Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa...

Tài liệu Skkn khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho hs trường thpt gia viễn c

.DOC
38
472
61

Mô tả:

Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C MỤC LỤC TT A B I 1 1.1 1.2 1.3 2 II 1 2 3 C 1 2 * * * NỘI DUNG Đặt vấn đề Giải quyết vấn đề Cơ sở nghiên cứu Cơ sở lý luận Phân loại và các khái niệm Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học nói chung, dạy học lịch sử địa phương nói riêng Các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn huyện Gia Viễn – tỉnh Ninh Bình Cơ sở thực tiễn Nội dung nghiên cứu Các bước giáo dục di sản văn hóa cho học sinh trường THPT Gia Viễn C Kết quả thực hiện nội dung giáo dục di sản văn hóa thông qua hoạt động ngoại khóa của học sinh trường THPT Gia Viễn C Giáo dục di sản văn hóa cho học sinh trường THPT Gia Viễn C thông qua tiết dạy Lịch sử địa phương lớp 11: “Di tích lịch sử - văn hóa ở Ninh Bình” Kết thúc vấn đề Kết luận và ý nghĩa quan trọng nhất của đề tài Những kiến nghị làm tăng tính khả thi của đề tài Lời cảm ơn Tài liệu tham khảo Phụ lục TRANG 2 5 5 5 5 6 6 7 9 9 10 24 27 27 28 29 30 31 A/ ĐẶT VẤN ĐỀ: I/ Lý do chọn đề tài: Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 1 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C Xu thế hội nhập quốc tế ngày nay đòi hỏi các dân tộc phải lưu giữ những giá trị tốt đẹp về vật chất và tinh thần của đời sống xã hội loài người. Chính vì thế, cho đến nay, hàng loạt các công trình kiến trúc, danh lam thắng cảnh có giá trị đã và đang được xem xét, công nhận là di sản văn hóa từ cấp địa phương, cấp tỉnh, cấp quốc gia cho đến quốc tế. Những mặt trái của xã hội thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khiến cho chúng ta cần phải có được trạng thái cân bằng, sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Có thể là như vậy nên trong sách lược phát triển kinh tế năm 2014 của các địa phương luôn luôn có một đề tài đáng chú ý là: “Di sản văn hóa với hội nhập và phát triển”. Ngay trong tháng 01 năm 2013, Bộ Giáo dục và đào tạo đã phối hợp với Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch có công văn số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL về việc hướng dẫn sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm GDTX nhằm góp phần giáo dục toàn diện học sinh, giữ gìn và phát huy giá trị của di sản văn hóa vì lợi ích của toàn xã hội và truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong hướng dẫn này, Bộ đã chỉ rõ việc lồng ghép nội dung dạy học di sản văn hóa vào các môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông (nội khóa hoặc ngoại khóa). Trong những năm gần đây, học sinh ngày càng xa rời với bộ môn lịch sử. Việc học sinh nắm bắt được lịch sử đất nước còn rất hạn chế, chứ chưa nói gì đến việc hiểu được lịch sử của địa phương mình. Thực trạng hiểu biết lịch sử của học sinh như vậy thật đáng báo động: “Một thế hệ mà không thông hiểu được lịch sử của dân tộc, của địa phương mình thì không biết tương lai đất nước sẽ đi về đâu” (Giáo sư Trần Văn Giầu). Thực tế kết quả học sinh đăng kí môn thi tốt nghiệp năm học 2013 - 2014 đối với môn Lịch sử là quá thấp đã phần nào chứng minh điều đó. Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành nên lịch sử dân tộc, vì vậy việc hiểu lịch sử địa phương góp phần hiểu sâu sắc hơn lịch sử dân tộc. Giáo dục địa phương hiệu quả sẽ bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Hoạt động lồng ghép giáo dục di sản văn hóa vào dạy học lịch sử địa phương, đặc biệt là các di sản văn hóa ở nơi học sinh sinh sống sẽ khiến cho bài giảng lịch sử được sinh động, gần gũi và lôi cuốn học sinh hơn. Cho đến nay, việc thực hiện công tác giảng dạy lịch sử địa phương ở các trường còn gặp nhiều khó khăn và hiệu quả đạt được chưa cao. Có thể kể đến một số nguyên nhân như: Nguồn tư liệu về địa phương ở cấp huyện, xã, thôn còn ít hoặc thiếu thiết bị, dụng cụ hỗ trợ giảng dạy lịch sử địa phương như bản đồ, ảnh tư liệu, sa bàn minh họa, băng hình tư liệu... nên khi dạy đến các tiết học này, gần như học sinh chỉ được học chay, cộng với trí tưởng tượng về những gì đã được tiếp cận ở địa phương mình; Mặt khác, với thời lượng chỉ 1 đến 2 tiết trong một năm học đối với 1 khối lớp nên có khi nội dung giảng dạy này còn bị xem nhẹ, hoặc coi như là bài học ngoại khóa. Trong khi mỗi địa phương đều có những lượng di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) rất phong phú được cấp địa phương (huyện, tỉnh) và cấp nhà nước, thậm chí cấp thế giới công nhận. Thực trạng này dẫn Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 2 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C đến hậu quả nghiêm trọng là nhiều người ngoại quốc, người địa phương khác còn am hiểu về tỉnh Ninh Bình hơn cả cư dân bản địa do du lịch đang trở thành một xu thế phát triển mạnh mẽ trong nước và trên thế giới. Sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông hiện nay đang trở thành một giải pháp mới và hiệu quả nhằm khắc phục những hạn chế do các giải pháp dạy học cũ đã làm. Tuy nhiên, việc đưa di sản văn hóa vào dạy học lịch sử địa phương là một giải pháp hoàn toàn mới mà trước đó chưa từng được đặt ra nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học nội dung giáo dục địa phương nói riêng và dạy học môn Lịch sử nói chung. Việc định hướng học sinh vào tìm hiểu những di sản văn hóa ở địa phương sẽ giúp các em cảm thấy bài học lịch sử gắn bó hơn với cuộc sống ở xung quanh các em. Qua đó, sẽ bồi dưỡng học sinh tình cảm tự hào với những giá trị văn hóa truyền thống do ông cha để lại, càng thêm yêu quê hương, yêu đất nước mình hơn. Và trên hết, các em sẽ tự nảy sinh ý thức trách nhiệm đối với việc bảo tồn di sản văn hóa, cũng như kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp từ ngàn xưa trong lịch sử quê hương, đất nước. II/ Mục đích nghiên cứu: Thông qua những kiến thức cơ bản về khai thác và sử dụng di sản trong các tiết dạy lịch sử địa phương và bằng một bài dạy cụ thể là bài “Di tích lịch sử - văn hóa ở Ninh Bình” – (Lịch sử lớp 11) giúp giáo viên có nhận thức và hướng đi tích cực khi soạn giảng các bài dạy về nội dung giáo dục địa phương. Thông qua hoạt động ngoại khóa về di sản văn hóa: Bổ sung, cung cấp thêm nguồn tư liệu có giá trị về di tích lịch sử - văn hóa ở địa phương huyện Gia Viễn trong tình trạng nguồn tư liệu này đang hết sức ít ỏi nhằm phục vụ cho việc dạy học di sản ở THPT. Học sinh hứng thú hơn khi được tham gia chuẩn bị cho tiết học lịch sử địa phương bằng các kiến thức và nguồn tư liệu mà các em có thể tự sưu tầm hoặc tiếp cận được và thích thú với các hoạt động học về lịch sử địa phương. Giúp học sinh nâng cao kỹ năng thực hành môn lịch sử, khả năng tư duy gắn lý thuyết với thực tiễn, “học đi đôi với hành”. Trên cơ sở đó hình thành thái độ hứng thú, say mê của các em đối với môn học này cũng như góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách của các em một cách toàn diện. III/ Nhiệm vụ nghiên cứu: - Hệ thống, thu thập, sưu tầm và xử lý thông tin những nguồn tư liệu quý báu về di tích lịch sử - văn hóa nhằm khắc phục hạn chế về nguồn tư liệu lịch sử địa phương. - Các phương pháp nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả một số di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng cấp tỉnh, cấp quốc gia ở các xã thuộc huyện ở trong các giờ học lịch sử ở THPT. IV/ Đối tượng nghiên cứu: Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 3 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C Hoạt động của học sinh lớp 11 trường THPT Gia Viễn C trong một tiết học lịch sử địa phương (ở trên lớp và quá trình học của các ở nhà trước và sau tiết học) và hoạt động ngoại khóa của học sinh nhà trường cả ba khối lớp 10, 11, 12. V/ Phạm vi nghiên cứu: Chương trình Lịch sử THPT phần giáo dục địa phương lớp 11. Cụ thể là bài “Di tích lịch sử - văn hóa ở Ninh Bình”. Nội dung ngoại khóa tìm hiểu lịch sử địa phương huyện Gia Viễn, cụ thể ở các xã là nơi học sinh trường THPT Gia Viễn C sinh sống (6 xã: Gia Sinh, Gia Lạc, Gia Minh, Gia Phong, Gia Trung và Gia Tiến) trên địa bàn huyện Gia Viễn. VI/ Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp liên hệ, so sánh - Phương pháp khảo sát, thực nghiệm, điền dã - Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát. B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I/ CƠ SỞ NGHIÊN CỨU 1/ Cơ sở lý luận: Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 4 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C 1.1/ Phân loại và các khái niệm: - Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. - Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: + Tiếng nói, chữ viết; + Ngữ văn dân gian; + Nghệ thuật trình diễn dân gian; + Tập quán xã hội và tín ngưỡng; + Lễ hội truyền thống; + Nghề thủ công truyền thống; + Tri thức dân gian. - Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. + Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. + Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa học. + Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. + Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên. + Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học. - Phân loại và xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa: + Phân loại: Di tích lịch sử - văn hóa chia làm 4 loại là Di tích lịch sử (lưu niệm sự kiện, lưu niệm danh nhân; Di tích kiến trúc nghệ thuật; Di tích khảo cổ; Danh lam thắng cảnh. + Di tích lịch sử - văn hóa được xếp thành 3 hạng là di tích cấp tỉnh, di tích cấp quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt. 1.2/ Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học nói chung, dạy học lịch sử địa phương nói riêng Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 5 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan quý giá trong dạy học nói riêng, giáo dục nói chung. Vì vậy, sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông có ý nghĩa như sau: - Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh - Giúp học sinh phát triển kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức - Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh - Phát triển trí tuệ của học sinh - Giáo dục nhân cách học sinh + Giáo dục tình cảm yêu mến, tự hào về địa phương mình, trân trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương. + Giáo dục ý thức trách nhiệm trong việc phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, kế tục sự nghiệp của cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương. + Giáo dục ý thức trách nhiệm của HS đối với các di sản văn hóa, lịch sử của địa phương. - Góp phần phát triển một số kĩ năng sống ở học sinh: + Kĩ năng giao tiếp + Kĩ năng lắng nghe tích cực + Kĩ năng trình bày suy nghĩ ý tưởng + Kĩ năng hợp tác + Kĩ năng tư duy phê phán + Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm + Kĩ năng đặt mục tiêu + Kĩ năng quản lí thời gian + Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin - Tạo điều kiện tổ chức quá trình hoạt động của giáo viên và học sinh một cách hợp lí. 1.3/ Các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn huyện Gia Viễn – tỉnh Ninh Bình: Gia Viễn là vùng đất cổ có bề dày lịch sử và giàu truyền thống văn hóa. Huyện Gia Viễn có nhiều di tích lịch sử - văn hóa đã được xếp hạng như: 1.3.1/ Những di tích - văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia: STT Tên gọi Địa điểm Ghi chú 1 Đền Thánh Nguyễn Xã Gia Tiến và Gia Thắng 2 Chùa và động Địch Lộng Xã Gia Thanh 3 Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng Xã Gia Phương 4 Động Hoa Lư Xã Gia Hưng 5 Núi chùa Bái Đính Xã Gia Sinh 6 Đình Trùng Hạ Xã Gia Tân 7 Đình Trùng Thượng Xã Gia Tân 8 Chùa Lỗi Sơn Xã Gia Phong 9 Chùa Lạc Khoái Xã Gia Lạc Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 6 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C 10 11 12 13 Nhà thờ và mộ Nguyễn Bặc Xã Gia Phương Nhà thờ Đinh Huy Đạo Xã Gia Phong Khu vực núi Kiếm Lĩnh Xã Gia Tiến Đình Vân Thị Xã Gia Tân 1.3.2/ Những di tích - văn hóa được xếp hạng cấp tỉnh: 18 STT Tên gọi Địa điểm Ghi chú 1 Đình và chùa Giá Thượng Xã Gia Hòa 2 Chùa Phúc Hưng và núi Hang Toàn Xã Gia Minh 3 Chùa Hưng Quốc Xã Gia Hưng 4 Chùa Linh Viên Xã Gia Hưng 5 Đình Đông Khê Xã Gia Trung 6 Đình, đền chùa Tập Ninh Xã Gia Vân 7 Đền Thượng Xã Gia Phú 8 Đình Núi Thiện Xã Gia Tân 9 Đền làng Đoan Bình Xã Gia Phú 10 Đình Trai Xã Gia Hưng 11 Đền và chùa Me Thị trấn Me 12 Đền Vò làng Lỗi Sơn Xã Gia Phong 13 Đình làng Đồng Xuân Xã Gia Xuân 14 Đình và chùa Liên Huy Xã Gia Thịnh 15 Đình Kính Chúc Xã Gia Phú 16 Đình thôn Ngô Đồng Xã Gia Phú 17 Nhà thờ Lê Khả Lãng Xã Gia Vân 18 Đình Vũ Nhì làng Vũ Nhì Xã Gia Trấn 2/ Cơ sở thực tiễn: Đặc điểm giáo dục di sản trường THPT Gia Viễn C: - Địa điểm trường THPT Gia Viễn C: Xóm 1 - thôn Lương Sơn - xã Gia Sinh huyện Gia Viễn - tỉnh Ninh Bình. Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 7 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C Trường THPT Gia Viễn C trên địa bàn huyện Gia Viễn - Đối tượng học sinh của trường THPT Gia Viễn C: bao gồm học sinh có hộ khẩu thường trú tại 6 xã trên địa bàn huyện Gia Viễn, thuộc khu vực hai bên bờ sông Hoàng Long là các xã: Gia Sinh, Gia Lạc, Gia Minh, Gia Phong, Gia Trung và Gia Tiến. Trong đó, đa số học sinh thuộc các xã Gia Sinh, Gia Lạc, Gia Minh, Gia Phong. Còn lại, các em ở 2 xã còn lại chiếm số lượng ít hơn (do ở vùng tả ngạn sông Hoàng Long, giao thông đi lại khó khăn nên nhiều học sinh ở Gia Trung, Gia Tiến còn học ở trường THPT Gia Viễn A, THPT Gia Viễn B và Trung tâm GDTX Gia Viễn). Phần lớn học sinh ở các lớp đều có khả năng thu thập, tìm kiếm tư liệu (tư liệu sử, tranh ảnh) thông qua hoạt động thực tế, trải nghiệm ở các di tích gần khu vực nơi cư trú. - Về phương tiện dạy học: nhà trường đã lắp đặt mạng Internet ở các phòng tổ, cung cấp đầy đủ máy tính, phòng học có hệ thống máy chiếu phục vụ tốt cho việc tìm kiếm, xử lý nguồn tư liệu và tiến hành bài giảng trên lớp. Với hy vọng lồng ghép nội dung dạy học di sản văn hóa thông qua việc khai thác, sử dụng một số di tích lịch sử - văn hóa ở địa phương sẽ phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, từ đó góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, nên tôi đã chọn đề tài “Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C”. Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 8 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C II/ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1/ Các bước giáo dục di sản văn hóa cho học sinh trường THPT Gia Viễn C: - Bước 1: Giáo viên phải xây dựng kế hoạch giáo dục, soạn giáo án chi tiết, tỉ mỉ dựa trên các tài liệu Hướng dẫn dạy học lịch sử Ninh Bình, tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Ninh Bình... - Bước 2: Lập bảng hệ thống về các di sản văn hóa được sử dụng trong bài giảng nội khóa hoặc bài học ngoại khóa. Một số di tích lịch sử - văn hóa được chọn lọc để giáo dục di sản trong lịch sử địa phương cho học sinh trường THPT Gia Viễn C: Căn cứ vào những di tích - văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh trên địa bàn huyện Gia Viễn ở trên và dựa vào cơ sở thực tiễn của nhà trường, có thể thống kê được 9 di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia và cấp tỉnh thuộc địa phương nơi sinh sống, gần gũi với học sinh trường THPT Gia Viễn C. Cụ thể như sau: TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Tên gọi Đền Thánh Nguyễn Núi chùa Bái Đính Chùa Lỗi Sơn Chùa Lạc Khoái Nhà thờ Đinh Huy Đạo Khu vực núi Kiếm Lĩnh Chùa Phúc Hưng và núi Hang Toàn Đình Đông Khê Đền Vò làng Lỗi Sơn Địa điểm Xã Gia Tiến và Gia Thắng Xã Gia Sinh Xã Gia Phong Xã Gia Lạc Xã Gia Phong Xã Gia Tiến Xã Gia Minh Xã Gia Trung Xã Gia Phong Ghi chú Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh - Bước 3: Trên cơ sở lựa chọn những di sản gắn liền với địa điểm học sinh cư trú, giáo viên phân công học sinh tìm hiểu, sưu tầm, thu thập các nguồn tư liệu có liên quan. Nguyên tắc lựa chọn để nghiên cứu một số di tích lịch sử - văn hóa: + Là một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, gần gũi với đối tượng giảng dạy ở trường THPT Gia Viễn C trên địa bàn huyện Gia Viễn. + Các di tích này khi được đưa vào giảng dạy trong bài lịch sử địa phương Ninh Bình: Bên cạnh di tích tiêu biểu của huyện Gia Viễn, học sinh cần được giới thiệu những di tích tiêu biểu của cả tỉnh Ninh Bình. Vì vậy, số lượng di tích của huyện Gia Viễn không được lựa chọn quá nhiều (chỉ lựa chọn khoảng 2-3 di tích tiêu biểu nhất, có thể là Núi chùa Bái Đính; Đền Thánh Nguyễn). + Với bài học ngoại khóa tìm hiểu về di sản văn hóa địa phương học sinh sinh sống: Không giới hạn số lượng di tích lịch sử - văn hóa, mà có thể tìm hiểu về cả 9 di tích như bảng thống kê như trên. Cần động viên, khích lệ học sinh tham gia hoạt động theo nhóm từng xã. Cụ thể: Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 9 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C Ghi chú (Khoảng cách với trường THPT Gia Viễn C) 1 Gia Sinh Núi chùa Bái Đính 2km Đền Thánh Nguyễn 5 km 2 Gia Tiến Khu vực núi Kiếm Lĩnh 5 km Chùa Lỗi Sơn 3 km 3 Gia Phong Nhà thờ Đinh Huy Đạo 2 km Đền Vò làng Lỗi Sơn 3 km 4 Gia Lạc Chùa Lạc Khoái 1,5 km 5 Gia Trung Đình Đông Khê 2 km 6 Gia Minh Chùa Phúc Hưng 11 km - Bước 4: Thiết kế bài giảng, hoàn thiện hồ sơ dạy học hoàn chỉnh dựa trên kết quả đã thu thập được và xử lý hợp lý các nguồn thông tin tư liệu. - Bước 5: Giáo viên và học sinh cùng tiến hành nội dung bài học trên lớp. - Bước 6: Tổ chức các hoạt động về nhà của học sinh: Liên hệ thực tiễn (suy nghĩ và hành động) của học sinh về di sản văn hóa của địa phương mình. Nhóm Đơn vị xã Di tích lịch sử - văn hóa 2/ Kết quả thực hiện nội dung giáo dục di sản văn hóa thông qua hoạt động ngoại khóa của học sinh trường THPT Gia Viễn C. Với nội dung ngoại khóa: Khai thác nguồn tư liệu một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu của huyện Gia Viễn – tỉnh Ninh Bình nơi học sinh cư trú và hoạt động chia học sinh thành các nhóm theo đơn vị từng xã. Bằng các phương tiện khai thác tư liệu tự có trên nhiều kênh thông tin khác nhau, các nhóm học sinh đã có kết quả về tư liệu sử và tranh ảnh minh họa về các di tích lịch sử - văn hóa địa phương mình. Cụ thể như sau: 2.1/ Đền Thánh Nguyễn - Xã Gia Tiến và Gia Thắng Từ xưa, người dân Gia Viễn có câu: “Đại Hữu sinh vương, Điềm Dương (Giang) sinh thánh”. Đại Hữu là quê hương của Vua Đinh Tiên Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn), còn Điềm Dương (Điềm Giang, nay thuộc xã Gia Tiến và Gia Thắng, Gia Viễn) là quê hương của Nguyễn Minh Không - vị Quốc sư đời Lý. Câu phương ngôn này thể hiện niềm tự hào của người dân nơi đây về vùng đất “địa linh nhân kiệt” quê hương mình. Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 10 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C Đền Thánh Nguyễn Đền Thánh Nguyễn ở phía bắc trong không gian Hoa Lư tứ trấn Đền Thánh Nguyễn là một ngôi đền cổ thuộc làng Điềm, phủ Tràng An nay là hai xã Gia Thắng, Gia Tiến huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Theo sử sách cũ nói về việc lập Kinh đô nhà Đinh, lúc đầu Đinh Bộ Lĩnh “Chọn được chỗ đất đẹp ở Đàm Thôn (Gia Thắng, Gia Tiến ngày nay), muốn xây dựng Đô ở đó, nhưng vì thế đất chật hẹp lại không có lợi về việc đặ hiểm nên vẫn đóng đô ở Hoa Lư”. Chính vùng đất Đàm thôn (hay gọi là Điềm) ấy có Nguyễn Minh Không, là danh nhân được sinh ra trên đất này. Đền được xây dựng trên nền ngôi chùa có tên là Viên Quang do Nguyễn Minh Không lập vào năm 1121. Khi ông mất, nhân dân Đàm Xá biến chùa Viên Quang thành đền thờ Thánh Nguyễn. Đền Thánh Nguyễn được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia tháng 2 năm 1989. Về kiến trúc: Đền quay hướng nam, song song với đường Vua Đinh hướng về cố đô Hoa Lư nên được xem như là một di tích thuộc Hoa Lư tứ trấn. Đền nằm trên mảnh đất dài 100m rộng hơn 40m, tổng thể công trình kiến trúc khá quy mô, được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Vào đền đi theo hai lối Đông Tây thấy có hai cột cờ hai bên vút cao. Đầu tiên là Vọng Lâu. Bên hồi của Vọng Lâu có cây đèn đá, cao hơn một mét, biểu tượng cái đèn của Nguyễn Minh Không ngày xưa ngồi thắp Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 11 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C sáng để ngồi thiền tịnh. Huyền thoại kể rằng, cây đèn tự nhiên mọc lên, Nguyễn Minh Không thường đêm đêm ngồi bên cây đèn. Các loài chim, loài thú về chầu xung quanh, ánh sáng cây đèn chiếu sáng đến tầng mây trên không. Chính vì thế nhân dân tôn hiệu ông là Minh Không và từ đó trở đi tục gọi thiền sư là Minh Không. Đền có 4 toà làm theo kiểu tiền nhất, hậu công. Năm gian tiền đường làm theo kiểu chồng rường, hồi có mái đại, trụ non xà đuôi chuột, các cặp xà dọc, xà ngang, xà nách, được bám vào cột chắc khoẻ như những ngấn mộng chính xác kín kít, phân bổ ở vị trí không để ảnh hưởng tới sự chịu tải của cột. Gian giữa trên cao ở phía ngoài có cuốn thư chạm khắc bốn chữ Hán Thiên khái Thánh sinh (trời sinh ra Thánh). Bên trong để đồ tế khí, có hai chiếc trống rất quý hiếm, mặt trống đường kính 1,4 m. Trong cùng là chính tẩm gồm 5 gian, thờ Nguyễn Minh Không và cha mẹ ông. Phía sau chính tẩm là gác chuông hai tầng, tám mái, cũng toàn bằng gỗ lim. Gác chuông đây treo một quả chuông nặng hơn 1 tấn, cao 1,60 m. Quanh đền có nhiều cây cổ thụ tán là xanh tươi và những cây cảnh điểm trang cho đền, tạo thành một bức tranh phong cảnh làng quê thâm nghiên, tĩnh mịch. Về nhân vật: Đức Thánh Nguyễn Minh Không sinh ngày 15 tháng 10 (10651141), tên tự là Chí Thành. Năm 11 tuổi Ngài xuất gia, thụ giáo đạo Phật với Từ Đạo Hạnh (?-1117) là bậc cao tăng nổi tiếng lúc bấy giờ. Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 12 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C Sau khi mất ông được tôn hiệu là Lý Quốc Sư, tên gọi này để chỉ ông là một cao tăng có chức vị đứng đầu của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Vì có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân mà ông cùng với Trần Hưng Đạo sau này là những nhân vật lịch sử có thật được người Việt tôn sùng là đức Thánh Nguyễn, đức Thánh Trần. Trong dân gian, Nguyễn Minh Không còn được coi là một vị Thánh trong tứ bất tử ở Việt Nam và ông tổ nghề đúc đồng. Quốc sư Nguyễn Minh Không là con người mang ánh xạ của thời đại nhà Lý. Ông đã học hỏi, sưu tầm những kiến thức y học dân gian, hàng ngày tìm thuốc trong vườn Sinh Dược mà trở thành danh y, chữa bệnh lạ cho Vua, sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ông khó công tầm sư học đạo, để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng An ra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng tăng ni trong nước, danh vọng và đạo pháp đạt đến đỉnh cao. Hành trạng của ông thể hiện nên cái không khí của Phật Giáo thời Lý thần bí, kỳ dị, đầy rẫy sự hoang đường nhưng đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết lý, văn học, kiến trúc, mỹ thuật, kỹ nghệ… làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá Việt sau này. Tại quê hương Ninh Bình rất nhiều đền thờ đức Thánh Nguyễn khác. Trong số đó phải kể đến đền thờ Thánh Nguyễn ở khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính là nơi ông đã phát hiện ra các động và biến chúng thành chùa khi đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Tại chùa Địch Lộng ở huyện Gia Viễn, nơi được mệnh danh là “Nam thiện đệ tam động”, tức động đẹp thứ 3 của trời Nam cũng có đền thờ và tượng của ông. Khu di tích động Hoa Lư thì phối thờ tượng ông cùng với tượng vua Đinh Tiên Hoàng trong ngôi đền cổ. Lý Quốc Sư còn được thờ ở đình Ngô Đồng, xã Gia Phú, Gia Viễn và đền thờ Tô Hiến Thành dưới chấn núi Cắm Gươm ở bên sông Hoàng Long, chùa Nhất Trụ và động Am Tiên ở cố đô Hoa Lư. Tại đền Thượng xã Khánh Phú và đền Tam Thánh ở xã Khánh An, Yên Khánh ông được suy tôn là đức Thánh cả. Lễ hội đền Thánh Nguyễn diễn ra từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 3 âm lịch. Đây là dịp nhân dân địa phương tri ân đức Thánh Nguyễn Minh Không, người con của đất Gia Viễn. Lễ hội chính được tổ chức 5 năm một lần hoặc 10 năm một lần (tuỳ theo điều kiện kinh tế); lễ hội còn được tổ chức hàng năm vào dịp tháng Giêng. Trong phần lễ chính có tục rước nước từ sông Hoàng Long về đền; tế lục khúc, tế nam quan, nữ quan… phần hội có tổ chức các trò chơi dân gian kéo co, cờ 32 quân, chọi gà, thi bóng chuyền, bóng đá. 2.2/ Núi chùa Bái Đính - Xã Gia Sinh Chùa nằm ở cửa ngõ phía tây khu di tích cố đô Hoa Lư, bên quốc lộ 38B, thuộc xã Gia Sinh – Gia Viễn – Ninh Bình, cách thành phố Ninh Bình 15 km, cách Hà Nội Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 13 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C 95 km. Khu Chùa cổ được khởi lập năm 1136. Người sáng lập là Thiền sư Nguyễn Minh Không, Tước hiệu là Lý Quốc Sư (1065 - 1141). Tam quan chùa Bái Đính cổ trên đỉnh Non Thần Chùa Bái Đính cổ (Bái Đính cổ tự) nằm cách điện Tam Thế của khu chùa mới khoảng 800 m về phía đông nam men theo sườn núi Đính. Khu chùa này nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh, gồm có một nhà tiền đường ở giữa, rẽ sang bên phải là hang sáng thờ Phật, rồi đến đền thờ thần Cao Sơn ở sát cuối cửa sau của hang sáng; rẽ sang bên trái là đền thờ thánh Nguyễn rồi đến động tối thờ mẫu và tiên. Nơi đây nằm ở vùng đất hội tụ đầy đủ yếu tố nhân kiệt theo quan niệm dân gian Việt Nam, đó là đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần. Năm 1997 chùa được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa - cách mạng cấp quốc gia. Mặc dù khu chùa có lịch sử hình thành từ thời Đinh với đền thờ Cao Sơn trấn tây Hoa Lư tứ trấn nhưng chùa Bái Đính cổ có nhiều chi tiết kiến trúc và cổ vật mang dấu ấn đậm nét của thời Lý. Tượng Phật trong hang động ở khu chùa cổ Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 14 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C Đền thờ thánh Nguyễn Về kiến trúc: bao gồm Hang sáng, động tối Lên thăm hang động ở núi Bái Đính phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng tam quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc là tới ngã ba: bên phải là hang sáng thờ Phật và Thần, bên trái là động tối thờ Mẫu và Tiên. Phía trên cửa hang sáng có 4 chữ đại tự "Minh Đỉnh Danh Lam" khắc trên đá do Lê Thánh Tông ban tặng có nghĩa là: “Lưu danh thơm cảnh đẹp”. Động dài 25m, rộng 15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng phẳng. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối hang sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Nếu đi tiếp xuống các bậc đá sẽ đến đền thờ thần Cao Sơn. Quay trở lại ngã ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới động Tối. Động Tối lớn hơn hang Sáng, gồm 7 buồng, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hóa ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng. Trong động tối có giếng ngọc tạo thành do nước lạnh từ trần động rơi xuống. Các vị Tiên được thờ ở nhiều ngách trong động. Đền thờ Thánh Nguyễn Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không là người sáng lập chùa Bái Đính. Ông là một thiền sư, pháp sư tài danh được vua phong Quốc sư và nhân dân tôn sùng gọi là đức thánh Nguyễn. Khu vực núi Đính nằm cách quê hương đức thánh Nguyễn Minh Không 4 km. Tương truyền khi ông đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông đã phát hiện ra các hang động đẹp liền dựng chùa thờ Phật và tạo dựng một vườn thuốc quý để chữa bệnh cho dân. Đền thánh Nguyễn nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng. Đền thờ thần Cao Sơn Đi hết hang sáng có một lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây sưa là đền thờ thần Cao Sơn, vị thần cai quản vùng núi Vũ Lâm. Đinh Bộ Lĩnh từ thưở còn hàn vi Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 15 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C đã được mẹ đưa vào sống cạnh đền sơn thần trong động. Khi xây dựng kinh đô Hoa Lư, Đinh Tiên Hoàng Đế cũng cho xây dựng 3 ngôi đền để thờ các vị thần trấn giữ ở 3 vòng thành mà dân gian gọi là Hoa Lư tứ trấn. Theo đó, thần Thiên Tôn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Đông, thần Quý Minh trấn giữ cửa ngõ vào thành Nam và thần Cao Sơn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Tây. Ngôi đền thần Cao Sơn hiện tại được tu tạo có kiến trúc gần giống với đền Thánh Nguyễn, cũng xây tựa lưng vào núi, có hành lang ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là một trong 50 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ. Đền thờ chính của thần ở Phụng Hóa (Nho Quan, Ninh Bình). Vị thần này có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía Nam kinh thành, một trong Thăng Long tứ trấn. Theo như thần phả của đền núi Hầu (xã Yên Thắng, Yên Mô, Ninh Bình) thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập đền thờ. Thần Cao Sơn cùng với thần Thiên Tôn và thần Quý Minh là ba vị thần trấn ngự ở ba cửa ngõ phía tây, đông và nam của cố đô Hoa Lư. Giếng ngọc Giếng ngọc của chùa Bái Đính cổ nằm gần chân núi Bái Đính. Tương truyền đây là nơi thiền sư Nguyễn Minh Không đã lấy nước để sắc thuốc chữa bệnh cho dân và chữa bệnh cho Vua Lý Thần Tông. Giếng xây lại hình mặt nguyệt, rất rộng, có đường kính 30 m, độ sâu của nước là 6 m, không bao giờ cạn nước. Miệng giếng xây lan can đá. Khu đất xung quanh giếng hình vuông, có diện tích 6.000 m², 4 góc là 4 lầu bát giác. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Ngôi chùa có giếng lớn nhất Việt Nam”, ngày 12 tháng 12 năm 2007. Sự kiện lịch sử có liên quan: Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 16 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C Núi chùa Bái Đính chính là nơi Đinh Tiên Hoàng Đế lập đàn tế trời cầu mưa thuận gió hòa, sau này tiếp tục được vua Quang Trung chọn để làm lễ tế cờ động viên quân sĩ trước khi ra Thăng Long đại phá quân Thanh. Thế kỷ XVI núi Đính là địa bàn tranh chấp giữa 2 tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh với nhà Mạc, khi mà chính quyền nhà Mạc chỉ kiểm soát được vùng lãnh thổ từ Ninh Bình trở ra. Núi chùa Bái Đính cũng là một di tích cách mạng thuộc chiến khu Quỳnh Lưu, nơi lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên truyền cách mạng tới nhân dân. Lễ hội chùa Bái Đính: Lễ hội chùa Bái Đính là một lễ hội xuân, diễn ra từ chiều ngày mùng 1 tết, khai mạc ngày mùng 6 tết và kéo dài đến hết tháng 3, khởi đầu cho những lễ hội hành hương về vùng đất cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Ngoài thời gian trên trong năm, du khách chỉ có thể vãn cảnh chùa mà không được thăm thú các hoạt động văn hóa của lễ hội. Lễ hội chùa Bái Đính gồm 2 phần. Phần lễ gồm các nghi thức thắp hương thờ Phật, tưởng nhớ công đức Thánh Nguyễn Minh Không, lễ tế thần Cao Sơn và chầu thánh Mẫu Thượng Ngàn. Lễ hội chùa Bái Đính bắt đầu bằng nghi thức rước kiệu mang bài vị thờ Thần Cao Sơn, Đức Thánh Nguyễn và Bà chúa Thượng Ngàn từ khu chùa cổ ra khu chùa mới để tiến hành phần hội. Phần hội chùa Bái Đính gồm có các trò chơi dân gian, thăm thú hang động, vãn cảnh chùa, thưởng thức nghệ thuật hát Chèo, Xẩm đất Cố đô. Phần sân khấu hóa thường do Nhà hát Chèo Ninh Bình đảm nhiệm có tái hiện lễ đăng đàn xã tắc của Đinh Tiên Hoàng Đế và lễ tế cờ của Vua Quang Trung trên núi Đính trước giờ xung trận. Từ năm 2003, khu chùa Bái Đính mới được khởi công xây dựng ngay bên cạnh khu vực núi chùa Bái Đính cổ đã biến nơi đây trở thành khu trung tâm tâm linh về Phật giáo nổi tiếng được cả nước và thế giới biết đến. Đại lễ Phật đản Vesak 2014 tại Chùa Bái Đính 2.3/ Chùa Lạc Khoái - Xã Gia Lạc Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 17 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C Chùa Lạc Khoái nằm trên thôn Lạc Khoái, xã Gia Lạc, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Chùa nằm ở đầu làng. Cấu trúc của chùa được xây dựng theo lối kiến trúc cổ. Lối kiến trúc này có ý nghĩa và giá trị lớn đối với các nhà nghiên cứu sử học, văn hóa, mỹ thuật, hội họa….. Chùa Lạc Khoái – Gia Lạc – Gia Viễn Năm 1999, chùa Lạc Khoái được Bộ Văn hóa cấp bằng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia Về kiến trúc: Chùa có hai ngôi là chùa Thượng và chùa Hạ. Chùa Thượng Chùa được xây dựng giữa lưng chừng núi Bảng, tạo dáng như cỗ ngai. Chùa kiến trúc kiểu chữ Đinh : Tiền đường 5 gian, tam bảo 2 gian. Tiền đường làm kiểu chồng giường, bẩy kẻ. Chùa có chuông cao 90 cm, đường kính 50 cm, đúc năm Mậu Tý (1888). Chuông được trạm khắc tứ linh, cùng nhiều họa tiết mền mại. Trước cửa chùa có bức nghinh phong còn gọi là Tắc Môn. Nếu đứng quay nhìn vào chùa thì gian giáp đốc phía tay phải là gian đặt bệ thờ tượng Đức Ông. Phía tay trái ở gian giáp đốc đặt bệ thờ tượng Đức Thánh Hiền. Hệ thống tượng pháp trong chùa rất đa dạng và phong phú. Đáng chú ý có hai pho tượng là tượng Phật Bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt và tượng phật Quan Âm Thị Kính rất đẹp. Giữa tòa tam bảo chùa Thượng có một bát hương đá hình bát giác (8 mặt) theo phương vị hậu thiên bát quái. Chùa Hạ Chùa nằm ở chân núi Bảng, trong lòng tay ngai. Từ chùa Hạ có 99 bậc đá lên chùa Thượng, tạo nên tổng thể công trình hài hòa với cảnh quan hấp dẫn. Chùa Hạ xây dựng trước chùa Thượng 10 năm. Chùa Hạ được xây dựng vào năm Kỷ Mùi (1859). Chùa thờ Phật và Tam vị Thánh Mẫu (tiền phật, hậu thánh). Về lễ hội: hàng năm được tổ chức vào 2 ngày mùng sáu và mùng bảy tháng giêng. Khi tổ chức lễ hội thì nhà chùa, chính quyền và nhân dân địa phương là 3 chủ thể không thể thiếu và quan trọng ngang nhau. Nhà chùa trọng trách phần lễ. Dân xã Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 18 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C trọng trách phần hội (rước kiệu, phục vụ việc lễ, tổ chức các trò chơi…). Chính quyền phân công các công việc cho từng đoàn thể, cá nhân, đảm bảo an ninh trật tự… Hội chùa mở trước hội đình. Phần lễ là nghi thức tưởng nhớ công đức của Phật và Thánh. Được tổ chức bằng các hình thức rước kiệu và tế. Lễ hội có tục thắp nến vào bát thả xuống giếng chùa cầu cho mưa, nắng thuận hòa, cầu được phong đăng hòa cốc, mùa màng bội thu. Hội chùa còn có tục tống thuyền rồng. Thuyền được làm bằng hàng mã, khá lớn. Các nhà sư và hội tế, tay cầm hương, tay cầm cành phan hoặc gậy tích truợng đi quanh thuyền hành lễ. Hệ thống tượng pháp chùa Hạ khá đa dạng và phong phú. Ngoài tượng Phật và tượng Tam tòa Thánh mẫu, còn nhiều tượng khác. Đặc biệt có tòa Cửu Long. Tòa này tạc 9 con rồng uốn lượn tạo nên vòm trời và ở giữa là hình tượng phật Thích Ca lúc sơ sinh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất “thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn”. Chín con rồng đang phun nước rất sinh động. Sự kiện lịch sử có liên quan: Trong kháng chiến chống Pháp, chùa Lạc Khoái là nơi làm việc sơ tán của nhà tài chính, tỉnh đội, ủy ban kháng chiến tỉnh Ninh Bình và trường cấp 3 Hoa Lư. Trong kháng chiến chống Mỹ, trường cấp I, cấp II đều học ở chùa. 2.4/ Nhà thờ Đinh Huy Đạo – Xã Gia Phong Đinh Huy Đạo, một nho sĩ yêu nước thời Tây Sơn. Công lao của ông đối với cuộc chiến chống quân Thanh là rất lớn và được chính vua Quang Trung, Cảnh Thịnh ghi nhận. Nhà thờ Đinh Huy Đạo và tượng thờ Đinh Huy Đạo tại xã Gia Phong – Gia Viễn – Ninh Bình Ông sinh năm Đinh Tỵ (1737) trong gia đình nhà nho nghèo tại làng Ngọc Động, tổng Lê Xá nay là làng Ngọc Động, xã Gia Phong, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 19 Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, học giỏi. Năm 1753, ông đỗ Sinh đồ (Tú tài), năm 1756 đỗ Hương cống (Cử nhân), năm 1767, đỗ Tam trường, được bổ Huấn đạo phủ Hà Trung (Thanh Hoá), năm 1773 được thăng Tri huyện Thần Khê (Thái Bình), đến năm 1780, lại được thăng lên Hữu công bộ thị lang. Cuối năm 1786, Nguyễn Huệ kéo đại binh ra Bắc lật đổ nhà Trịnh, đinh Huy Đạo được vua Cảnh Hưng triệu vời ra kinh đô phong Trung Tín Bá tước. Cuối năm 1788, quân Tây Sơn đồn trú ở Thăng Long rút lui chiến lược về lập phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn, tránh đòn tấn công mãnh liệt của 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh. Đinh Huy đạo đã có mặt cùng tham gia thiết lập phòng tuyến quân sự chiến lược này của quân Tây Sơn. Ông là người trực tiếp trình bày với Ngô Văn Sở, Ngô Thì Ngâm Và thực hiện kế sách dẫn 2000 quân vào phủ dụ Cai Giá đang tập trung quân dân các huyện vùng Nho Quan, Gia Viễn, Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Lạc Sơn, Lạc Thuỷ để phò Lê, chống “giặc Cỏ” (chỉ quân Tây Sơn) về theo hàng quân Tây Sơn. Theo gia phả họ Đinh ở thôn Ngọc Động khi vua Quang Trung xuất quân ra đánh đuổi giặc Mãn Thanh, đại quân kéo đến Tam Điệp, Đinh Huy Đạo đã được nhà vua vời đến bản doanh để hỏi kế sách phá giặc. Đinh Huy Đạo đã tâu trình kế sách phá giặc Mãn Thanh, được nhà vua khen ngợi. Đất nước thanh bình, Đinh Huy Đạo được vua Quang Trung ban phong chức Quốc tử trợ giáo, trực tiếp dạy 2 Hoàng tử. Ngày 17 – 6 năm Quang Trung thứ 3, tức ngày 28-7-1790, ông lại được vua Quang Trung Thăng chức Cẩn Sự tá lang, Hàn lâm Viện hiệu thảo, tước Viễn Mưu bá hạ ban, đến ngày 2-8-1791, ông lại được vua Quang trung ban khen” Có lòng trung thành hết sức với nước, lại có học hành” và được gia phong Thượng thư Bộ Công. Khi tuổi đã cao, Đinh Huy Đạo mắc chứng ưu phiền. Vua Quang Trung đã ban tặng ông “viên ngọc giải phiền” khi anh em Quang Trung bất hoà, ông đã dâng sớ can ngăn Vua Quang Trung chẳng may mất đột ngột, ông vô cùng đau xót, đã viết bài văn tế. Bài văn tế này hiện được ghi chép trong sách “ Tiền đạo di cảo “ ( Di cảo của đời trước), được lưu giữ tại nhà thờ họ Đinh ở thôn Ngọc Động. Dưới thời vua Cảnh Thịnh, Đinh Huy Đạo vẫn được trọng dụng. Năm Cảnh Thịnh thứ 2 (1794), ông được thăng lên Quang lộc Thượng đại phu, Bí thư thự trực học sĩ, Viễn mưu hầu. Vua Cảnh Thịnh còn ban khen ông là “ Kẻ túc nho đất Bắc, bậc thạc vọng trời Nam, đứng đầu 4 vị quan to ở cung Thái tử”. Năm Kỷ Mùi (1799), Đinh Huy Đạo mất, hưởng thọ 63 tuổi: Vua Cảnh Thịnh cho em là Quang Thuỳ về tế thầy học tại quê. Trong bài tế điếu có câu: “Nhớ Tiên sinh xưa, tính tình ngay thẳng, đạo đức nhân từ, sớm chăm lo công việc lớn. Gió mây nhẹ bước chốn đan trì, học rông tài cao, tài giảng…”. Ngày 2 – 8 – 1999, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận nhà thờ Đinh Huy Đạo ở xã Gia Phong – Gia Viễn – Ninh Bình là di tích lịch sử, chính là sự ghi nhận tài đức, công lao to lớn đó của Đinh Huy Đạo. Hoàng Thị Thủy – THPT Gia Viễn C 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất