Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Skkn khai thác tài liệu tiểu sử nguyễn ái quốc trong dạy học lịch sử việt nam gi...

Tài liệu Skkn khai thác tài liệu tiểu sử nguyễn ái quốc trong dạy học lịch sử việt nam giai đoạn 1919 – 1930, lớp 12 thpt ban cơ bản

.PDF
27
196
85

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC tr-êng thpt Yªn LẠC 2 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên SKKN: Khai thác tài liệu tiểu sử Nguyễn Ái Quốc trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1930, lớp 12 THPT- Ban cơ bản Tác giả sáng kiến: Hoàng Thuý Dịu Môn: Lịch sử Mã sáng kiến: 28.57.02 Vĩnh Phúc, năm 2020 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 MỤC LỤC S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 2 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 1. Lời giới thiệu ..................................................................................................... 4 2. Tên sáng kiến: ................................................................................................... 5 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến ............................................................................... 5 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: ............................................................................. 5 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: ................................ 6 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: ........................................................................... 6 7.1.Cơ sở lý luận của đề tài. .................................................................................. 6 7.2. Cơ sở thực tiễn. .............................................................................................. 8 7. 3. Thực trạng việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học .......... 9 7.4. Một số phương pháp khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật lịch sử. ........... 15 7.4.1 Các nguồn khai thác. .................................................................................. 15 7.5. Nội dung cần khai thác trong tài liệu tiểu sử nhân vật................................. 16 7.6. Phương pháp sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử ......... 18 8. Những thông tin cần được bảo mật ................................................................. 21 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: ................................................ 21 Thực nghiệm sư phạm. ........................................................................................ 21 9.1. Mục đích. ...................................................................................................... 21 9.2. Nội dung. ...................................................................................................... 22 9.3. Phương pháp tiến hành thực nghiệm............................................................ 22 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được .............................. 22 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử ......................... 23 Phụ lục ................................................................................................................. 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 27 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 3 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 1. Lời giới thiệu Bộ môn lịch sử có đặc trưng riêng biệt so với các môn tự nhiên cũng như so với các môn khoa học xã hội khác. Lịch sử là những việc rất cụ thể diễn ra trong quá khứ, không lặp lại nguyên si, càng không thể “tái tạo” được trong phòng thí nghiệm, bởi lịch sử gắn liền với không gian và thời gian xác định, với những con người cụ thể. Nói đến lịch sử là nói đến tính cụ thể, tính duy nhất. Do đó, trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông việc nhận thức lịch sử không bắt đầu từ trực quan sinh động mà từ việc nắm bắt các sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử. Tạo biểu tượng là giai đoạn nhận thức cảm tính của quá trình học tập lịch sử; với những tư liệu cụ thể, giàu hình ảnh, tài liệu về tiểu sử và hoạt động của nhân vật sẽ dựng lại chân dung nhân vật đó. Đồng thời giúp giáo viên cụ thể hoá kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, làm sáng tỏ sự kiện lịch sử, góp phần tạo nên một bức tranh chân thực, sinh động về một sự kiện lịch sử. “Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử”. Song khi khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân, chủ nghĩa Mác- Lênin không phủ nhận vai trò của các lãnh tụ, các nhà lãnh đạo và nhân vật kiệt xuất trong sự phát triển của xã hội. Hoạt động của các nhân vật này hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp có ý nghĩa thúc đẩy hay kìm hãm sự vận động của lịch sử trong giai đoạn nhất định. Do đó “mỗi bài học lịch sử đều phải phác hoạ cho học sinh những nhân vật lịch sử cụ thể” (7, 57). Lịch sử là sản phẩm hoạt động của con người. Trong lịch sử không thể vắng bóng con người. Hơn nữa cuộc đời hoạt động của các nhân vật lịch sử luôn phản ánh một phương diện, một mức độ nhất định của lịch sử dân tộc, của quần chúng nhân dân. Suy cho cùng, nhân vật sinh ra từ thời đại, từ dân tộc, từ một tầng lớp dân chúng cụ thể. Cho nên, việc khai thác tiểu sử nhân vật cũng cung cấp nguồn tài liệu, nguồn kiến thức quan trọng trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn lịch sử. Nó góp phần tạo biểu tượng chân thực, chính xác về nhân vật lịch sử để giúp học sinh hình thành khái niệm lịch sử. Đổi mới toàn diện phương pháp dạy học lịch sử đòi hỏi phải kết hợp đồng bộ, hiệu quả nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó, một biện pháp quan trọng là sử dụng tài liệu về tiểu sử và hoạt động của nhân vật lịch sử. Nhân vật lịch sử là người thực, việc thực nên có sức thuyết phục học sinh. Nó có tác dụng sâu sắc đến tâm tư, tình cảm, khơi dậy hứng thú, xúc cảm lịch sử, góp phần hình thành nhân cách các em. Thông qua tài liệu tiểu sử giúp các em phát triển năng lực nhận thức độc lập của mình. Mặt khác, tài liệu tiểu sử nhân vật thường gần với câu chuyện lịch sử nên dễ được học sinh tiếp nhận, say mê tìm hiểu. Nhờ đó mà hiệu quả và mục đích S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 4 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 giáo dục đạt được ở mức độ cao. Khai thác tài liệu tiểu sử nhân vật để dạy học lịch sử ở trường phổ thông là nguồn kiến thức hữu ích bổ trợ đắc lực cho SGK. Nó làm cho quá trình nhận thức của học sinh diễn ra nhanh chóng, giúp các em hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức. Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919- 1930 có vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc, phản ánh giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Quá trình vận động cách mạng ấy gắn liền với hoạt động của nhiều nhân vật tiêu biểu trong đó chúng ta thấy vai trò rất lớn của Nguyễn Ái Quốc là một con người yêu nước vĩ đại đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Người đã đến được với chủ nghĩa Mác-Lênin tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn và tích cực chuẩn bị về tư tưởng chính trị, tổ chức cho sư ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khắc hoạ chân dung của nhân vật này là phương pháp giúp học sinh cụ thể hoá sự kiện lịch sử, nhằm tái hiện quá khứ một cách chân thực nhất. Với những lí do trên tôi thấy cần thiết phải chọn đề tài này, xin được góp phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT. 2. Tên sáng kiến: Khai thác tài liệu tiểu sử Nguyễn Ái Quốc trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1930, lớp 12 THPT- Ban cơ bản 3. Tác giả sáng kiến: Người thực hiện: Hoàng Thuý Dịu. Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Yên lạc 2 – Huyện Yên lạc – Tỉnh Vĩnh Phúc. Điện thoại: 0986.903.808 Email: [email protected] 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến Hoàng Thuý Dịu Trường THPT Yên lạc 2 – Huyện Yên lạc – Tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: - Khai thác nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919- 1930 (SGK lớp 12 THPT), sử dụng tài liệu, hoạt động của nhân vật Nguyễn Ái Quốc, xác định những chi tiết trong tiểu sử có liên quan đến sự kiện lịch sử để khai thác và sử dụng. - Điều tra, quan sát thực tế ở trường phổ thông. - Đề xuất một số phương pháp sử dụng tài liệu, hoạt động của nhân vật Nguyễn Ái Quốc trong dạy học lịch sử Vịêt Nam giai đoạn 1919- 1930. - Soạn bài và tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra kết quả thực hiện. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 5 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: ngày5 /11/2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1.Cơ sở lý luận của đề tài. 7.1.1.Đặc trưng bộ môn. Lịch sử được coi là “cô giáo của cuộc sống”, là bó đuốc soi đường hướng tới tương lai. Từ việc tìm hiểu quá khứ, con người rút ra được những bài học quí báu cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Chính vì vậy, bộ môn lịch sử có vai trò quan trọng trong giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những con người toàn diện đủ Trí- Đức- Thể- Mĩ đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bộ môn lịch sử không chỉ cung cấp cho học sinh những hiểu biết sâu sắc về nhân loại, về dân tộc mình từ buổi bình minh của lịch sử đến nay mà còn góp phần hình thành phát triển nhân cách, giáo dục tình cảm, phẩm chất đạo đức và năng lực yêu nước, truyền thống dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho những chủ nhân tương lai của đất nước. Tuy nhiên, như trên đã trình bày, trong trường phổ thông, lịch sử là môn học có đặc trưng rất riêng biệt so với tất cả các môn khác. Nếu các môn KHTN như Lý, Hoá, nhà nghiên cứu trong những thời gian khác nhau có thể tạo ra các điều kiện giống nhau để thực hiện những thí nghiệm giống hệt nhau từ cách tiến hành đến kết quả thu được, thì với lịch sử không bao giờ có sự “diễn lại” nguyên si ấy. Lịch sử là cái đã qua; về nhận thức, học sinh không thể quan sát sự kiện lịch sử một cách trực tiếp; đây là một cái khó của dạy học lịch sử. Nó đòi hỏi người giáo viên phải“tạo ra ở học sinh những hình ảnh chân thực, cụ thể và sống động về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, việc khôi phục lại chân dung các nhân vật lịch sử, những hoạt động của họ trong những điều kiện lịch sử cụ thể” (7, 42). Lịch sử luôn ở trạng thái vận động, “là kết quả của con người theo đuổi những mục đích nhất định…”Do đó, cùng một sự kiện lịch sử có vô vàn ý kiến đánh giá khác nhau. Mỗi thời đại, mỗi thế hệ, mỗi giai cấp, thậm chí mỗi sử gia lại có nhìn nhận khác nhau về lịch sử khách quan. Việc lựa chọn để đưa vào sử dụng tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông là rất quan trọng. Khai thác tiểu sử nhân vật nhằm làm sáng tỏ các sự kiện lịch sử có liên quan mang ý nghĩa thiết thực đối với học sinh. Sự hoạt động của các nhân vật này phản ánh ở mức độ nhất định lịch sử của một dân tộc, của quần chúng nhân dân. Dấu vết của thời đại, hoàn cảnh đất nước, quê hương in đậm trong cuộc đời, sự nghiệp của các nhân vật tiêu biểu. Có khi, cuộc đời hoạt động cách mạng của một nhân vật lịch sử lại gắn liền với quá trình vận động cách mạng của dân tộc. VD: cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với lịch sử Việt Nam từ thể kỷ XX trở đi. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 6 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 Chính nhờ nguồn tài liệu phong phú và giàu hình ảnh như trên đã kích thích học sinh hứng thú, say mê học tập lịch sử, tái hiện được bức tranh sinh động về quá khứ, về những “người thực, việc thực” đã tồn tại. Khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật Nguyễn Ái Quốc trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 19191930, lớp 12 THPT giúp các em hình thành biểu tượng về Người: một vị lãnh tụ, một người cộng sản chân chính, một tâm hồn và trí tuệ lớn lao, một con người của những quyết định lịch sử, Người đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Bác đã chiến đấu và hy sinh cả cuộc đời, cả tuổi thanh xuân, để đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Qua chân dung của nhân vật Nguyễn Ái Quốc, giáo viên góp phần khắc sâu trong trí nhớ học sinh những sự kiện quan trọng nhất của lịch sử Việt Nam từ 1919-1930, đồng thời giáo dục tư tưởng, tình cảm thúc đẩy hành động yêu nước trong cuộc sống. 7.1.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh. Quá trình nhận thức của học sinh nói chung đều tuân theo quy luật từ nhận thức đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hiện tượng đến bản chất. Quá trình này trải qua nhiều giai đoạn theo quy luật của nhận thức: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó là con đường biện chứng của nhận thức đối với sự vật, của nhận thức đối với hiện thực khách quan” (11, 189). Nói cách khác, quá trình nhận thức đến biết và hiểu sâu sắc. Từ đó học sinh mới có thể phân tích, so sánh, đánh giá rút ra kết luận về các sự kiện lịch sử. Sử dụng tài liệu về tiểu sử nhân vật để tạo biểu tượng về nhân vật - về thực chất là giúp học sinh thực hiện tốt giai đoạn nhận thức cảm tính. Do đặc trưng của lịch sử nên nhận thức lịch sử bao giờ cũng phức tạp, con người hiển nhiên là một bộ phận không tách rời của đối tượng nghiên cứu. Học sinh nhận thức quá khứ trong bối cảnh hiện tại, vì thế, rất dễ bị rơi vào tình trạng “hiện đại hoá” lịch sử. Trong học tập lịch sử, quá trình nhận thức cũng tuân thủ quy luật chung đó là: đi từ trực quan sinh động, song do lịch sử là những cái diễn ra và không lặp lại nên không thể bắt đầu từ cảm giác và tri giác mà phải nắm các sự kiện (về kinh tế, văn hoá, chính trị…) để tạo biểu tượng lịch sử. Trên cơ sở các nguồn kiến thức, hướng dẫn của giáo viên,..học sinh có biểu tượng lịch sử cụ thể, quá khứ. Rồi từ biểu tượng mà hình thành khái niệm lịch sử. Như vậy, muốn nắm khái niệm lịch sử phải có biểu tượng lịch sử chân thực, chính xác. Rõ ràng, việc sử dụng tiểu sử nhân vật không chỉ góp phần tạo biểu tượng sinh động, chính xác mà còn giúp học sinh có cơ sở để hình thành khái niệm, cuối cùng các em biết rút ra những quy luật, bài học cần thiết, tức là nắm vững bản chất của sự kiện. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 7 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 7.2. Cơ sở thực tiễn. 7.2.1. Tình hình chung. Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học lịch sử nói riêng đã trở thành yêu cầu cấp thiết. Có nhiều ý kiến khác nhau về việc nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử, song việc thực hiện và kết quả thực hiện các phương pháp đề xuất này vẫn chưa được xác nhận rõ trong thực tế. Thực trạng của việc dạy học ở các trường phổ thông được điều tra (thể hiện trong bài viết công bố trên tạp chí như: NCGD, Báo giáo dục và thời đại….) có nhiều điều đáng cho chúng ta quan tâm. Kết hợp các tài liệu này với điều tra tại chỗ, tôi rút ra mấy kết luận chủ yếu sau: Về mặt tài liệu: SGK và SGV là nguồn tài liệu gần như duy nhất trong quá trình lên lớp, ngoài ra giáo viên và học sinh không còn là một nguồn kiến thức bổ sung nào khác. Đành rằng, SGK là tài liệu cơ bản đối với học sinh, đồng thời là tài liệu đáng tin cậy của giáo viên trong soạn, giảng bài. Song, nó chỉ nêu những kiến thức lịch sử cơ bản phù hợp với chương trình. Theo Đairi, bài giảng không được thoát ly hoàn toàn SGK, cũng không nên lặp lại. Nhưng ở các nhà trường phổ thông, phần lớn giáo viên vẫn chỉ dựa vào SGK mà chưa chú trọng vào việc mở rộng nguồn nhận thức, mở rộng các hình thức dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh. Về mặt phương pháp dạy học lịch sử: Vẫn chưa xoá bỏ cách dạy cũ: Thầy đọc, trò ghi. Nhiều GV chỉ làm nhiệm vụ của người “thông báo” nội dung SGK. Học sinh lên lớp chỉ để nghe thầy nói, ghi lại lời thầy vào vở, sau đó học thuộc và trả bài cho thầy. Rõ ràng phương pháp dạy học này không phát huy được tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh, không gây được hứng thú cần thiết cho các em trong học tập. Vì vậy, chất lượng bộ môn không cao, việc dạy học chưa đáp ứng được nhiệm vụ, yêu cầu và mục tiêu môn học. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên. Trong đó, nguyên nhân nổi bật là không ít giáo viên chưa nhận thức được tác dụng của tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập môn lịch sử, đặc biệt là tài liệu tiểu sử nhân vật. Khai thác và sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông là việc làm khá mới mẻ đối với nhiều giáo viên. Mặt khác, việc sưu tầm nguồn tài liệu này còn khó khăn, đòi hỏi đầu tư nhiều thời gian công sức. Một số giáo viên có tâm huyết với nghề đã cố gắng đưa tài liệu tham khảo vào dạy học lịch sử, trong đó có sử dụng tiểu sử nhân vật. Nhưng, họ lại thường tỏ ra lúng túng khi chọn lọc khai thác chi tiết nào trong toàn bộ tiểu sử cuộc đời và hoạt động của nhân vật để phục vụ những nội dung kiến thức cần truyền đạt cho học sinh. Tiểu sử nhân vật gồm rất nhiều chi tiết, nhưng không phải chi tiết S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 8 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 nào có tác dụng làm sáng tỏ các sự kiện lịch sử mà học sinh cần lĩnh hội. Điều này buộc giáo viên phải biết chọn lọc các chi tiết nào trong tiểu sử nhân vật vừa cụ thể, chính xác, vừa phù hợp với nội dung kiến thức giảng dạy. Mặt khác, tài liệu được lựa chọn đó phải hấp dẫn, ngắn gọn, xúc tích, đảm bảo thời gian một tiết học, chỉ diễn ra trong vòng 45 phút. 7.2.2. Tình hình học tập môn lịch sử ở trường Yên Lạc 2. Qua thực tiễn công tác tại trường THPT Yên Lạc 2, tôi nhận thấy tình trạng học sinh không hiểu rõ về lịch sử dân tộc còn khá phổ biến. Nhiều em thuộc sử Trung Quốc hơn Việt Nam, hiểu biết các nhân vật lịch sử Trung Quốc chính xác và sâu sắc hơn nhân vật lịch sử Việt Nam. Không ít học sinh có thể kể chi tiết về cuộc đời, sự nghiệp của Tào Tháo, Khổng Minh… nhưng lại không biết người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ chính là Hoàng đế Quang Trung. Thực tế “cười ra nước mắt” ấy khiến tác giả của đề tài không khỏi trăn trở, băn khoăn. Cũng có thể thông cảm cho các em vì các phương tiện thông tin đại chúng, phim ảnh, sách báo về nhân vật lịch sử Trung Quốc nhiều và hấp dẫn, thu hút được sự chú ý của học sinh. Trong khi đó, tài liệu về nhân vật lịch sử Việt Nam chưa nhiều ,chưa phổ biến. Rất nhiều học sinh xếp Đào Duy Từ vào một trong 5 Đảng viên ĐCS Việt Nam bị thực dân Pháp tử hình trong giai đoạn 1919-1945. Ở Xã Nguyệt Đức có trường THPT Phạm Công Bình nhưng qua điều tra của chúng tôi thấy có trên 50% số học sinh không biết ông là ai...Điều này đòi hỏi giáo viên lịch sử phải đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy bộ môn lịch sử để nâng cao sự hiểu biết của học sinh, dùng tài liệu tham khảo để bổ sung kiến thức cho các em, trong đó đặc biệt quam tâm tới khai thác và sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật. 7. 3. Thực trạng việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. 7.3.1 Sơ lược về đặc điểm lĩnh vực nghiên cứu. * Đặc điểm chung: Trong những năm gần đây, các tác giả trên thế giới (chủ yếu là Liên Xô trước đây và các nước XHCN) đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến việc sử dụng tài liệu tham khảo cho GV và học sinh trong quá trình dạy học. Về phương pháp dạy học bộ môn đã có một số hội nghị bàn về biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. Nhiều bài viết về chủ đề này được đăng trên các tạp chí như “Nghiên cứu lịch sử”, “Nghiên cứư giáo dục”…Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã nêu được các vấn đề lí luận và thực tiễn, biện pháp sư phạm cụ thể nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả bài học. Ở nước ngoài, vấn đề sử dụng tài liệu tham khảo trong đó có việc sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật để cụ thể hoá sự kiện kịch sử được đề cập đến S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 9 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 trong nhiều tài liệu (bài viết, sách…).Tiến sĩ khoa học Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?” đã bàn về tính đa dạng của nguồn kiến thức và sự cần thiết phải trang bị cho giờ học các phương tiện dạy học, sử dụng tài liệu tham khảo khác như một nguồn kiến thức để cụ thể hoá kiến thức trong SGK nhằm gây hứng thú cho học sinh trong giờ học. Ở Việt Nam, cuốn “Giáo dục học” của Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cũng đề cập đến việc sử dụng tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử. Các tác giả nhấn mạnh tài liệu tham khảo được sử dụng hợp lí sẽ trở thành nguồn kiến thức cần thiết để hỗ trợ làm rõ SGK. Các giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” của Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị, đề cập đến việc sử dụng tài liệu tiểu sử và hoạt động của nhân vật lịch sử với tư cách là tài liệu tham khảo, có tác dụng cụ thể hoá một số sự kiện lịch sử. Đồng thời, các tác giả cũng cho rằng tài liệu tiểu sử, hoạt động của nhân vật còn được dùng để tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử đó. Ngoài ra,việc sử dụng tài liệu tham khảo còn được nói tới trong nhiều bài viết trên các tạp chí, báo: Nghiên cứu giáo dục, Nghiên cứu lịch sử, Thông tin khoa học. Sẽ là một thiếu sót rất lớn nếu không kể đến một số sáng kiến kinh nghiệm của các đồng chí GV trong cả nước ít nhiều đã đề cập đến vấn đề sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử ở các cấp học. Đây là những tài liệu rất đáng lưu ý vì các tác giả chính là người trực tiếp giảng dạy bộ môn, là chủ thể của việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu hay một sáng kiến kinh nghiệm nào đi sâu vào việc khai thác tiểu sử và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc nhằm cụ thể hoá một số sự kiện trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919- 1930, lớp 12 THPT. Đây là nội dung sáng kiến kinh nghiệm của tôi kế thừa và góp phần phát triển đề tài quan trọng này. * Thuận lợi: Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả nhận thấy có những thuận lợi cơ bản như sau: Một là, việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử đang được Bộ GD & ĐT, Sở GD & ĐT Vĩnh Phúc, các trường phổ thông quan tâm khuyến khích bằng nhiều hình thức. Điều này tạo động lực tốt cho giáo viên tìm tòi, sáng tạo trong giảng dạy nhằm mục đích nâng cao chất lượng bộ môn. Hai là, nhiều trường phổ thông được trang bị những phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại, có thể hỗ trợ tốt việc sử dụng tài liệu tiểu sử trong dạy học. VD: máy chiếu giúp chiếu hình ảnh hoặc những thước phim đặc sắc về nhân vật… Những trường cơ sở vật chất còn thiếu thốn thì sử dụng tranh ảnh treo S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 10 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 tường kết hợp với lời kể hấp dẫn của GV hoặc học sinh (theo định hướng của GV) cũng đem lại hiệu quả cao. Nói cách khác việc sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử có thể tiến hành ở mọi trường phổ thông mà không cần yêu cầu cao về cơ sở vật chất. Ba là, trong thời đại bùng nổ thông tin, giáo viên và học sinh có rất nhiều lựa chọn về “nguồn” khai thác về tiểu sử nhân vật: qua sách, báo, đài truyền thanh, đài truyền hình, Internet.. Bốn là, tiểu sử nhân vật gần gũi với chuyện kể lịch sử, kể về những con người, sự việc có thực nên rất thuyết phục, hấp dẫn và dễ gây hứng thú đối với học sinh. * Khó khăn: Bên cạnh thuận lợi nêu trên, việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử còn có những khó khăn nổi bật sau: Thứ nhất, gần đây kết quả thi và các điều tra kiến thức của học sinh về môn lịch sử đã gióng lên một hồi chuông cảnh báo về chất lượng dạy - học bộ môn trong nhà trường phổ thông. Do đó, dư luận xã hội, các cấp ngành, các nhà trường đã có thay đổi tích cực trong quan điểm về tầm quan trọng của môn lịch sử. Tuy nhiên, nhìn chung đa số các trường đều chưa giành cho môn học này vị trí xứng đáng. Sự hỗ trợ, khuyến khích, động viên với giáo viên và học sinh vì thế mà kém thường xuyên. Thứ hai, trong các mùa tuyển sinh khối C ngày càng rơi vào tình trạng “rớt giá” vì học sinh khó chọn trường, chọn nghành lại không có những công việc hấp dẫn sau khi ra trường. Bởi vậy, tâm lí dạy- học môn lịch sử là dạy môn phụ- học môn phụ càng đè nặng lên tư tưởng giáo viên, học sinh, khiến giáo viên không muốn tìm tòi phướng pháp giảng dạy mới. Thứ ba, trong thời hiện đại các thông tin đến với mọi người qua rất nhiều “kênh” khác nhau, rất dễ dàng, tuy nhiên có mặt trái là không phải thông tin nào cũng chính xác, nhất là thông tin về nhân vật lịch sử. Nếu không có lập trường vững vàng, kiến thức chắc chắn người tiếp nhận sẽ không phân biệt được đâu là tài liệu xuyên tạc sự thật lịch sử, bôi nhọ danh dự, phủ nhận vai trò của nhân vật lịch sử vì mục đích chính trị. Do đó, nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên là phải định hướng học sinh, giúp các em biết “gạn đục khơi trong” tìm ra nguồn tài liệu tin cậy phục vụ học tập. Thứ tư, khai thác và sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử là công việc khã phức tạp đòi hỏi nhiều thời gian và công sức, tâm huyết và năng lực sư phạm của giáo viên. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 11 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 7.3.2 Một số tồn tại trong việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Khai thác tiểu sử nhân vật nhằm cụ thể hoá các sự kiện lịch sử trong dạy học. Tuy nhiên nếu không có phương pháp đúng đắn sẽ không đạt được mục đích trên, nhiều giáo viên khi sử dụng loại tài liệu này thường mắc vào hai lỗi phổ biến sau: 1. Chỉ trình bày tóm tắt về tiểu sử nhân vật như năm sinh, năm mất, quê quán, cha mẹ, gia đình… theo kiểu thông báo. VD: Khi dạy về bài “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII” ở lớp 10, giáo viên nhắc đến nhân vật “Rôbexpie(1758-1794) sinh ra ở tỉnh Arat, miền Bắc nước Pháp trong một gia đình luật sư. Ông tốt nghiệp trường Luật Pari và người đứng đầu phái Giacôbanh”. Đây là một thông báo khô khan, không có tác dụng giáo dục tư tưởng đạo đức học sinh.Với cách giới thiệu này, giáo viên chưa thể tạo cho học sinh biểu tượng về nhân vật Rôbexpie. Sau tiết học, các em quên ngay và việc nhầm lẫn Rôbexpie với nhà cách mạng Anh hay Mĩ là điều khó tránh khỏi. 2. Giáo viên kể nhiều sự việc liên quan đến nhân vật lịch sử, kể những chi tiết có thực và cả những chi tiết hư cấu chưa được xác minh. Cách sử dụng tài liệu tiểu sử như vậy thường không đạt được mục đích giáo dục mà chỉ để “mua vui”, theo lối “kể chuyện rông dài”, khiến học sinh có những hiểu biết sai lệch về nhân vật và sự kiện lịch sử. 7.3.3 Một số vấn đề đặt ra trong việc khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Khi khai thác tài liệu tiểu sử trong dạy học lịch sử nói chung, theo tôi cần lưu ý những điểm sau: 7.3.3.1 Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của nhân vật kiệt xuất trong sự phát triển của lịch sử, xã hội. 7.3.3.2 Xác định được ý nghĩa của việc khai thác và sử dụng tài liệu tiểu sử các nhân vật nhằm cụ thể hoá sự kiện trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông về các mặt giáo dục, giáo dưỡng và phát triển. 7.3.3.3 Xác định vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần kiến thức trong giảng dạy. Trong khuôn khổ của đề tài là lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1930 chương trình lớp 12 THPT .. * Về vị trí, mục tiêu: Giai đoạn 1919-1930 có vị trí rất quan trọng trong toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam. Kiến thức giai đoạn lịch sử này chỉ được dạy trong vòng 4 tiết và nằm trọn vẹn trong: phần hai- Lịch sử Việt Nam từ năm 19192000 với hai bài: S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 12 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 - Bài 12: Phong trào dân tộc và dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925. - Bài 13: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930. Giai đoạn này gồm nhiều sự kiện, diễn biến quan trọng: đó là quá trình vận động sôi nổi, phức tạp với nhiều khuynh hướng khác nhau trong phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Ngày 3-2-1930 ĐCS Việt Nam được thành lập, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc; chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo kéo dài suốt mấy thập kỉ cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối khoa học, đúng đắn đã mở ra tiền đồ tươi sáng cho sự nghiệp cách mạng nước ta. Quá trình vận động thành lập Đảng gắn liền với công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc và các nhà yêu nước lúc đó. Nắm vững kiến thức cơ bản của giai đoạn 1919-1930 tạo cơ sở để học sinh tiếp thu những kiến thức về lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến nay tốt hơn. Qua học tập lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1930 giáo dục tình cảm, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, niềm tin đối với sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời phát triển tư duy độc lập cho học sinh. Bởi vì thời kì này có những sự kiện quan trọng thể hiện sự chuyển biến to lớn của xã hội Việt Nam đưa tới những thay đổi quyết định trong phong trào giải phóng dân tộc theo con đường đúng, hợp quy luật mà Nguyễn Ái Quốc đã xác định. Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam từ năm 1919-1930. Thể hiện sự phát triển của cách mạng Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất, dẫn đến sự ra đời của ĐCS Việt Nam 3-2-1930. Những nội dung chủ yếu là: - Tiền đề khách quan của phong trào cách mạng Việt Nam từ khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Đó là sự chuyển biến sâu sắc về kinh tế, chính trị, xã hội nước ta trước tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần hai của Pháp. Tính chất của xã hội Việt Nam có sự thay đổi từ xã hội phong kiến thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến, với sự xuất hiện của nhiều tầng lớp xã hội mới. Những mâu thuẫn xã hội chồng chéo nhưng nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp và mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân lao động(chủ yếu là nông dân) với địa chủ phong kiến. - Các phong trào cách mạng dân tộc Việt Nam từ năm 1919-1930 thể hiện sự đan xen và đấu tranh giữa hai xu hướng cách mạng: xu hướng cách mạng theo con đường vô sản và xu hướng cách mạng theo con đường tư sản. Đây là nội dung chủ yếu của cuộc vận động cách mạng dân tộc Việt Nam trước khi Đảng ra đời. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 13 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 - Sự phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam dẫn đến sự ra đời của ĐCS. Đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước trong những năm 1930, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của cách mạng Việt Nam. 7.3.3.4 Nắm rõ tiêu chí lựa chọn nhân vật tiêu biểu trong dạy học lịch sử. Giai đoạn 1919-1930 trong lịch sử Việt Nam có nhiều nhân vật nhưng trong giới hạn của bài học chỉ có thể đi sâu hoặc hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu nhân vật Nguyễn Ái Quốc dựa theo các tiêu chí sau: -Thứ nhất, lựa chọn nhân vật Nguyễn Ái Quốc có cuộc đời, hoạt động gắn liền với sự kiện hoặc giai đoạn lịch sử nhất định; trên cơ sở đó, khai thác chi tiết trong tiểu sử nhân vật nhằm cụ thể hoá nội dung lịch sử dân tộc mà SGK không có điều kiện làm rõ. VD: Tiểu sử và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911- 1924 sẽ làm sáng tỏ nội dung: “Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc” trong bài 12, mục II.3. - Thứ hai, khai thác và sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật phải có ý nghĩa giáo dục và tác dụng phát triển toàn diện học sinh. Đất nước ta từ buổi đầu lập nước tới nay đã trải qua mấy nghìn năm lịch sử. Trong suốt hành trình dựng nước và giữ nước gian khổ mà rất đỗi hào hùng ấy bao thế hệ người Việt Nam đã kiên cường chống ngoại xâm, bình nổi loạn, khai sơn phá thạch, mở mang bờ cõi… làm cho đất nước ngày càng rực rỡ thắm tươi. Giai đoạn 1919-1930 là một khoảng thời gian ngắn ngủi, có thể xem như một “khoảnh khắc” nếu đem so với chiều dài dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên, thời gian này đã ghi bao chiến công anh hùng của các nhà yêu nước, các nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX, tiêu biểu là người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Khai thác tiểu sử nhân vật trong lịch sử VN giai đoạn 1919-1930 là một cách để “ôn cố tri tân”, sùng niệm tiền nhân, làm gương cho hậu thế. Đây là nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước, khí phách anh hùng…cho học sinh trong nhà trường hiện nay. Như vậy, tìm hiểu tiểu sử nhân vật Nguyễn Ái Quốc trong dạy học lịch sử giai đoạn này giúp học sinh nắm vững, hiểu sâu kiến thức, khắc phục tình trạng hiểu biết nông cạn, mơ hồ về nhân vật; khơi dậy trong các em niềm tự hào dân tộc, sự kính phục và lòng biết ơn đối với những người đã cống hiến cuộc đời cho đất nước. Từ đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của các em đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, việc tìm hiểu tiểu sử và hoạt động của nhân vật này còn góp phần phát triển tư duy độc lập cho học sinh, giúp các em có cái nhìn biện chứng, thế giới quan khoa học và thao tác tư duy độc lập. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 14 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 Đó là hai tiêu chí cơ bản nhất, ngoài ra còn có một số điểm khác cần chú ý như nhấn mạnh thêm về các nhân vật ở địa phương có liên quan; các nhân vật có hành động anh hùng… 7.4. Một số phương pháp khai thác và sử dụng tiểu sử nhân vật lịch sử trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919- 1930, lớp 12 THPT. 7.4.1 Các nguồn khai thác. Các tài liệu viết về nhân vật lịch sử vô cùng phong phú gồm cả những tác phẩm văn học, sân khấu, sử học…ở đây chủ yếu chỉ xét các tác phẩm sử học. Gồm các tài liệu: - Sách báo viết về tiểu sử, cuộc đời, chiến công của các nhân vật lịch sử. VD + “Theo gương những người cộng sản”( Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương, Nxb Thanh niên, 1969) + “Góp phần tìm hiểu một số nhân vật lịch sử Việt Nam” ( Chương Thâu, nxb Chính trị quốc gia, 2002) - Hồi ức, hồi kí của chính các nhân vật lịch sử được bản thân họ hay người khác ghi lại, như cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Những chặng đường lịch sử” ( Hữu Mai ghi, nxbChính trị quốc gia , 1994) - Ngoài ra, cũng có thể khai thác tiểu sử nhân vật qua lời kể của chính nhân vật đó thông qua các buổi tiếp xúc, tổ chức nói chuyện lịch sử, hoặc qua lời kể của người thân, bạn bè chiến đấu của nhân vật. Nguồn khai thác này đảm bảo tính chân thực cao, song khó thực hiện được. 7.4.2 Phương pháp khai thác. Nguồn khai thác tài liệu tiểu sử nhân vật phong phú vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn của giáo viên. Vì giữa rất nhiều tài liệu ấy, trong vô số chi tiết về cuộc đời, hoạt động của nhân vật, cần lựa chon chi tiết nào phù hợp nhất với mục đích, nội dung bài học. Điều đó yêu cầu giáo viên phải căn cứ vào SGK, xác định sự kiện nào cần cụ thể hoá, từ đó tìm ra chi tiết phù hợp trong tiểu sử nhân vật có liên quan mật thiết đến sự kiện đó. Khai thác tài liệu tiểu sử nhân vật cần nêu bật lên những đóng góp và cống hiến tiêu biểu của nhân vật trên phương diện nhất định của lịch sử xã hội. Để làm được điều này chúng ta có thể chia ra làm hai tuyến nhân vật sau: - Nhân vật cách mạng: Là các nhân vật có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển tiến bộ nói chung của cả một dân tộc, một nước, hay của cả nhân loại. Đó là những vị lãnh tụ phong trào nông dân, công nhân; những nhà khoa học hay những chiến sĩ dũng cảm hi sinh vì Tổ quốc…Với tuyến nhân vật này cần tập trung khai thác những hành động cách mạng. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 15 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 - Tuyến nhân vật phản cách mạng: là những nhân vật có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của lịch sử xã hội. hành động của nhân vật này thường làm chậm lại thậm chí kéo lùi sự vận động của lịch sử của một nước hay của cả nhân loại. Với tuyến nhân vật này cần tập trung khai thác vào những hành động phản cách mạng. VD: nhân vật Hitle, Mutxolini…( thế giới); Kiều Công Tiễn, Trần Ích Tắc..( Việt Nam) Ngoài ra, giáo viên và học sinh có thể chia làm nhiều nhóm nhân vật lịch sử tiêu biểu cho các lĩnh vực hoạt động, đóng góp hay ảnh hưởng của họ. VD: - Nhóm 1: Các nhân vật thuộc lĩnh vực chính trị, quân sự gắn liền với một thời đại lịch sử tiêu biểu, thuộc giai cấp thống trị. - Nhóm 2: Các lãnh tụ của phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống áp bức,bóc lột, tiêu biểu như Hồ Chí Minh. - Nhóm 3: Các nhà khoa học, phát minh, sáng chế, các danh nhân văn học nghệ thuật, các nhà tư tưởng.. Việc chia các tuyến nhân vật thành các tuyến, nhóm giúp giáo viên lựa chọn được những chi tiết trong tiểu sử nhân vật phù hợp với nội dung bài giảng, đồng thời giáo viên cũng thuận lợi hơn trong việc xác định phương pháp sử dụng tiểu sử nhân vật nhằm cụ thể hoá sự kiện. 7.5. Nội dung cần khai thác trong tài liệu tiểu sử nhân vật Nguyễn Ái Quốc để dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1930, lớp 12 ban Cơ bản. 7.5.1. Nguyễn Ái Quốc (1890- 1969). Tiểu sử, quá trình tìm đường cứu nước và sự chuyển biến trong nhận thức, hành động cách mạng. Sử dụng để cụ thể hoá các sự kiện lịch sử trong dạy bài 12, mục II.3. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc. (SGK, Tr81- 82). Nguyễn Ái Quốc, tức Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh ngày 19-5- 1890 ở làng Trù quê mẹ, cách quê nội là làng Kim Liên 2km. Cả hai làng đều thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người lớn lên trong một gia đình trí thức nghèo yêu nước, nguồn gốc nông dân. Thửơ nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đó đổi là Nguyễn Tất Thành. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự thất bại của hàng loạt phong trào yêu nước ngay trên xứ Nghệ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Nguyễn Tất Thành đau đáu trong lòng suy nghĩ phải làm gì để cứu nước. Người nhận thấy rõ - bằng tư duy sắc sảo của bản thân- những sai lầm về đường lối đấu tranh của các nhà yêu nước đương thời, Nguời quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới. Ngày 5- 6- 1911, Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng trên con tàu Latusơ Tơrevin, mở đầu cuộc hành trình mấy chục năm đầy gian lao vất vả, hiểm nguy..để đem ánh sáng chân lí cách mạng về giải phóng dân tộc mình. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 16 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 Bôn ba qua nhiều châu lục, Nguyễn Tất Thành trở thành một người lao động thực sự tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, tuy phải vất vả kiếm sống nhưng vẫn không quên mục đích chính của mình là tìm đường cứu nước. Ngày 18- 6- 1919, Nguyễn Tất Thành lúc này đổi tên là Nguyễn Ái Quốc, thay mặt người Việt Nam yêu nước sống tại Pháp gửi tới Hội nghị Vecxai bản “Yêu sách 8 điều” đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tuy bản yêu sách không được chấp nhận, nhưng đòn tấn công trực diện đó của nhà cách mạng trẻ tuổi vào bọn trùm đế quốc đã gây tiếng vang đối với nhân dân Việt Nam, Pháp và các thuộc địa của Pháp. Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản: “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Sự kiện này có ý nghĩa bước ngoặt đối với tư tưởng và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo con đường giải phóng của cách mạng Tháng Mười Nga. Tháng 12- 1920, tại Đại hội Tua, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và việc lập ĐCS Pháp. Người trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Năm 1921, Người tham gia sáng lập: “Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa” ở Pari nhằm đoàn kết các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời cũng để truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào thuộc địa.Cũng tại Pháp, Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo “Le paria”(Người cùng khổ),vạch trần chính sách áp bức bóc lột của thực dân, đế quốc.Người còn tích cực tham gia viết bài cho các báo tiến bộ: “Nhân đạo”; “Đời sống công nhân”; và cuốn sách nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp” Các bài viết về chủ nghĩa Mác- Lênin và sách báo tiến bộ khác của Nguyễn Ái Quốc đã theo chân các thuỷ thủ yêu nước hoặc các trí thức, bí mật về Việt Nam đang lúc phong trào dân tộc, dân chủ phát triển mạnh mẽ. Tháng 6 năm 1923 Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô tham dự hội nghị quốc tế nông dân (10-1923) và Đại hội V Quốc tế cộng sản. Tại các hội nghị quan trọng này Người đã trình bày những luận điểm quan trọng xung quanh vấn đề dân tộc và thuộc địa. 7.5 .2 Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc nhằm chuẩn bị về tư tưởng chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Sau thời gian học tập nghiên cứu ở Liên Xô, Người về Quảng Châu( Trung Quốc), lấy tên là Lý Thuỵ Tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam, từ đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về tưởng, chính trị và tổ chức cho sự thành lập một chính đảng vô sản. Tháng 6- 1925, Người chỉ đạo thành lập: “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”- tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 17 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 Việt Nam với cơ quan ngôn luận là báo “Thanh niên”…ra số đầu tiên ngày 216- 1925. Nguyễn Ái Quốc còn tổ chức các lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên yêu nước Việt Nam. Từ năm 1925 – 1927 Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ cách mạng Việt Nam, trang bị cho lí luận cách mạng giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân đấu tranh, hướng họ đi theo con đường cách mạng vô sản, con đường quốc tế cộng sản. Năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp thành cuốn “ Đường Kách Mệnh” trở thành kim chỉ nam cho các nhà cách mạng Việt Nam lúc đó. Những hoạt động tích cực của các nhà cách mạng Việt Nam đã tạo ra sự chín muồi của các điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1929 ở Việt Nam lần lượt xuất hiện 3 tổ chức cộng sản. Sự xuất hiện của ba tổ chức cộng sản đánh dấu bước phát triển vượt bậc của phong trào công nhân Việt Nam, là bước chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Được sự uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Cửu Long – Hương Cảng – Trung Quốc. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Người soạn thảo, đây được coi là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Từ 1930- 1969, với vai trò lãnh tụ cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam đưa cách mạng Việt Nam vượt qua bao gian nan, thác ghềnh để cập đến những bến bờ vinh quang. 7.6. Phương pháp sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12, THPT (1919- 1930). Để sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật nhằm cụ thể hoá một số sự kiện trong dạy học lịch sử, cần phải tuân thủ những yêu cầu chung của phương pháp sử dụng tài liệu tham khảo. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận dạy học lịch sử và tìm hiểu thực tiễn việc giảng dạy lịch sử ở trường PT, tôi xin được đề xuất một số biện pháp sử dụng tài liệu tiểu sử nhân vật cho bài giảng nội khoá và ngoại khoá như sau: 7.6.1. Trong giờ nội khóa. a. Đối với những bài, mục có nội dung gắn liền với nội dung một nhân vật lịch sử (VD: bài 12, mục II.3. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc) phải khắc hoạ cho học sinh những nét quan trọng về tiểu sử nhân vật đó, giúp học sinh nắm rõ những kiến thức cơ bản của mục, bài. Các nhân vật này, thường là lãnh tụ cách mạng, điển hình như Hồ Chí Minh… giáo viên có thể sử dụng kết cấu chung như sau: Ngày tháng năm sinh và mất. Đôi nét về quê hương, gia đình, hoàn cảnh xuất thân. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 18 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 Đặc điểm hình dáng tính cách. Những hoạt động chính (nội dung chủ yếu). Ảnh hưởng của nhân vật với sự kiện được nói tới. Vài nét đánh giá và nhận xét về nhân vật. Tuy nhiên , kết cấu trên không phải là sơ đồ bất biến mà chỉ là đề xuất có tính chất tham khảo. Tuỳ theo yêu cầu của chương trình và nội dung quá trình lịch sử, giáo viên có thể gia công sư phạm tích hợp cho từng bài, từng chương, từng nhân vật cụ thể. VD: khi dạy bài 12, mục II.3, giáo viên yêu cầu học sinh: Em hãy lí giải vì sao Bác Hồ khi tìm đường cứu nước lại không sang các nước phương Đông mà lại chọn con đường đi tới các nước phưong Tây? Rõ ràng, để trả lời được câu hỏi này, học sinh cần nắm được bối cảnh lịch sử lúc đó tác động như thế nào đến suy nghĩ và hành động của người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành. Hay, nói cách khác, giáo viên phải gợi ý, hướng dẫn học sinh khai thác tiếu sử Bác Hồ về các điểm: Quê hương. Gia đình, hoàn cảnh xuất thân. Con người (ý chí, suy nghĩ, hành động). Dùng bản đồ thế giới, giáo viên hướng dẫn học sinh phác qua hành trình của Nguyễn Tất Thành từ 1911- 1919. sau đó tập trung vào những hoạt động tích cực của Người từ 1919- 1925. Qua đó, giúp học sinh thấy được sự khó khăn, vất vả, hiểm nguy mà Bác đã phải đương đầu trên con đường tìm kiếm chân lí cách mạng. Không có loại nhân vật duy nhất, có cùng một vai trò lịch sử, không có yêu cầu chung cho bài học lịch sử. Các nhân vật lịch sử vốn đa dạng, phong phú về tính cách, phẩm chất, cống hiến…do đó, phương pháp sử dụng tiểu sử nhân vật cũng phong phú, tuỳ thuộc vào sự sáng tạo của giáo viên. Có thể dẫn ra hai biện pháp phổ biến sau: Một là, khi trình bày sự kiện liên quan đến nhân vật lịc sử, giáo viên lược thuật về nhân vật lịch sử rồi đưa ra nhận xét, kết luận đánh giá. Hai là, giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị sẵn nội dung tiểu sử nhân vật cần sử dụng (theo gợi ý của giáo viên). Trong giờ học, giáo viên gọi một em trình bày, sau đó giáo viên sửa chữa, hoàn thiện các chi tiết cần thiết. Cuối cùng giáo viên đưa ra câu hỏi cho cả lớp: - Em có nhận xét gì về nhân vật? - Hành động của nhân vật có ảnh hưởng gì tới sự kiện lịch sử và đất nước? Học sinh trả lời được các câu hỏi chứng tỏ các em đã nắm được kiến thưc cơ bản của bài.Qua việc sử dụng tiểu sử nhân vật sẽ gây được xúc động mạnh mẽ trong học sinh S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 19 Hoµng Thuý DÞu Tr-êng THPT Yªn L¹c 2 Hạn chế của biện pháp này: Có thể mất khá nhiều thời gian vì kết hợp đàm thoại với học sinh.Nhưng bù lại học sinh hứng thú, say mêvới bài học, hiểu rõ về nhân vật và sự kiện.Biện pháp này đồi hỏi cả giáo viên và học sinh đều phải đọc trước tài liệu tham khảo, nghiên cứư trước về nhân vật và sự kiện, do đó sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh. b. Đối với những nhân vật mà tên tuổi gắn liền với một chiến công hay sự kiện nổi bật nhất định thì khi khai thác tiểu sử nhân vật ấy chỉ cần chú trọng đến chi tiết liên quan đến sự kiện mà không trình bày đến toàn bộ tiểu sử nhân vật. VD: khi dạy bài 12, mục II.1, giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày lướt qua tiểu sử Phạm Hồng Thái từ khi chào đời đến năm 1924, sau đó, tập trung vào các hành động trong vụ mưu sát Meclanh. Có thể định hướng cho học sinh tìm hiểu về các vấn đề sau: -Vì sao Phạm Hồng Thái và các đồng chí của mình quyết định ám sát viên toàn quyền Méclanh? - Phạm Hồng Thái đã chuẩn bị việc này như thế nào? - Diễn biến của vụ mưu sát ra sao? - Kết quả của vụ mưu sát? Sau cùng giáo viên và học sinh sẽ giải quyết 2 câu hỏi quan trọng: Em có nhận xét gì về tấm gương chiến đấu hi sinh của liệt sĩ Phạm Hồng Thái? - Sự thất bại của vụ mưu sát phản ánh tình trạng cách mạng Việt Nam lúc đó như thế nào? Phương pháp trên, đã khơi dậy trong học sinh lòng khâm phục, sự dũng cảm và khí tiết cách mạng của người thanh niên trẻ Phạm Hồng Thái. Mặt khác, các em cũng thấy được tính phiêu lưu, mạo hiểm của hành động ám sát cá nhân và sự bế tắc trong hoạt động cứu nước của thanh niên Việt Nam trước khi có ĐCS. c. Đối với những nhân vật có cống hiến trên lĩnh vực kinh tế, chỉ cần tập trung vào các chi tiết tiểu sử có liên quan đến hoạt động kinh tế của họ. Một điểm cần lưu ý là: trong một bài có thể nhắc đến một số nhân vật cùng nhóm (cùng hoạt động và cùng đóng góp trên lĩnh vực) nhưng thời gian mỗi tiết học chỉ có 45 phút nên giáo viên phải lựa chọn nhân vật tiêu biểu nhất để giới thiệu. Với những nhân vật vì điều kiện thời gian, không thể tìm hiểu trên lớp được, giáo viên có thể hướng dẫn các em tự tìm hiểu, sưu tầm và viết bài thu hoạch dưới hình thúc bài tập nhằm tập dượt các em làm quen với công tác nghiên cứu khoa học và mở rộng nguồn kiến thức. Để đảm bảo tính chính xác, có hình ảnh về nhân vật, trong khi sử dụng tài liệu về tiểu sử nên kết hợp với ảnh chân dung, ảnh hoạt động hoặc những thước phim ngắn về nhân vật, sau đó có thể nêu những khía cạnh nội dung tranh ảnh. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan