1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết
Toán học là một trong những khoa học cổ nhất của loài người, là đỉnh cao trí tuệ của con người. Charles Darwin đã từng nhận định về vai trò to lớn của toán học: "Mọi phát kiến của nhân loại đều có bàn tay hướng dẫn của Toán học, bởi vì chúng ta không thể có một người chỉ đường nào khác". Nhận định ấy đã được minh chứng bằng tầm quan trọng của toán học trong suốt chiều dài lịch sử. Nhưng chưa bao giờ toán học phát triển mạnh mẽ và có nhiều ứng dụng sâu sắc như ngày nay. Ở thời đại chúng ta, những phát minh mới mẻ của toán học xuất hiện hàng ngày, rất nhiều ngành mới ra đời, nhiều quan niệm cũ bị đảo lộn, nhiều cuộc cải cách đã diễn ra tạo nên những cuộc cách mạng đổi mới toàn diện. Thật không quá khi nói Toán học đang thay đổi cả thế giới hay nói cả thế giới đang vận động theo nhịp xoay của toán học. Toán học không chỉ ứng dụng trong lĩnh vực thiên văn, vật lý, triết học mà còn xâm nhập vào hoá học, sinh học và nhiều ngành khoa học xã hội khác nữa. Toán học ngày càng có ứng dụng sâu sắc và rộng rãi. Môn Toán là công cụ cần thiết để học các môn học khác. Học sinh không thể học tốt các môn học tự nhiên nếu thiếu đi nền tảng toán học. Môn Toán có khả năng giáo dục to lớn trong việc rèn luyện khả năng suy nghĩ, suy luận lôgic, thao tác tư duy cần thiết để nhận thức thế giới hiện thực như: trừu tượng hoá, khái quát hoá… Trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đang diễn ra rất sôi nổi với tốc độ phát triển rất nhanh và quy mô rất lớn, đòi hỏi một nguồn lớn nhân lực có tri thức cao. Mà tất cả các ngành khoa học đều có sự tác động của bàn tay toán học nên toán học có tác dụng vô cùng to lớn với thực tiễn và khoa học. Mặt khác, trách nhiệm của ngành giáo dục là phải đào tạo ra những con người lao động mới đáp ứng những nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Một nền tảng tốt sẽ là động lực cho sự phát triển bền vững và lâu dài. Môn Toán cũng như các môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những tri thức về thế giới xung quanh, nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người.
Môn Toán ở Tiểu học là môn học độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học của trẻ. Môn Toán được dạy liền mạch thành hệ thống xuyên suốt trong chương trình ở Tiểu học và được chia thành các mảng kiến thức như: số và phép tính; đo lường; hình học; giải toán với các dạng bài toán cơ bản, điển hình… Trong đó, giải toán với các dạng bài toán điển hình chiếm vị trí vô cùng quan trọng của môn Toán Tiểu học bởi đây là dạng toán mang tính cơ bản, thiết thực và được lồng ghép, đan xen ở hầu hết các mạch kiến thức trong chương trình học toán của học sinh. Trong môn Toán lớp 4, nội dung dạy học giải toán các bài toán điển hình được sắp xếp hợp lí, đan xen phù hợp với quá trình học tập các mạch số học, hình học, đại lượng và đo đại lượng của học sinh. Nội dung các dạng toán điển hình trong Toán 4 có “chất liệu” phong phú, gắn với thực tiễn và có hình thức thể hiện phong phú, đa dạng, hấp dẫn học sinh, chẳng hạn: Có dạng bài toán phản ánh một số mối quan hệ số học như: “Tìm số trung bình cộng của nhiều số”, “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”, “Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó”; có dạng bài toán bổ sung tiếp nối từ lớp 3 như bài toán “Tìm phân số của một số”…..
Các kiến thức về giải toán có lời văn là cầu nối giữa kiến thức nhà trường và thực tế. Việc học sinh tiếp thu các kiến thức về giải toán có lời văn trong nhà trường sẽ giúp học sinh vận dụng để tính toán trong thực tế hàng ngày và là cơ sở để các em tiếp tục học toán ở các lớp cao hơn. Dạy học giải toán có lời văn mà các dạng toán điển hình phần lớn tập trung ở lớp 4 có vai trò quan trọng trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng lực giải toán tốt, phát triển tư duy trìu tượng, khả năng phân tích tổng hợp, phát hiện mối quan hệ giữa các dữ kiện đã cho của bài toán với yêu cầu cần tìm của bài toán để phát triển khả năng tư duy lôgíc….
Qua nhiều năm giảng dạy lớp 4, đã từng hướng dẫn rất nhiều học sinh giải toán có lời văn, tôi thấy một số học sinh vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Các em chưa biết phân tích bài toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt chưa rõ ràng, thiếu lôgic.
Vậy làm thế nào để học sinh hiểu đề bài, biết cách phân tích và tìm ra lời giải của bài? Chính điều này làm tôi luôn trăn trở. Từ sự trăn trở của bản thân, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, tham khảo nhiều nguồn thông tin khác nhau để có thể tháo gỡ những khó khăn trên. Đây chính là mục tiêu mà bài viết này đặt ra. Do vậy, tôi đã chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải toán có lời văn”.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ....
TRƯỜNG TIỂU HỌC ....
SÁNG KIẾN
HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 4 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
Lĩnh vực : Toán học
Tên tác giả: ....
Chức vụ
: Giáo viên
Tài liệu đính kèm: Đĩa CD
Năm học: 2018 - 2019
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng khoa học trường Tiểu học .....
Hội đồng khoa học Phòng Giáo dục và Đào tạo ....
Tôi: ....
Ngày, tháng, năm sinh: 25/10/1967
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học ....
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Hướng dẫn học sinh lớp 4
giải toán có lời văn”.
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Dạy - học toán có lời văn lớp 4.
Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Từ tháng 4 năm 2016
1. Bản chất của sáng kiến
* Nội dung sáng kiến
Đề tài đã hệ thống những biện pháp về giải toán có lời văn lớp 4, thống kê
những khó khăn mà các giáo viên lớp 4 trường tiểu học .... gặp phải trong quá
trình dạy giải toán có lời văn. Từ đó đề xuất những biện pháp nhằm khắc phục
những khó khăn đó góp phần đáp ứng mục tiêu “Đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục” mà Đảng đã đề ra; nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường,
đáp ứng yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, trọng tâm chính của đề tài là các biện
pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn mà các giáo viên gặp phải trong dạy toán có
lời văn lớp 4 đó là:
Biện pháp 1: Rèn học sinh giải những bài toán có tính chất chuẩn bị
cơ sở cho từng dạng toán.
Biện pháp 2: Rèn học sinh kĩ năng đọc đề và tìm hiểu kĩ bài toán
Biện pháp 3: Rèn học sinh kĩ năng tóm tắt bài toán
Biện pháp 4: Rèn học sinh kĩ năng trình bày bài giải
Biện pháp 5: Rèn học sinh kĩ năng kiểm tra kết quả và thử lại sau khi
giải bài toán có lời văn
Các biện pháp trên có mối quan hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ, thúc đẩy và
hỗ trợ nhau, tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh giúp giáo viên các nhà trường có
phương pháp dạy HS đạt hiệu quả cao, tháo gỡ những khó khăn trong dạy giải
toán có lời văn lớp 4.
* Khả năng áp dụng của sáng kiến
Các biện pháp tôi đưa ra trong sáng kiến đã được áp dụng thực thi ở lớp
4A trường Tiểu học .... năm học 2016 - 2017, chất lượng học sinh được nâng lên
đáng kể. Học sinh giải toán có lời văn nhanh hơn, đúng hơn và đặc biệt là hiểu
được, nắm được các bước khi giải toán có lời văn để từ đó vận dụng hiệu quả.
Ngoài học sinh ở mức độ 3, các em học sinh ở mức độ 1 và mức độ 2 do được
quan tâm đúng cách nên đã biết giải toán có lời văn và giải đúng hơn.
2. Điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Sáng kiến áp dụng có hiệu quả khi giáo viên phải là những người biết
được nguyên nhân và các biện pháp thực hiện giải toán có lời văn lớp 4; mạnh
dạn đổi mới và sáng tạo trong dạy học.
- Học sinh phải tự giác, tích cực tham gia; biết lắng nghe và phản hồi
mang tính xây dựng.
3. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến
* Đối với GV:
- Tìm ra biện pháp giúp học sinh giải toán có lời văn tốt hơn.
- Góp phần cải tiến phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đáp ứng mục tiêu giáo dục thời kì đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế.
* Đối với HS
- Tạo cho các em hứng thú, niềm say mê học hỏi, tìm tòi những kiến thức
liên quan tới môn học.
- Rèn luyện cho các em những kĩ năng, kiến thức cần thiết để các em có
thể giải toán nhanh hơn với độ chính xác cao hơn.
- Phát triển năng lực trí tuệ, hình thành cho các em các kĩ năng, phẩm chất
đạo đức tốt đẹp, cách ghi nhớ khoa học.
Nếu sáng kiến này được áp dụng rộng rãi trong các nhà trường thì chắc
chắn chất lượng dạy và học của thầy và trò sẽ ngày càng nâng cao đáp ứng yêu
cầu đổi mới của giáo dục hiện nay.
Vậy kính đề nghị Hội đồng khoa học trường Tiểu học ...., Hội đồng khoa
học Phòng Giáo dục và Đào tạo .... xem xét, công nhận.
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật.
Nếu có sai sót xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
...., ngày 10 tháng 1 năm 2019
Người nộp đơn
....
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
Họ và tên: ....
Ngày, tháng, năm sinh: 25/10/1967
Nam/ Nữ: Nữ
Năm nhập ngành: 9/1990
Địa chỉ: …
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học ....
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
Trình độ đào tạo: Cao đẳng
Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục Tiểu học
MỤC LỤC
Nội dung
PHẦN A: MỞ ĐẦU
Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
3
1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết
3
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
5
3. Phạm vi nghiên cứu
5
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
6
1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
6
1.1. Cơ sở lí luận
6
1.2. Cơ sở thực tiễn
8
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp
10
2.1. Các biện pháp tiến hành
10
2.2. Thời gian tạo ra giải pháp
11
PHẦN B: NỘI DUNG
12
1. MỤC TIÊU CỦA SÁNG KIẾN
12
2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 4 GIẢI
12
TOÁN CÓ LỜI VĂN
2.1. Biện pháp 1: Rèn học sinh giải những bài toán có tính chất chuẩn
12
bị cơ sở cho từng dạng toán.
2.2. Biện pháp 2: Rèn học sinh kĩ năng đọc đề và tìm hiểu kĩ bài toán
14
2.3. Biện pháp 3: Rèn học sinh kĩ năng tóm tắt bài toán
16
2.4. Biện pháp 4: Rèn học sinh kĩ năng trình bày bài giải
19
2.5. Biện pháp 5: Rèn học sinh kĩ năng kiểm tra kết quả và thử lại sau
25
khi giải bài toán có lời văn
2.6. Một số lưu ý trong dạy học giải toán có lời văn ở lớp 4
30
3. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
34
PHẦN C: KẾT LUẬN
36
1. NHẬN ĐỊNH CHUNG
36
2. NHỮNG ĐIỀU KIỆN, KINH NGHIỆM ÁP DỤNG VÀ SỬ
36
1
DỤNG GIẢI PHÁP
3. NHỮNG TRIỂN VỌNG TRONG VIỆC VẬN DỤNG VÀ
38
PHÁT TRIỂN GIẢI PHÁP
4. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
39
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
41
2
PHẦN A: MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết
Toán học là một trong những khoa học cổ nhất của loài người, là đỉnh cao
trí tuệ của con người. Charles Darwin đã từng nhận định về vai trò to lớn của toán
học: "Mọi phát kiến của nhân loại đều có bàn tay hướng dẫn của Toán học, bởi vì
chúng ta không thể có một người chỉ đường nào khác". Nhận định ấy đã được
minh chứng bằng tầm quan trọng của toán học trong suốt chiều dài lịch sử. Nhưng
chưa bao giờ toán học phát triển mạnh mẽ và có nhiều ứng dụng sâu sắc như ngày
nay. Ở thời đại chúng ta, những phát minh mới mẻ của toán học xuất hiện hàng
ngày, rất nhiều ngành mới ra đời, nhiều quan niệm cũ bị đảo lộn, nhiều cuộc cải
cách đã diễn ra tạo nên những cuộc cách mạng đổi mới toàn diện. Thật không quá
khi nói Toán học đang thay đổi cả thế giới hay nói cả thế giới đang vận động theo
nhịp xoay của toán học. Toán học không chỉ ứng dụng trong lĩnh vực thiên văn,
vật lý, triết học mà còn xâm nhập vào hoá học, sinh học và nhiều ngành khoa học
xã hội khác nữa. Toán học ngày càng có ứng dụng sâu sắc và rộng rãi. Môn Toán
là công cụ cần thiết để học các môn học khác. Học sinh không thể học tốt các
môn học tự nhiên nếu thiếu đi nền tảng toán học. Môn Toán có khả năng giáo dục
to lớn trong việc rèn luyện khả năng suy nghĩ, suy luận lôgic, thao tác tư duy cần
thiết để nhận thức thế giới hiện thực như: trừu tượng hoá, khái quát hoá… Trong
giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đang diễn ra
rất sôi nổi với tốc độ phát triển rất nhanh và quy mô rất lớn, đòi hỏi một nguồn
lớn nhân lực có tri thức cao. Mà tất cả các ngành khoa học đều có sự tác động của
bàn tay toán học nên toán học có tác dụng vô cùng to lớn với thực tiễn và khoa
học. Mặt khác, trách nhiệm của ngành giáo dục là phải đào tạo ra những con
người lao động mới đáp ứng những nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh. Một nền tảng tốt sẽ là động lực cho sự
phát triển bền vững và lâu dài. Môn Toán cũng như các môn học khác cung cấp
những tri thức khoa học ban đầu, những tri thức về thế giới xung quanh, nhằm
3
phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức
tốt đẹp của con người.
Môn Toán ở Tiểu học là môn học độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong
chương trình học của trẻ. Môn Toán được dạy liền mạch thành hệ thống xuyên
suốt trong chương trình ở Tiểu học và được chia thành các mảng kiến thức như:
số và phép tính; đo lường; hình học; giải toán với các dạng bài toán cơ bản, điển
hình… Trong đó, giải toán với các dạng bài toán điển hình chiếm vị trí vô cùng
quan trọng của môn Toán Tiểu học bởi đây là dạng toán mang tính cơ bản, thiết
thực và được lồng ghép, đan xen ở hầu hết các mạch kiến thức trong chương trình
học toán của học sinh. Trong môn Toán lớp 4, nội dung dạy học giải toán các bài
toán điển hình được sắp xếp hợp lí, đan xen phù hợp với quá trình học tập các
mạch số học, hình học, đại lượng và đo đại lượng của học sinh. Nội dung các
dạng toán điển hình trong Toán 4 có “chất liệu” phong phú, gắn với thực tiễn và
có hình thức thể hiện phong phú, đa dạng, hấp dẫn học sinh, chẳng hạn: Có dạng
bài toán phản ánh một số mối quan hệ số học như: “Tìm số trung bình cộng của
nhiều số”, “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”, “Tìm hai số khi biết
tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó”; có dạng bài toán bổ sung tiếp nối từ lớp 3 như
bài toán “Tìm phân số của một số”…..
Các kiến thức về giải toán có lời văn là cầu nối giữa kiến thức nhà trường
và thực tế. Việc học sinh tiếp thu các kiến thức về giải toán có lời văn trong nhà
trường sẽ giúp học sinh vận dụng để tính toán trong thực tế hàng ngày và là cơ sở
để các em tiếp tục học toán ở các lớp cao hơn. Dạy học giải toán có lời văn mà
các dạng toán điển hình phần lớn tập trung ở lớp 4 có vai trò quan trọng trong
việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng lực giải toán tốt, phát triển tư duy trìu
tượng, khả năng phân tích tổng hợp, phát hiện mối quan hệ giữa các dữ kiện đã
cho của bài toán với yêu cầu cần tìm của bài toán để phát triển khả năng tư duy
lôgíc….
Qua nhiều năm giảng dạy lớp 4, đã từng hướng dẫn rất nhiều học sinh giải
toán có lời văn, tôi thấy một số học sinh vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc
hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Các em chưa biết
4
phân tích bài toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài
giải, diễn đạt chưa rõ ràng, thiếu lôgic.
Vậy làm thế nào để học sinh hiểu đề bài, biết cách phân tích và tìm ra lời
giải của bài? Chính điều này làm tôi luôn trăn trở. Từ sự trăn trở của bản thân, tôi
đã tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, tham khảo nhiều nguồn thông tin khác nhau để có
thể tháo gỡ những khó khăn trên. Đây chính là mục tiêu mà bài viết này đặt ra. Do
vậy, tôi đã chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải toán có lời văn”.
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới này là:
- Tìm ra biện pháp giúp học sinh giải toán có lời văn tốt hơn.
- Rèn luyện cho các em những kĩ năng, kiến thức cần thiết để các em có
thể giải toán nhanh hơn với độ chính xác cao hơn.
- Phát triển năng lực trí tuệ, hình thành cho các em các kĩ năng, phẩm chất
đạo đức tốt đẹp, cách ghi nhớ khoa học.
- Tạo cho các em hứng thú, niềm say mê học hỏi, tìm tòi những kiến thức
liên quan tới môn học.
- Góp phần cải tiến phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đáp ứng mục tiêu giáo dục thời kì đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế.
Các biện pháp tôi đưa ra trong sáng kiến đã được áp dụng thực thi ở lớp
4A trường Tiểu học .... năm học 2016 - 2017, chất lượng học sinh được nâng lên
đáng kể. Học sinh biết giải bài toán có lời văn nhanh hơn, đúng hơn và đặc biệt là
hiểu được, nắm được các bước giải toán, các cách giải để từ đó vận dụng hiệu
quả. Ngoài học sinh ở mức độ 3, các em học sinh ở mức độ 1 và mức độ 2 do
được quan tâm đúng cách đã từng bước biết giải toán có lời văn và giải đúng
phương pháp hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu và thực nghiệm: Trường Tiểu học ...., huyện ...., tỉnh
Hưng Yên.
5
+ Các bài tập giải toán có lời văn trong chương trình sách giáo khoa toán
4.
+ Các bài tập trong sách bài tập, sách ôn luyện và các sách chuyên ngành
khác.
- Đối tượng sáng kiến tiến hành nghiên cứu: “Hướng dẫn học sinh lớp 4
giải toán có lời văn”.
- Khách thể nghiên cứu: Giáo viên và học sinh lớp 4A và 4B trường Tiểu
học ...., huyện ...., tỉnh Hưng Yên.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận
a) Mục tiêu của giải toán có lời văn lớp 4
Trong môn toán lớp 4, các kiến thức và bài tập về giải toán có lời văn
chiếm một lượng kiến thức đáng kể. Mục tiêu việc dạy giải toán có lời văn ở lớp 4
là:
- Học sinh biết tự tóm tắt bài toán bằng cách ghi ngắn gọn hoặc bằng sơ đồ,
hình vẽ.
- Học sinh biết giải và trình bày bài giải các bài toán có đến ba bước tính
trở lên, trong đó có các bài toán:
+ Tìm số trung bình cộng.
+ Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
+ Tìm phân số của một số.
+ Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó.
+ Tính diện tích, chu vi của một số hình.
+ Giải các bài toán liên quan đến 4 phép tính.
b) Nội dung chủ yếu của dạy học giải toán có lời văn trong môn Toán
lớp 4
- Tiếp tục giải các bài toán đơn, toán hợp có dạng đã học từ lớp 1, 2 ,3 và
phát triển các bài toán đó đối với các phép tính trên phân số và các số đo đại
6
lượng mới học ở lớp 4. Đồng thời toán 4 đề cập đến những dạng bài toán mới phù
hợp với giai đoạn học tập sâu của học sinh lớp 4. Cụ thể là:
+ Giải bài toán về: “ Tìm số trung bình cộng”.
+ Giải bài toán về: “ Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”.
+ Giải bài toán về: “Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó”.
+ Giải bài toán có nội dung hình học.
+ Giải một số bài toán có dạng khác như: Tìm phân số của một số, bài toán
liên quan đến bốn phép tính, bài toán liên quan đến biểu đồ, ứng dụng tỉ lệ bản
đồ….
+ Biết trình bày bài giải các bài toán nêu ở trên.
c) Quy trình giải một bài toán có lời văn
Gồm bốn bước:
*Bước 1: Đọc kĩ bài toán
*Bước 2: Tóm tắt bài toán
*Bước 3: Trình bày bài giải
*Bước 4: Kiểm tra kết quả và thử lại sau khi giải xong bài toán
d) Một số biểu hiện về năng lực giải toán của học sinh.
*Mức độ 1: Đối với học sinh còn hạn chế về năng lực giải toán
- Tự tóm tắt được nội dung bài toán nhưng còn chậm và chưa ngắn gọn,
chưa chắc chắn (còn lúng túng khi vẽ sơ đồ tóm tắt bài toán, khi trình bày bài giải
mặc dù đã biết cách giải).
- Đôi khi còn chưa hiểu rõ ý nghĩa của phép tính trong cách giải, chưa nắm
được đặc trưng của từng dạng toán.
- Có kĩ năng thực hành giải và trình bày bài giải các bài toán ở sách giáo
khoa. Tuy nhiên lời giải của các phép tính có khi dài dòng hoặc thiếu chính xác,
kết quả tính toán còn sai sót….
- Có nhiều em còn chưa hiểu thấu đáo vấn đề dẫn tới cùng một dạng toán,
khi thay số liệu hoặc “văn cảnh” của đề toán ấy, học sinh không nhận biết được
dạng nên không giải quyết được vấn đề.
*Mức độ 2: Đối với học sinh đạt yêu cầu về năng lực giải toán
7
- Tự tóm tắt được nội dung bài toán một cách ngắn gọn bằng lời, bằng sơ
đồ hoặc bằng hình vẽ.
- Hiểu được ý nghĩa của phép tính trong cách giải.
- Có kĩ năng thực hành giải và trình bày bài giải các bài toán ở sách giáo
khoa và đưa ra kết quả đúng.
- Hiểu các dạng toán nhưng chưa thực sự hiểu sâu, hiểu rộng nên chưa áp
dụng các dạng bài để giải các bài toán nâng cao hơn.
*Mức độ 3: Đối với học sinh có năng lực vận dụng thành thạo trong giải
toán
Đạt được các yêu cầu trên ở mức độ cao hơn, cụ thể:
- Nhận dạng và gọi tên đúng các bài toán điển hình.
- Biết tóm tắt nhanh và chính xác nội dung bài toán bằng lời, sơ đồ hoặc
hình vẽ.
- Có kĩ năng thực hành, giải thành thạo các dạng toán điển hình và cho kết
quả chính xác (về đáp số, câu lời giải, trình bày sạch đẹp).
- Nêu được các bước giải của các bài toán điển hình.
- Có khả năng tìm nhiều cách giải khác nhau (nếu có) ở các bài toán đã cho.
- Đặt đề toán đúng với sơ đồ tóm tắt cho trước hoặc tình huống trong đời
sống thực tế.
- Phân biệt rõ các bước giải của từng dạng toán điển hình.
- Giải được các bài toán có nội dung thực tiễn, ứng dụng tổng hợp các kiến
thức và phương pháp giải đã học.
1.2. Cơ sở thực tiễn
a) Thực trạng về dạy và học của giáo viên và học sinh trường Tiểu
học .... về giải các dạng toán có lời văn.
Sau một thời gian dài theo dõi quá trình học tập của học sinh, tôi thấy chất
lượng học tập của học sinh về giải toán có lời văn còn thấp. Để có những giải
pháp cụ thể, thiết thực tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng vào thời điểm cuối
tháng 4 năm 2016 (Năm học 2015 - 2016) về kỹ năng giải toán có lời văn tại lớp
4A, 4B.
8
NỘI DUNG BÀI KIỂM TRA (Thời gian 30 phút)
Bài 1 (5 điểm): Bố hơn con 30 tuổi. Tuổi con bằng
1
6
tuổi bố. Tính tuổi
mỗi người.
Bài 2 (5 điểm): Một thửa ruộng hình chữ nhật có chu vi 530 m, chiều rộng
kém chiều dài 47 m. Tính diện tích thửa ruộng.
KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Năm học: 2015 - 2016
Lớ
Sĩ
p
số
4A
4B
28
27
Mức độ 3
Mức độ 2
Mức độ 1
SL %
5 18%
5 19%
SL
11
10
SL
12
12
%
39%
37%
%
43%
44%
Thái độ
Thích
SL
%
10
36%
8
30%
Không thích
SL
%
18
64%
19
70%
Qua kết quả thu được từ bài khảo sát của học sinh, tôi thấy:
- Các em chưa biết phân tích để nhận xét mối quan hệ giữa các dữ kiện đã
cho và yều cầu cần tìm của bài toán.
- Việc tóm tắt bài toán chưa phù hợp với đặc trưng, yêu cầu từng dạng toán,
bài toán cụ thể; việc tóm tắt bài toán bằng lời còn chưa khoa học, còn dài dòng
chưa ngắn gọn, chưa lược bỏ những nội dung không cần thiết; khi tóm tắt bài toán
bằng sơ đồ đoạn thẳng biểu diễn chưa chính xác các quan hệ toán học trên sơ đồ
như vẽ các phần không đều, hai đầu bên trái của các đoạn thẳng không đặt thẳng
hàng, thường bỏ sót các dữ kiện đầu bài cho, hoặc yêu cầu của bài toán…Đặc biệt
chưa phân biệt được giữa tóm tắt bài toán với việc trình bày minh hoạ trong bài
giải.
- Trong phần trình bày bài giải câu lời giải của học sinh lúc thì dài dòng,
lúc lại còn thiếu so với yêu cầu đề bài. Nhiều em dùng các mệnh đề nghi vấn để
trả lời hoặc câu lời giải còn viết tắt ở các đơn vị đo đại lượng như: km, hm, m,
cm, kg,….Cách xác định phép tính giải còn nhầm lẫn do xác định sai dạng toán,
do nhiều em khi đọc đề toán thấy có từ “kém hơn”, “ít hơn”, “hiệu”…là làm phép
tính trừ; nếu thấy từ “nhiều hơn”, “tổng”, “thêm vào”…là làm phép tính cộng; nếu
có từ “gấp…lần” là làm phép nhân hay từ “giảm…lần” là làm phép chia. Việc xác
9
định như vậy chỉ đúng trong một số dạng toán cơ bản, nhưng sẽ là sai nếu một số
bài toán đòi hỏi vận dụng và hiểu sâu ý nghĩa các phép tính.
- Cách trình bày phép tính giải còn chưa đúng, còn trình bày thiếu dấu
ngoặc ở tên đơn vị kèm theo kết quả tính, còn hiểu sai hoặc chưa hiểu hết khái
niệm toán học….
- Phần trình bày đáp số bài toán còn chưa đúng hoặc chưa đầy đủ…
Điều đáng lo ngại hơn là các em có tâm lí “ngại làm” các bài toán có lời
văn. Đi sâu vào tìm hiểu tôi được biết: một số giáo viên chưa thực sự chú trọng
vào việc giảng dạy phần bài toán có lời văn như giao việc để học sinh tự làm và
trình bày kết quả. Việc hướng dẫn học sinh phân tích và tìm hiểu bài toán để tìm
ra cách giải còn hạn chế dẫn đến hệ thống câu hỏi đưa ra lủng củng, không hệ
thống và lặp lại từ đó khiến học sinh khó hiểu và khó tìm ra các bước để giải bài
toán. Việc tổ chức đánh giá, nhận xét bài làm của học sinh còn chưa triệt để vẫn
mang tính áp đặt theo ý của giáo viên, còn lúng túng khi nhận xét các bài toán có
nhiều cách giải, nhiều câu trả lời khác nhau dẫn đến như là phân tích lại bài toán
khiến học sinh khó nhận ra kết quả bài làm của mình là sai và sai như thế nào?
Đặc biệt, không ít giáo viên vẫn chưa quan tâm đến đổi mới phương pháp dạy
học, chưa nghiên cứu thấu đáo để khám phá ra phương pháp dạy học phù hợp,
chưa nâng lên thành dạng tổng quát để học sinh dễ nắm bắt kiến thức cho bài
toán, dạng toán phù hợp, đạt hiệu quả cao.
Những vấn đề trên là những khó khăn, những bức xúc – là một trở ngại lớn
để thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện và phát huy năng lực của học sinh.
Từ những hạn chế và những nguyên nhân trên, tôi đã đi sâu nghiên cứu và
tìm ra các biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó với mong muốn nâng cao
chất lượng dạy về giải toán có lời văn ở lớp 4, qua đó góp phần nâng cao chất
lượng dạy học trong trường tiểu học.
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp
2.1. Các biện pháp tiến hành
- Đọc, nghiên cứu tài liệu SGK toán 4 và sách giảng dạy ở Tiểu học.
10
- Nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu: sách, báo, sách tham khảo. Tìm hiểu tài
liệu, kinh nghiệm của nhiều người trên mạng xã hội.
- Bằng thực tế giảng dạy học sinh, việc trao đổi với đồng nghiệp và sự tích
lũy kinh nghiệm của bản thân.
- Phương pháp điều tra: Nhằm đánh giá về tình hình học giải toán có lời
văn bằng hình thức vấn đáp hoặc kiểm tra bằng giấy.
- Phương pháp thực nghiệm: Đây là phương pháp quan trọng nhất, phương
pháp này nhằm thể hiện toàn bộ những kết quả nghiên cứu và thực tiễn dạy học
của giáo viên.
- Phương pháp thống kê: Thống kê kết quả dạy và học giải toán có lời văn.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Dùng lý luận của mình để đánh giá
kết quả thu được trước và sau khi áp dụng biện pháp khoa học rút ra kết luận, bài
học và nêu ý kiến đề xuất.
2.2. Thời gian tạo ra giải pháp
- Năm học 2015 – 2016: Nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng
- Năm học 2016 – 2017: Áp dụng các biện pháp vào thực tiễn giảng dạy.
11
PHẦN B. NỘI DUNG
1. MỤC TIÊU CỦA SÁNG KIẾN
“Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải toán có lời văn” nhằm:
- Giúp cho việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên.
- Nâng cao chất lượng học tập của học sinh về nội dung giải toán có lời văn
ở lớp 4.
- Góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Toán nói riêng và hoàn thành
chiến lược phát triển giáo dục toàn diện cho học sinh trong các nhà trường nói
chung.
- Đảm bảo mục tiêu giáo dục thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 4 GIẢI
TOÁN CÓ LỜI VĂN
Làm thế nào để học sinh lớp 4 học tốt mảng kiến thức về giải toán có lời
văn? Theo tôi, điều đó phụ thuộc phần lớn vào phương pháp và cách thức tổ chức
dạy học của giáo viên, đòi hỏi mỗi người giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt
các phương pháp dạy học cho phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh do
mình phụ trách giảng dạy.
Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của môn học trong chiến lược phát triển
toàn diện cho học sinh, từ những ưu điểm, khuyết điểm trong nhận thức của học
sinh, từ hạn chế của phương pháp dạy học cũ, tôi đã đi sâu vào tìm hiểu thực trạng
chất lượng học giải toán có lời văn của học sinh. Từ đó, tôi đề xuất năm biện pháp
giải quyết để các thầy cô cùng tham khảo.
2.1. Biện pháp 1: Rèn học sinh giải những bài toán có tính chất chuẩn
bị cơ sở cho từng dạng toán.
* Mục tiêu:
- Nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ vào các mối quan hệ
toán học và các từ khóa chứa trong đề bài toán.
- Giúp HS nắm được những đặc trưng cơ bản và phương pháp giải của từng
dạng toán.
- HS biết giải các bài toán cơ bản của từng dạng bài.
12
* Nội dung và cách tiến hành
Để học sinh giải tốt các dạng toán có lời văn thì giáo viên nên cho học sinh
giải những bài toán có tính chất chuẩn bị cơ sở để các em có những hình dung cơ
bản về từng dạng toán.
Các bài toán có tính chất chuẩn bị này nên có số liệu không lớn lắm để học
sinh có thể tính miệng được dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy
nghĩ vào các mối liên quan toán học và các từ mới chứa trong đề bài toán. Ngoài
ra, đề bài nên ra các vấn đề thực tiễn quen thuộc, gần gũi với các em để tránh trừu
tượng, khó hiểu, khó tưởng tượng với học sinh. Tuy nhiên, bài toán đưa ra phải có
dạng tiêu biểu nhất chứa đựng tất cả những đặc điểm chung của loại toán điển
hình cần học.
Lưu ý: Giáo viên có thể vận dụng linh hoạt các cách khác nhau để đưa bài
toán như chơi trò chơi, hoặc cho học sinh trải nghiệm thực tế, …. nhằm tạo sự
hứng thú và giúp học sinh nhớ lâu hơn.
Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học dạng toán “Tìm số trung bình cộng”,
phần khởi động ta có thể cho học sinh giải bài toán đơn sau:
“Ba xe ô tô vận chuyển được 15 tấn gạo. Hỏi trung bình mỗi ô tô vận
chuyển được bao nhiêu tấn gạo?”
Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ
số của hai số đó”, phần khởi động ta có thể cho học sinh giải bài toán sau:
“Mẹ có 30 cái kẹo, chia thành ba gói bằng nhau. Mẹ cho chị một gói, cho
em hai gói. Hỏi chị được mấy cái kẹo?”
Sau khi học sinh giải những bài toán có tính chất chuẩn bị cơ sở cho từng
dạng toán, học sinh sẽ trải nghiệm từng dạng toán với các phương pháp giải đặc
trưng của mỗi dạng. Khi học theo từng dạng, đa số các học sinh đều nắm được
phương pháp giải nhưng khi học xong các dạng thì không phải học sinh nào cũng
giải tốt được do các em “mau nhớ chóng quên”. Chính vì vậy, giáo viên nên giúp
học sinh ghi nhớ các đặc điểm dạng bài theo hướng tư duy logic và ghi nhớ khoa
học.
13
Hầu hết, tên của các dạng bài đều mang đặc trưng riêng của dạng bài đó.
Ngược lại, khi khái quát đề bài, từ việc chỉ ra dữ liệu mà bài toán cung cấp là đặc
trưng của dạng nào thì ta có thể kết luận bài toán thuộc dạng đó.
Ví dụ 1: Với dạng toán “Tìm số trung bình cộng ” thì đặc trưng của dạng
toán này chính là tổng của các số và số các số hạng. Dạng toán này dễ nhận biết
bởi trong đề của các bài thuộc dạng này thường hay có cụm từ “trung bình”.
Ví dụ 2: Với dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số” thì
đặc trưng của dạng toán này chính là tổng và hiệu của hai số đó. Khi mà bài toán
đưa ra hai dữ kiện này thì ta có thể kết luận được dạng của bài toán là “Tìm hai số
khi biết tổng và hiệu của hai số”.
Ví dụ 3: Với dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” thì
đặc trưng của dạng toán này chính là tổng của hai số và tỉ số của hai số đó. Khi
mà bài toán đưa ra hai dữ kiện này thì ta có thể kết luận được dạng của bài toán là
“Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”.
Từ việc chỉ ra dạng của bài cần giải, ta sẽ áp dụng phương pháp giải đặc
trưng của dạng tương ứng để giải quyết bài toán. Có thể nói khi giải các dạng toán
có lời văn, bám sát vào đề bài chính là “kim chỉ nam” cho mọi dạng toán. Tuy
nhiên, không phải học sinh nào cũng có thể làm tốt bước này. Chính vì vậy, tôi đã
đưa ra biện pháp để khắc phục khó khăn này, đó là:
2.2. Biện pháp 2: Rèn học sinh kĩ năng đọc đề và tìm hiểu kĩ bài toán
* Mục tiêu
- HS nắm chắc nội dung bài toán.
- Nắm được những dữ kiện (là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài) và
những ẩn số (là những cái chưa biết mà ta cần phải tìm).
- Từ việc đọc kỹ đề, HS phải nhận định được dạng toán và hình dung cơ
bản được hướng giải.
14
* Nội dung và cách tiến hành
Mặc dù các em đã được làm quen với các bài toán có lời văn từ lớp 1; 2; 3
nhưng lên lớp 4, qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy nhiều em phần tìm hiểu đề
toán còn qua loa, đọc đề bài chỉ có một lần là giải ngay dẫn đến các em giải bài
toán sai. Vì vậy sau khi giao bài tập xong, tôi yêu cầu học sinh:
- Việc đầu tiên khi tiến hành giải toán là cần đọc kĩ đề bài (đọc đi đọc lại
nhiều lần), tránh tình trạng vừa đọc xong đề toán là giải. Tôi rèn học sinh kĩ năng:
Chưa hiểu đề toán thì chưa tìm cách giải.
- Đọc đề toán, suy nghĩ về những điều đã cho của đề toán, đặc biệt chú ý
đến câu hỏi của đề toán. Ta không chỉ đọc mà còn phải đọc kĩ, hiểu sâu đề bài,
chớ vội tính toán ngay để tránh việc hiểu nhầm, hiểu sai đề bài.
- Khi đọc đề toán ta cần chú ý:
+ Phải khai thác đề bài một cách tối đa. Cần xác định được hai bộ phận của
một đề toán: Những điều đã cho (dữ kiện) và yêu cầu cần tìm (ẩn số).
+ Cần tập trung vào những từ quan trọng (từ khóa) của đề toán, các thuật
ngữ toán học, các dữ kiện toán học không tường minh để hiểu được bản chất của
đề toán. Từ đó giúp cho việc đưa ra cách giải đúng với các dạng toán đã học.
Bước này là vô cùng quan trọng trong việc đọc đề và định hướng dạng toán của
bài toán. Vì vậy, giáo viên cần phải nhấn mạnh và chú trọng rèn luyện cho học
sinh.
Khi học sinh đọc đề một bài toán, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích
đề bài bằng cách nắm bắt các từ khóa,… Khi đề bài chứa các cụm từ như “nhiều
hơn”, “ít hơn”,… ta rút ra được hiệu của hai số. Khi đề bài có chứa cụm từ như
“tổng số”, “có tất cả”,… ta rút ra được tổng của hai số. Khi đề bài có chứa cụm từ
như “tỉ số”, “gấp”… hay có số phần của hai số ta rút ra được tỉ số của hai số. Một
bài toán vừa cho tổng vừa cho hiệu của hai số ta có thể kết luận dạng của bài toán
là “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”. Hay bài toán vừa cho tổng
(hiệu) vừa cho tỉ số của hai số ta có thể kết luận dạng của bài toán là “Tìm hai số
khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó”. Khi đề bài chứa các cụm từ như “trung
bình”,… ta rút ra được bài toán thuộc dạng toán “Tìm số trung bình cộng”.
15
- Xem thêm -