37 Qu¶ng Hîp 38 Qu¶ng Phóc 39 Qu¶ng Väng 40 Qu¶ng Ngäc 41 Qu¶ng Trưêng 42 NguyÔn Du 457 367 457 350 323 468 261 276 274 493 395 357 497 380 361 501 345 655 402 439 411 202 257 247 321 150 302 305 249 270 315 285 281 263 Sè HS 269 270 237 186 348 454 349 484 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 % SL 0.0 12 0.0 10 0.0 17 0.0 8 0.0 9 0.0 10 0.0 13 0.0 14 0.0 11 0.0 14 0.0 15 0.0 9 0.0 20 0.0 13 0.0 11 0.0 8 0.0 23 0.0 25 0.0 8 0.0 14 0.0 18 0.0 8 0.0 5 0.0 15 0.0 12 0.0 3 0.0 15 0.0 9 0.0 9 0.0 9 0.0 5 0.0 11 0.0 11 0.0 7 KÐm SL % 0 0.0 0 0.0 0 0.0 0 0.0 0 0.0 0 0.0 0 0.0 0 0.0 % SL % SL % SL % 2.6 252 55.1 163 35.7 30 6.6 2.7 209 56.9 124 33.8 24 6.5 3.7 255 55.8 162 35.4 23 5.0 2.3 126 36.0 158 45.1 58 16.6 2.8 195 60.4 104 32.2 15 4.6 2.1 263 56.2 156 33.3 39 8.3 5.0 142 54.4 95 36.4 11 4.2 5.1 138 50.0 106 38.4 18 6.5 4.0 130 47.4 119 43.4 14 5.1 2.8 266 54.0 191 38.7 22 4.5 3.8 236 59.7 127 32.2 17 4.3 2.5 190 53.2 139 38.9 19 5.3 4.0 307 61.8 140 28.2 30 6.0 3.4 208 54.7 136 35.8 23 6.1 3.0 220 60.9 107 29.6 23 6.4 1.6 284 56.7 182 36.3 27 5.4 6.7 195 56.5 108 31.3 19 5.5 3.8 485 74.0 112 17.1 33 5.0 2.0 214 53.2 150 37.3 30 7.5 3.2 213 48.5 153 34.9 59 13.4 4.4 267 65.0 107 26.0 19 4.6 4.0 83 41.1 101 50.0 10 5.0 1.9 65 25.3 125 48.6 62 24.1 6.1 81 32.8 88 35.6 63 25.5 3.7 127 39.6 126 39.3 56 17.4 2.0 52 34.7 82 54.7 13 8.7 5.0 187 61.9 88 29.1 12 4.0 3.0 129 42.3 106 34.8 61 20.0 3.6 84 33.7 105 42.2 51 20.5 3.3 132 48.9 99 36.7 30 11.1 1.6 158 50.2 135 42.9 17 5.4 3.9 155 54.4 108 37.9 11 3.9 3.9 144 51.2 101 35.9 25 8.9 2.7 142 54.0 101 38.4 13 4.9 ChÊt lîng m«n Ng÷ v¨n YÕu TB Kh¸ Giái SL % SL % SL % SL % 7 2.6 130 48.3 116 43.1 16 5.9 8 3.0 134 49.6 109 40.4 19 7.0 10 4.2 120 50.6 89 37.6 18 7.6 9 4.8 89 47.8 72 38.7 16 8.6 5 1.4 185 53.2 134 38.5 24 6.9 5 1.1 177 39.0 212 46.7 60 13.2 12 3.4 210 60.2 102 29.2 25 7.2 0 0.0 29 6 245 50.6 210 43.4 16 SL 445 357 440 342 314 458 248 262 263 479 380 348 477 367 350 493 322 630 394 425 393 194 252 232 309 147 287 296 240 261 310 274 270 256 % 97.4 97.3 96.3 97.7 97.2 97.9 95.0 94.9 96.0 97.2 96.2 97.5 96.0 96.6 97.0 98.4 93.3 96.2 98.0 96.8 95.6 96.0 98.1 93.9 96.3 98.0 95.0 97.0 96.4 96.7 98.4 96.1 96.1 97.3 TB trë lªn SL % 262 97.4 262 97.0 227 95.8 177 95.2 343 98.6 449 98.9 337 96.6 484 100 Tæng 14.513 0 0 457 3.1 7408 51.0 5283 36.4 1365 9.5 14056 96.9 Chất lượng môn Ngữ văn ở các nhà trường đảm bảo bền vững. Tỷ lệ học sinh khá giỏi tăng, học sinh yếu kém giảm xuống còn 3.1%, không còn hiện tượng học sinh kém. 2. Kết luận Đồng chí Lê Duẩn đã từng nói : "Càng yêu người bao nhiêu, càng yêu nghề bây nhiêu". Đó là thông điệp đối với mỗi người đã và đang làm công tác giáo dục và nhất là đối với những người thầy giáo đang trực tiếp giảng dạy học sinh. Bởi chỉ có tình yêu thực sự thì mới có tình cảm với công việc mình làm, mới thắp sáng trong mỗi người học sinh một tình yêu, một lẽ sống, mới khơi dậy trong các em những tiềm năng chưa khai thác tạo cho các em một bản lĩnh để bước vào cuộc sống. Dòng xoáy của kinh tế thị trường đã làm cho xã hội xoay chuyển rất nhiều cả mặt tích cực và tiêu cực. Nhà trường - nơi đào tạo những con người chủ nhân tương lai của đất nước sẽ đưa họ bước vào đối diện với dòng xoáy đó. Hơn lúc nào hết bằng sự vinh quang của nghề dạy học, người thầy trao cho các em một tình yêu, một niềm tin, một tinh thần chủ động làm chủ để các em chủ động hoà nhập vững vàng vươn lên trong cuộc sống./. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan