Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn hướng dẫn học sinh 12 khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự...

Tài liệu Skkn hướng dẫn học sinh 12 khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự

.PDF
29
121
144

Mô tả:

ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn vấn đề Đọc hiểu tác phẩm văn học là một hoạt động quen thuộc của thầy và trò Trường THPT. Trong quá trình này, người giáo viên phải làm công việc giảng văn, và học sinh thì phải phân tích tác phẩm văn học như là một kiểu bài khi làm văn. Nhưng dù dạy hay học văn, khi tìm hiểu một tác phẩm văn học thì chúng ta phải chia tách đối tượng ra thành từng phần từng bộ phận nhỏ để đánh giá tác phẩm. Nhờ đó, mà chúng ta có thể hiểu và cảm thụ được vẻ đẹp của tác phẩm văn học. Vấn đề là khi đọc hiểu tác phẩm văn học, ta phải làm cách nào để thấy hết mọi giá trị của tác phẩm về nội dung lẫn hình thức, về cả cái hay, cái đẹp đến cả cái chưa tốt v.v...Muốn thế chúng ta phải chú ý đến việc đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy, trực tiếp chấm trả bài cho học sinh, tôi nhận thấy trong thời gian gần đây bài viết của học sinh thường khá hời hợt, nhiều em giải quyết vấn đề một cách chung chung hoặc bắt chước một cách thái quá những kiến thức trong các sách tham khảo mà ít chịu suy nghĩ tìm tòi. Điều này làm tôi luôn cảm thấy băn khoăn, suy nghĩ. Mặt khác, theo thói quen của nhiều người, trong tác phẩm tự sự người ta chỉ quan tâm đến cốt truyện, nhân vật, tình huống và những đề kiểm tra của học sinh cũng thường xoay quanh các vấn đề trên đã là nguyên nhân làm cho bài viết của học sinh trở nên ít mới mẻ và sâu sắc. Trong khi đó các chi tiết trong mỗi tác phẩm mới thực sự là tế bào, là mạch máu tạo nên sức sống và vẻ đẹp của từng thiên truyện. Những bài viết biết khai thác chi tiết thường tạo nên những nét 1 riêng, nét mới mẻ và cá tính vì trong mỗi chi tiết luôn chứa đựng những lớp trầm tích càng khai thác càng thấy giá trị. 2. Thực trạng vấn đề Có nhiều công trình nghiên cứu đã cố gắng tìm một cách tiếp cận tác phẩm đúng, có ý nghĩa như: Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể (Nhiều tác giả - NXB Giáo dục 1978), Những bài giảng văn ở Đại học (Lê Tri Viễn NXB Giáo dục 1982), Giảng văn I. II (Nhiều tác giả - NXB ĐH & THCN 1982) v.v...Từ sau cải cách giáo dục, ngoài sách giáo khoa và sách tham khảo chính thức của Bộ Giáo dục (sách giáo viên) nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhiều nhà giáo đã tham gia viết các công trình nghiên cứu và phân tích về các tác phẩm văn học được giảng dạy trong Nhà trường. Các công trình này cũng đã giúp rất nhiều cho cả giáo viên và học sinh trong việc tìm hiểu, nhận thức và cảm thụ tác phẩm văn học. Nhưng phần lớn chỉ giúp học sinh tiếp thu một cách thụ động theo lối học vẹt, học theo, chưa nói có không ít bài viết chất lượng chưa cao còn nặng về diễn nôm hoặc tóm lược tác phẩm văn chương là chính. 3. Phạm vi vấn đề Do điều kiện và khuôn khổ của bài viết, tôi không đi sâu vào từng tác phẩm cụ thể mà chỉ đưa ra một số cách thức khai thác chi tiết của một số tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn 12, giúp cho đối tượng học sinh trong quá trình tiếp cận tác phẩm. 4. Cấu trúc bài viết Từ phạm vi trên bài viết của tôi ngoài phần Đặt vấn đề, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Giải quyết vấn đề có cấu trúc 3 phần cụ thể như sau: I/ Chi tiết và việc khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự II/ Hướng dẫn học sinh khai thác chi tiết qua một số truyện ngắn tự sự trong chương trình 12 2 III/ Một số kết quả đạt được qua việc hướng dẫn học sinh 12 khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự 3 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CHI TIẾT VÀ VIỆC KHAI THÁC CHI TIẾT TRONG TRUYỆN NGẮN TỰ SỰ I.1. Chi tiết trong tác phẩm văn học Chi tiết là một từ ngữ quen thuộc trong giao tiếp hàng ngày. Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1988) thì Chi tiết là: Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng (Ví dụ: Kể rành rọt từng Chi tiết). Là thành phần riêng rẻ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng có thể tháo lắp được (Ví dụ: Chi tiết máy). Như vậy trong đời sống hàng ngày từ “Chi tiết” được hiểu và dùng như là một thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể. Chi tiết được hiểu như là một thành phần thuộc về cấu tạo. Trong văn học, chi tiết theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1997) là: Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. Cũng theo nhóm tác giả này thì: Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan niệm nghệ thuật” về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định. Tất nhiên không phải mọi chi tiết trong tác phẩm đều có vai trò, vị trí và giá trị như nhau. Có chi tiết chỉ đóng vai trò vật liệu xây dựng, làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lý, nhưng cũng có không ít chi tiết thể hiện tập trung cho cấu tứ của tác giả. Vì vậy, khi phân tích tìm hiểu tác phẩm văn học, chúng ta không thể không chú ý đến các chi tiết đó.Phân tích tác phẩm văn học 4 là phân tích các chi tiết thể hiện. Điều này ở trong Nhà trường từ trung học đến đại học, các sách giáo khoa, sách giáo viên về làm văn, các giáo trình v.v... đều đã chỉ rõ như thế. Có thể dẫn chứng từ sách Làm văn 12 (chương trình cải cách): “Nội dung khái quát của tác phẩm được gửi gắm qua các chi tiết (lời nói của nhân vật, bộ điệu, cử chỉ, nét mặt, đồ vật, cảnh tượng...). Chi tiết bao giờ cũng có khả năng thuyết minh, biểu hiện cái toàn thể (phạm vi ý nghĩa mà nó thuộc vào). Nhưng không cần và không thể phân tích mọi chi tiết, chỉ cần chọn các chi tiết tiêu biểu nhất, nói lên tư tưởng quan trọng của nhà văn và phù hợp với chủ đề phân tích của đề bài. Biết lựa chọn thì bài làm tập trung, không dàn trải, lan man” (Làm văn 12, SHS tr 57). Chúng ta chưa bàn đến cách phân tích chi tiết như thế nào, mà vấn đề là phải biết lựa chọn chi tiết ra sao. Đây chính là điều làm cho nội dung các bài phân tích giảng văn của các tác giả có độ nông sâu khác nhau. Như trên đã nói, nhiều công trình nghiên cứu phân tích tác phẩm làm văn hoàn toàn làm đúng như yêu cầu về phương pháp làm văn, bài viết của họ đã nêu đúng luận đề, đã phân tích tác phẩm đạt yêu cầu, học sinh có thể hiểu được tác phẩm ở một mức độ nhất định. Nhưng xét cho cùng, bài viết của họ vẫn chưa thực sự có chiều sâu. Nguyên nhân là do việc lựa chọn chi tiết để phân tích, họ chưa biết khai thác những chi tiết tiêu biểu, quan trọng và cần thiết. Đọc truyện Kiều của Nguyễn Du, bạn đọc ai cũng biết để có tiền chuộc cha, Thúy Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh và từ đây cuộc đời nàng bước vào giai đoạn mười lăm năm đoạn trường, đau khổ, phân tích nỗi khổi này, nhiều người đã dựng lên hình ảnh tàn bạo của cả một xã hội phong kiến lúc bấy giờ từ bọn quan lại đại thần (Hồ Tôn Hiến) đến bọn sai nha, các thế lực hung bạo buôn thịt bán người như Tú bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Ưng, Khuyển, Sở Khanh v.v... và họ đã tập trung phân tích kỹ càng về các đối tượng đó. Cũng có người lại cho tại số mệnh, Thúy Kiều khổ vì số nàng phải thế, và họ đã tập trung 5 vào việc phân tích những lời của hồn ma Đạm Tiên qua các lần báo mộng, lời của Tam Hợp đạo cô v.v... Hiểu như vậy là không sai vì hàng ngàn câu thơ trong Truyện Kiều đã dành để nói về điều đó. Nhưng thật ra có lẽ cuộc đời Thúy Kiều chìm nổi 15 năm đoạn trường chỉ bắt đầu từ một câu thơ “Hỏi ra xưng xuất là thằng bán tơ?”. Một dòng trong hơn ba nghìn rưỡi dòng thơ Truyện Kiều nhưng lại là dòng thơ quyết định đời Kiều. Đây thực sự là một chi tiết độc đáo. Chỉ một lời nói vu vơ, nội dung không rõ ràng (xưng xuất) không biết người nói cụ thể (thằng bán tơ), mà từ đó cha và em Thúy Kiểu bị bắt giam, nhà cửa tài sản bị phá, bị cướp tan tành và Thúy Kiều phải bán mình để chuộc cha, để rồi từ đây là cuộc đời đau khổ đoạn trường. Cố nhà thơ Hữu Loan đã từng bình luận rất hay về chi tiết “thằng bán tơ” khi ông đặt vấn đề “Thằng bán tơ là ai? Tại sao Nguyễn Du lại để quên không cho Kiều báo oán”. Và nhà thơ đã lý giải: “Thằng bán tơ” kỳ thực là kẻ vu khống. Mà kẻ vu khống thì bao giờ cũng trong bóng tối, bao giờ cũng nấp phía sau bọn quan chức để hại người. Tương tự như vậy, ta có thể bắt gặp những chi tiết có ý nghĩa quan trọng trong nhiều tác phẩm khác. Chẳng hạn, phân tích truyện ngắn “Đôi mắt” của Nam Cao, đặc biệt là phân tích nhân vật Hoàng, học sinh thường quan tâm đến ngoại hình, hành động của nhân vật. Tất nhiên phải bắt đầu từ chi tiết nhưng không mấy khi đi sâu vào khai thác những chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa làm nổi bật chủ đề tư tưởng cũng như chủ đích nghệ thuật của nhà văn. Chẳng hạn như những chi tiết bề ngoài hết sức đơn giản như “bộ ria mép giống như một chiếc bàn chải nhỏ”. Chi tiết này không đơn giản chỉ làm cụ thể, rõ ràng, có hình khối, khuôn mặt của nhân vật, mà quan trọng hơn là nó nói lên cá tính, bản chất của nhân vật. Đồng thời tiếp tục tô đậm sự xa cách của Hoàng đối với mọi người trong cuộc sống hiện tại đầy khó khăn gian khổ của buổi đầu kháng chiến chống Thực dân Pháp. Hay như chi tiết “Chí chửu cũng như người ta hát” trong truyện 6 ngắn Chí Phèo. Mới nhìn qua, tưởng như đó là một câu nói vui, một lời nói mỉa không có gì là quan trọng. Kỳ thực đây chính là chi tiết minh oan cho Chí. Nó khẳng định hành động chửi của Chí là không hề có chủ định mà chỉ là một thói quen, một hành động thường nhật. Và ẩn sâu bên trong chi tiết đó còn là nỗi đau, là khát vọng được giao tiếp với mọi người của Chí. Đó cũng chính là chiều sâu nhân bản của tác phẩm. Cũng là truyện ngắn Chí Phèo, nếu biết đi sâu phân tích chi tiết bà cô Thị Nở không cho thị quan hệ với Chí, học sinh sẽ phát hiện ra một điều mới mẻ khác. Đó là trước đây người ta thường cho rằng nguyên nhân đẩy Chí đến bước đường cùng là do xã hội, do bọn thống trị tàn độc và thâm hiểm thì chi tiết này góp phần làm sáng tỏ thêm một nguyên nhân khác. Đó là định kiến, và chính định kiến mới là yếu tố cuối cùng giết chết Chí Phèo. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh trong một lần trả lời phỏng vấn trao đổi về tác phẩm Chí Phèo đã có một nhận xét sâu sắc về câu nói ở cuối tác phẩm, nhận xét về cái chết của Bá Kiến và Chí Phèo. Ý của Giáo sư là: Đây là lời của người dân làng bình thường, Chí Phèo mặc dù đã ăn năn hối hận về những việc làm của mình và muốn trở lại làm người lương thiện, xã hội không chấp nhận và những người không thông cảm cho Chí không chỉ là bà cô Thị Nở mà chính là những người dân làng nghèo khổ như Chí. Đó mới là bi kịch của anh. Rõ ràng nếu đọc kỹ, ta thấy Nam Cao cũng như Nguyễn Du đã sắp đặt cuộc đời nhân vật của mình bằng những chi tiết có thể không có gì là to tát cả, nhưng lại có ý nghĩa hết sức sâu sắc. Thật thế, đọc truyện “Đời thừa” theo dõi nhân vật Hộ từ khi bước chân ra khỏi nhà, từ lời nói, suy nghĩ, hành động đều thể hiện quyết tâm muốn thực hiện lời hứa với vợ, sẽ trở về nhà với tiền bạc đầy đủ, có thức ăn tươi cho con và sẽ không say xỉn như mọi khi. Vậy mà Hộ đã làm gì? Đọc truyện, lúc đầu chúng ta thấy Hộ hầu như đã thực hiện gần xong mọi tính toán và quyết tâm của mình. Sau khi nhận tiền xong, Hộ đã đi thẳng đến hiệu thịt quay, định mua thịt, bánh về cho con, tưởng tượng cảnh đàn con háu ăn đang tranh nhau ăn uống ngon lành, gặp bạn 7 văn đã dứt khoát từ chối lời mời rủ rê của bạn. Nhưng rồi chính Hộ lại rủ bạn đi uống bia, rượu cho đến sáng hôm sau mới tỉnh dậy ở nhà mình. Vậy thì vì sao Hộ lại thay đổi nhanh như thế? Có phải vì việc cuốn “Đường về” được dịch ra tiếng Anh không? Đúng thực tế của diễn biến truyện là như vậy. Mặc dù đã dứt khoát không đi chơi, nhưng khi nghe tin một cuốn sách có giá trị địa phương lại được dịch ra tiếng Anh với bản quyền tác giả rất cao, thì Hộ đã quên ngay mọi dự định, quyết tâm của mình. Thực ra, đọc tác phẩm ở đoạn đó, ta gặp hai dòng chữ: khi Hộ định vào hiệu thịt quay thì “Nhưng trong hiệu, một thiếu nữ đang mặc cả... hắn đành đợi vậy”. Chỉ chưa tới hai dòng chữ nhưng chính cái nguyên nhân đã khiến Hộ không thực hiện được lời hứa của mình là đây: một chút lịch sự với phụ nữ. Những dẫn chứng nói trên về Truyện Kiều, Đời Thừa, Chí Phéo… đã cho thấy trong khi phân tích tác phẩm văn học, đặc biệt là tác phẩm tự sự thì việc lựa chọn chi tiết là khâu quan trọng. Nếu chi tiết được lựa chọn có tính chất tiêu biểu, toàn diện, đầy đủ thì nội dung bài viết không chỉ đúng, chính xác mà còn thật sự sâu sắc. Tuy nhiên trong việc lựa chọn chi tiết ta cần phải phân biệt các loại chi tiết thường được dùng trong tác phẩm văn học. Có như vậy thì việc lựa chọn mới chính xác. I.2. Khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự Chi tiết phong phú và đa dạng như thế khi phân tích tác phẩm văn học, tác phẩm tự sự, đặc biệt là truyện ngắn chúng ta cần phải cân nhắc cẩn thận trong việc lựa chọn chi tiết phù hợp. Trong bài viết này tôi quan tâm hơn về truyện ngắn vì kì thực trong chương trình Ngữ văn 12, các tác phẩm tự sự chủ yếu thuộc thể loại truyện ngắn. Và ở một phạm vi nhất định truyện ngắn có những điểm khác với các thể loại tự sự khác, nhất là tiểu thuyết. Thế nhưng, trong quá trình lựa chọn chi tiết để phân tích truyện ngắn nhiều người viết đã cho rằng các chi 8 tiết tự sự (các tình tiết) là những bộ phận thuộc về kết cấu cốt truyện, thể hiện diễn biến của cốt truyện nên đã không chú ý. Chúng ta đều biết truyện ngắn khác với tiểu thuyết không chỉ vì số lượng trang, chữ, dài ngắn mà còn chính là khác về nội dung, kết cấu cốt truyện. Tiểu thuyết (truyện dài) vừa dài và dày về số trang, số chữ mà còn miêu tả cuộc sống đầy đủ về không gian và thời gian (dung lượng). Tiểu thuyết phản ánh hiện thực cuộc sống theo một thời gian dài, xẩy ra ở nhiều nơi khác nhau với nhiều nhân vật, thể hiện nhiều vấn đề. Vì vậy cốt truyện cũng phức tạp, đan chéo, quyện lẫn vào nhau. Do đó, khi phân tích tiểu thuyết nhà nghiên cứu không thể nêu hết và phân tích hết được các chi tiết biểu hiện của tác phẩm. Ngược lại truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, diễn tả một cái khoảnh khắc, chốc lát của cuộc sống vì vậy chi tiết phải cô đúc, ngôn ngữ mang nhiều ẩn ý, tạo ra cho tác phẩm những chiều sâu về nội dung và nghệ thuật cần phải tìm hiểu. Nhiều nhà văn đã có những phát biểu cụ thể về truyện ngắn như nhà văn Vũ Thị Thường: “Viết truyện dài như làm một căn nhà đồ sộ, còn bắt tay viết truyện ngắn là nhận lấy việc chạm trổ một cái khay, một tấm tranh khắc gỗ. Ở truyện dài có thể có những chương “độn” nhưng ở truyện ngắn chỉ cần viết một nữa trang lỏng lẻo là truyện đổ liền. Những chi tiết hay đến mấy đi chăng nữa mà không phục vụ chủ đề, thì cũng trở nên vô ích” (Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới). Hoặc như ý kiến của cố nhà văn Nguyễn Công Hoan: “Truyện ngắn và truyện dài phải khác nhau ở tính chất. Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu dùng tiếng có cân nhắc. Muốn truyện là truyện ngắn, chỉ nên lấy một ý chính làm chủ đề cho truyện. Những chi tiết trong truyện chỉ nên xoay quanh chủ đề ấy. Không có chi tiết thừa, rườm rà, miên man. 9 Mỗi truyện cần có một ý, một ý thôi. Ý ấy là ý chính của chuyện nhưng thật ra đó là ý định của tác giả ... làm nổi được ý ấy cho độc giả hiểu thì truyện sẽ hay” (Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới). Một số nhà văn như Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Nguyễn Quang Sáng, Đỗ Chu, Ma Văn Kháng v.v.. cũng đã có rất nhiều ý kiến xoay quanh đặc điểm về chuyện “bếp núc” của truyện ngắn. Nói chung theo ý họ có thể có nhiều tác phẩm viết chưa hay, nhưng truyện ngắn phải khác truyện dài, khác tiểu thuyết. Có thể lấy thêm một ý kiến nữa của nhà văn Ma Văn Kháng: “Theo tôi hiểu, một tác phẩm dưới mười ngàn chữ không nên ngổn ngang quá. Tôi thích những truyện tình, trọn vẹn ... Như người ta vẫn nói:toàn truyện phải là một cái vòng khép kín, không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào. Khi đã vào truyện cái xà tích của một cô gái hay một chút ánh trăng thượng tuần cũng phải có ý nghĩa, cái nọ nương tựa cái kia, chi tiết này soi rọi cho chi tiết khác” (Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới) Nhiều nhà văn khác cũng đã có những nhận định tương tự như vậy. Nói chung, tất cả mọi người đều cho rằng truyện ngắn là một khối thống nhất, hoàn chỉnh, chặt chẽ từ nội dung, tư tưởng chủ đề đến hình thức diễn đạt, ở truyện ngắn không có một cái gì là thừa. Vì vậy, viết truyện ngắn là một điều vô cùng khó khăn. Nhà văn Nguyễn Ngọc đã từng so sánh việc viết truyện kí “Đất nước đứng lên” và truyện ngắn” Rừng xà nu” của ông, ông tâm sự”Trước hết tôi nghĩ có lẽ ở thời “Đất nước đứng lên”, chắc tôi sẽ không thể viết được, viết nổi “Rừng xà nu”. Riêng tôi cảm thấy điều đó rất rõ”. (Nguyên Ngọc - Về một truyện ngắn - Rừng xà nu- Trích trong Để dạy tốt Văn học Việt Nam lớp 12 NXB Giáo dục 1996) và ông đã giải thích lý do vì sao: Truyện ngắn tuy ngắn nhưng nhiều chi tiết, người viết phải biết rất nhiều, rất dài, phải có vốn sống, biết cách chọn tình huống, cách xử lý bố cục, cách dựng truyện, dựng người, cách 10 nói, giọng nói, lời kể, lời văn v.v...Những khả năng đó thì thời viết “Đất nước đứng lên” ông chưa đủ độ chín. Như vậy, khác với truyện dài, truyện ngắn tuy nhỏ bé hơn nhiều về số lượng trang, chữ, về đối tượng phản ánh (cái chốc lát, cái khoảnh khắc của cuộc sống, một ý tưởng v.v...) nhưng lại đòi hỏi, yêu cầu rất cao về nghệ thuật diễn đạt. Ở truyện ngắn dĩ nhiên là truyện ngắn hay - không có những yếu tố thừa. Cho nên khi phân tích truyện ngắn, chúng ta cần phải lựa chọn các chi tiết biểu hiện, là những chi tiết tiêu biểu quan trong để thể hiện đúng và đầy đủ giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm. Bỏ qua hoặc quên đi một số chi tiết dù chỉ nhỏ bé nhưng lại có ý nghĩa quan trọng và sẽ làm hạn chế giá trị biểu hiện của tác phẩm. Như trên đã nói, thực tế trong việc phân tích tác phẩm văn học được dạy ở trường Phổ thông, chúng ta có lúc đã có những thiếu sót đó, đặc biệt là khi phân tích các truyện ngắn văn học ở chương trình lớp 12. Dưới đây bài viết sẽ xin được giới thiệu một số vấn đề về khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự ở chương trình Ngữ văn 12 hiện nay. II. HƯỚNG DẪN HỌC SINH KHAI THÁC CHI TIẾT QUA MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN TỰ SỰ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 Truyện ngắn nói riêng cũng như Văn học Việt Nam nói chung từ sau cách mạng tháng Tám - 1945 đến nay đã có sự thay đổi, phát triển hơn truyện ngắn trước 1945 về cả hình thức lẫn nội dung. Những tác phẩm được tuyển chọn để dạy ở chương trình Ngữ văn 12 có thể coi là tiêu biểu cho truyện ngắn, thể hiện đầy đủ các đặc điểm của truyện ngắn đã nói ở trên. Đó là những truyện như: Vợ nhặt (Kim Lân), Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) và Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu). Mỗi tác phẩm đã phản ánh hiện thực cuộc sống, đặt ra những vấn 11 đề của từng giai đoạn một cách sâu sắc bằng những hình thức nghệ thuật đặc sắc. Chính vì vậy, nên khi phân tích những truyện ngắn này để giảng dạy và phục vụ cho việc dạy và học của thầy và trò, các giáo viên, cán bộ giảng dạy cũng như các nhà nghiên cứu v.v... đã hết sức cố gắng để làm rõ được giá trị độc đáo, cái hay cái đẹp của chúng, giúp cho học sinh nhất là các em học sinh khá giỏi, cảm thụ hết vẻ đẹp của văn học. Với vai trò của một giáo viên đứng lớp, ngoài việc giảng dạy theo yêu cầu bộ môn, theo đặc trưng thể loại. Tôi luôn quan tâm hướng dẫn học sinh đi sâu vào tìm hiểu chi tiết của tác phẩm để có cái nhìn sâu sắc và toàn diện, cũng là nhằm giúp các em nâng cao năng lực phân tích, thẩm bình tác phẩm văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng. Sau đây, tôi đi vào cụ thể một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 12. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, do khuôn khổ và yêu cầu của bài viết, tôi không đi vào phân tích cụ thể tác phẩm mà chỉ trình bày việc hướng dẫn học sinh khai thác một số chi tiết trong tác phẩm. Bởi vậy, nhìn qua bạn đọc sẽ không thấy được sự hoàn chỉnh của một bài phân tích văn học. Mặt dù tôi vẫn đi theo cấu trúc của tác phẩm để hướng dẫn học sinh khai thác. II.1. Truyện “Vợ nhặt” (Kim Lân): II.1.1. Hướng dẫn khai thác các chi tiết tình huống truyện Bước một, tôi cho học sinh xác định tình huống, gọi tên tình huống của truyện. (Đó là tình huống nhặt được vợ, lại nhặt nơi đầu đường xó chợ. Đây là một tình huống lạ, một tình huống có vấn đề). Bước hai cho học sinh tìm hiểu các chi tiết quan trọng tạo nên tình huống trên. Bước này học sinh chỉ cần căn cứ vào sách giáo khoa để tìm hiểu. Có thể chỉ ra những cụm từ, những câu, những đoạn cụ thể, hoặc có thể trả lời một cách khái quát nội dung chi tiết của vấn đề (Tên nhân vật chính (Tràng), bối cảnh trước khi Tràng nhặt vợ, câu hò của Tràng, thái độ của người đàn bà nhặt thóc rụng, bốn bát bánh đúc, cái nhíu mày của người vợ nhặt,…). 12 Bước ba học sinh căn cứ vào các chi tiết đã tìm để đi sâu vào phân ý nghĩa và giá trị của các chi tiết ấy. Chẳng hạn như tên gọi của nhân vật (Tràng), đã gợi lên một loại dụng cụ dùng trong nghề mộc, nó nói lên sự vất vả cơ cực của một kiếp người (em gái của Tràng có tên là đục), như vậy tên gọi của nhân vật là theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Hoặc như bối cảnh của truyện: những dòng người “đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…”. Đây quả là một khung cảnh thê lương, một không khí của đám ma, một không gian đầy mùi tử khí… Truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân đã xây dựng được một tình huống vô cùng độc đáo để thể hiện ý tưởng: Một nông dân nghèo rớt mồng tơi, tưởng chừng không bao giờ có vợ lại được có vợ bằng cách “nhặt”, mà chỉ cần bốn bát bánh đúc. Tuy nhiên nhà văn không chỉ dừng ở đó. Thông qua tình huống khác thường độc đáo này, Kim Lân “đã thể hiện một tình cảm nhân hậu với những người cùng khổ”, ý nghĩa của truyện: trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào, người nông dân vẫn khát khao vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm, để mà vui, để mà hy vọng. II.1.2. Hướng dẫn khai thác các chi tiết về nhân vật Tương tự như trên, tôi cho học sinh tìm hiểu theo các bước: xác định và gọi tên nhân vật, tìm các chi tiết quan trọng biểu hiện nổi bật nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuât của vấn đề rồi đi sâu vào phân tích các chi tiết đó. Chẳng hạn về nhân vật Tràng, từ chi tiết ngoại hình (thô nháp, vập vạp), đến tính cách chậm chạp (tư duy bằng miệng) rồi hoàn cảnh éo le: dân ngụ cư, cha chết sớm, nhà nghèo (chỉ có một túp lều dúm dó mọc trên một mảnh đất lổn nhổn những cỏ), mẹ già cả… đều tập trung nhấn mạnh đến khả năng rất khó lấy vợ của Tràng. Việc anh có vợ nhà văn miêu tả bằng một loạt chi tiết hết sức tình tế. 13 Hạnh phúc đến thật bất ngờ tưởng không bao giờ có được ở một thân phận thấp hèn xấu xí, cho nên Tràng từ ngỡ ngàng thành niềm vui cụ thể, Tràng cảm nhận và tận hưởng “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn mang khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. Vì vậy đến khi đã về đến nhà, đã có thị ở nhà rồi, mà “Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà rồi, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Chi tiết Tràng đi ra đi vào phấp phỏng, sốt ruột chờ mẹ về và cái thở phào “ngực nhẹ hẳn đi” là chi tiết thể hiện sự quan sát và trải nghiệm sâu sắc của nhà văn. Rồi chi tiêt sáng hôm sau (của đêm tân hôn) thức dậy, Tràng vẫn còn cảm thấy: “Trong người êm ái lửng lờ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay vẫn còn ngỡ ngàng như không phải” .Tiếp theo là những cảm nhận về cuộc sống đầu tiên khi đã có gia đình: “Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái và bổng vừa chợt nhận ra xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ”. Đọc đến đây, ta có liên hệ đến hình ảnh Chí Phèo nhận ra sau những cơn say dài triền miên. Ở đây Kim Lân rất tài tình trong việc miêu tả tâm lý, tả những tâm trạng phức tạp ở nhân vật của mình. Tràng đã có sự thay đổi thật sự với những cảm nhận về trách nhiệm và tình cảm đối với gia đình, với cái nhà của mình. Tuy nhiên để hiểu được sâu sắc vấn đề, tôi hướng dẫn học sinh đi sâu vào tìm hiểu thêm một số chi tiết khác trong tác phẩm. Như chi tiết đã bị tóm lược trong chương trình Tràng mua hai hào bạc dầu để thắp trong đêm tân hôn với một ý nghĩ rất hồn nhiên: Vợ mới, vợ miếc cũng phải sáng sủa một tí chứ. Rõ ràng người đàn ông khốn khổ và cơ cực ấy đã rất chi chút đến hạnh phúc của mình. Song có lẽ, chi tiết đắt nhất để tả sự thay đổi đó chính là việc: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” Tác giả Nguyễn Quang Trung trong “Phân tích - Bình giảng tác phẩm văn học 12” (NXB Giáo dục - 1999) đã chọn chi tiết này và bình: “So với cái dáng” ngật ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành động “ xăm 14 xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: Từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy nghĩ của một Tràng ý thức bổn phận sâu sắc: “Bây giờ hắn mới thấy nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này” Tràng đã thật sự “Phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc. Cô Kiều xưa: “ xăm xăm băng lối vườn khuya vường mình” thì táo bạo đấy mà vẫn cú chênh vênh, đơn độc thế nào. Cái xăm xăm của Tràng mới thực khỏe, tự tin như vậy”. Đúng là ở Tràng đã có sự chuyển biến, thay đổi lớn lao, là bước ngoặt quan trọng trong đời anh. Khác với sự đổi thay theo chiều hướng đi lên, thẳng đứng của Tràng, ở nhân vật bà cụ Tứ, tâm lý được miêu tả diễn biến phức tạp, theo hai bước: lúc mới gặp nàng dâu mới và sáng hôm tân hôn. Ở mỗi bước, nhà văn đã khéo léo lựa chọn nhiều chi tiết có ý nghĩa để miêu tả nhân vật nhất là tâm lý nhân vật, rối rắm đó: ngạc nhiên có, sững sờ có, vui mừng có, buồn tủi có, lo lắng có, tin tưởng có. Diễn biến tâm trạng của nhân vật có vẻ như nếp gấp như thế, nhưng điểm sáng ở bà cụ Tứ như có người đã nhận xét: Truyện gồm ba nhân vật, lại xuất hiện muộn mằn nhất và là một bà lão “gần đất xa trời” nhưng thật kỳ lạ, chính bà lão chứ không phải ai khác đã thắp sáng sự tin tưởng, niềm hy vọng cho người khác. Có thể thấy rõ điều đó qua một số chi tiết như: Khi Tràng đánh diêm đốt đèn, thắp sáng, bà cụ Tứ dã nói: “Có đèn ấy à ? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa ...” Một chút sáng nhỏ bé lần đầu xuất hiện trên cái tối tăm của cuộc sống nhưng nó là khát khao, ước mong cháy bỏng của bà. Chính vì vậy, trong đêm tâm hôn và sáng hôm sau bà đã nói với con và dâu bằng những lời lẽ tràn đầy niềm tin hy vọng: “Biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì con cái chúng mình về sau” hay bàn chuyện sửa sang nhà cửa, chăn nuôi… Câu nói “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” nghe có vẻ 15 phấn khởi mà sao vẫn thấy thật tội nghiệp, người đọc dễ liên tưởng đến bài ca dao than thân “Mười quả trứng” của ông cha ta: “Tháng giêng, tháng hai/ Tháng ba, tháng bốn/ Tháng khốn tháng nạn/ Đi vay đi dạm/ Được một quan tiền/ Ra chợ Cửa Diên/ Mua một con gà mái về nuôi”. Rồi chi tiết nồi “chè khoán” (mà thực chất là cháo cám) với nhận xét “Ngon đáo để” của bà chính là niềm tin về hạnh phúc cuộc sống. Cùng với những chi tiết miêu tả nhân vật, truyện ngắn “Vợ nhặt” còn có nhièu chi tiết về kết cấu, cốt truyện rất đặc sắc. Nhờ đó mà ý nghĩa của chủ đề của tác phẩm càng trở nên sâu sắc hơn. Đó là tiếng hờ khóc tỉ tê “của những nhà có người chết đói, tiếng trống thu thuế đầu đình, và cảm giác đắng chát và nghẹn bứ của Tràng khi ăn bát chè cám của mẹ vừa múc cho” . Ba chi tiết khác nhau nhưng cùng chung một ý nghĩa: hạnh phúc đang bị đe dọa. Niềm vui của bà cụ Tứ và hạnh phúc của Tràng đang phải đối mặt với một thực tế: nạn đói khủng khiếp đang hoành hành khắp nơi, sinh mạng người lúc này có thể bị mất đi rất dễ dàng. Trong ba chi tiết, có lẽ tiếng trống ngoài đình là đắt nhất. vì sao ? Chúng ta hãy đọc lại chi tiết mà Kim Lân đã miêu tả : “Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám vẩn trên nền trời như những đám mây đen”. Cách giải thích như tác giả trong “Tuyển tập các bài giảng văn học lớp 12” (NXB TP Hồ Chí Minh - 1992) ý là “Về phương diện biểu tượng, đàn quạ ấy che đen cả bầu trời như những đám mây đen làm cho ta nhận thức được cảnh sống bế tắc, tối tăm, chết chóc tưởng chừng như đang ụp xuống, đóng lại kín mít, tối bưng” . Những con quạ, biểu tượng cho cái chết vậy mà chúng phải hốt hoảng sợ hãi bay lên vì tiếng trống. Có phải tiếng trống thu thuế, hay là chính sách tàn bạo dã man của thực dân Pháp và lưỡi hái tử thần đã làm cho “Xóm làng ta xơ xác héo hon” và hơn 2 triệu người phải chết đói. Đàn quạ sợ tiếng trống dồn dập đó là phải. 16 Về chi tiết cuối hình ảnh “đoàn người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” có người chú ý đến có người không, nhưng đây vẫn là một chi tiết rất đáng trân trọng về chủ đề tác phẩm và quan điểm nghệ thuật của tác giả. Bởi cùng với chi tiết mở đầu tác phẩm: một buổi chiều “chạng vạng mặt người” và kết thúc là một buổi sáng “mặt trời lên bằng con sào” chi tiết này đã làm cho “Vợ nhặt” không còn là tác phẩm của dòng Văn học Hiện thực phê phán trước 1945. II.2. Truyện “Vợ chống A Phủ” (Tô Hoài): Chủ đề của truyện có hai ý: phản ánh thân phận đau khổ của người nông dân miền núi dưới ách thống trị áp bức của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng thời là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do của con người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đời cách mạng của họ. Vì vậy, khi đọc hiểu tác phẩm này tôi thường tập trung cho các em khai thác các chi tiết xoay quanh nhân vật Mỵ. Có thể thấy ở nhân vật này đầy ắp những chi tiết hay, chi tiết độc đáo. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể đi hết mọi chi tiết mà quan trọng nhất là biết lựa chọn những chi tiết có giá trị lớn nhất trong việc thể hiện ý đồ tư tưởng của tác phẩm và biết khai thác sâu ý nghĩa của mỗi chi tiết ấy. Mở đầu truyện ngay từ những dòng đầu tác giả đã rất khéo léo giới thiệu về Mỵ: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống Lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vả, chẻ củi hai đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cuối mặt, mặt buồn rười rượi ... Cô ấy là vợ A Sử, con trai của Thống Lý Pá Tra”. Cách miêu tả, dẫn dắt như thế có sức gây ấn tượng về nhân vật mà nhà văn muốn giới thiệu. Tôi đã hướng dẫn học sinh, khi đọc hiểu đoạn giới thiệu này tập trung vào chi tiết: Lúc nào ... cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi, đặc biệt chi tiết Mỵ ngồi “bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Tác giả đã tỏ ra tất tinh tế và sâu sắc khi đặt nhân vật trong sự đối lập với khung cảnh xung quanh: giữa cảnh giàu sang của nhà Thống Lý Pá Tra “nhiều nương, nhiều 17 bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” thì Mỵ đặt ngang với vật vô tri vô giác, vị trí thấp kém: tảng đá, tàu ngựa. Ẩn dụ này chính là thân phận thấp hèn, với địa vị nô lệ mặc dù, nghịch lý thay, tuy không phải là con gái nhưng lại là con dâu của Thống Lý Pá Tra. Nói về thân phận Mỵ ở nhà Pá Tra là phải nói đến chi tiết đó. Tìm hiểu nhân vật Mỵ, qua đoạn giới thiệu chúng ta thường đi sâu vào các khía cạnh: nỗi đau thể xác, nỗi đau tinh thần và sức sống kỳ diệu của nhân vật. Ở mỗi khía cạnh tôi hướng dẫn học sinh tập trung khai thác các chi tiết phục vụ cho các nội dung trên. Chẳng hạn ở nỗi đau thể xác có chi tiết “Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày” đã nói lên sự hành hạ, bóc lột thậm tệ sức lao động của con người. Nội dung này càng được khẳng định qua chi tiết người chị dâu tuổi chưa cao nhưng lưng đã còng sát đất. Rồi chi tiết Mỵ bị trói đứng vào cột nhà trong suốt đêm, chi tiết A Sử đạp chân vào mặt Mỵ khi cô đang bóp chân cho hắn, chi tiết A Sử đi chơi đêm về thấy Mỵ ngồi sưởi đã đánh Mỵ ngã ngay suống bếp… và các chi tiết ấy đều có ý nghĩa hết sức sâu sắc. Chỉ đơn cử chi tiết hằng đêm Mỵ thức dậy sưởi lửa, bị A Sử đánh gục xuống bếp nhưng đêm mai Mỵ vẫn thức dậy như không có truyện gì xảy ra đã mang rất nhiều lớp nghĩa. Học sinh khai thác để thấy được: đó là sự tố cáo tội ác của A Sử nói riêng, bọn quan lại nói chung; là việc thể hiện Mỵ chỉ còn là cái xác không hồn, nói đúng ra Mỵ giống như một chiếc máy đã được lập trình và mọi hành động đều xuất phát từ sự lập trình ấy; Tuy nhiên nhìn sâu hơn chi tiết này lại mang ý nghĩa Mỵ đang vô cùng lạnh lẽo, cô đơn và cái cô lạnh ấy bắt Mỵ phải tìm đến bếp lửa, sự thèm khát hơi ấm đã giúp Mỵ chiến thắng mọi sợ hãi. Như vậy bên trong sự băng giá vẫn đang tồn tại một cô Mỵ với một niềm khát sống mãnh liệt. Ngoài ra, chi tiết này còn là cơ sở cho hành động cứu A Phủ sau này. 18 Ở khía cạnh nỗi đau tinh tình, tôi cũng hướng dẫn học sinh tìm để khai thác các chi tiết có ý nghĩa quan trọng nhất như chi tiết con dâu gạt nợ (chi tiết này không chỉ nói lên nỗi đau của Mỵ mà còn tố cáo sự độc ác thâm hiểm của chế độ lang đạo miền núi trước Cách mạng tháng Tám.), chi tiết “Cô Mỵ về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ”, chi tiết “Bây giờ thì Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”. Đây là những chi tiết thể hiện rõ nhất nỗi đau tinh thần của Mị, người con gái cực khổ ấy đã hoàn toàn đánh mất cảm giác về thời gian và không gian, cô không nhớ ngày tháng, không nhớ nơi mình đang ở mà chỉ “nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”. Ngoài các chi tiết trên, còn có rất nhiều chi tiết khác nữa như chi tiết “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, chi tiết “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Chi tiết này góp thêm ý nghĩa vào việc miêu tả thân phận của Mỵ ở Hồng Ngài. Mỵ không chỉ là kẻ nô lệ thấp kém trong gia đình Pá Tra mà còn như là một người tù đang ở chính ngay trong nhà người chồng. Đặc biệt qua chi tiết căn buồng, nhà văn đã tạo dựng lên được một thứ ngục thất tinh thần, ở đó nó không chỉ giam hãm thân xác, mà còn giam hãm cả tuổi xuân và tình yêu của Mị. Khai thác khía cạnh sức sống kỳ diệu của nhân vật Mị, tôi cũng bắt đầu bằng việc cho học sinh tìm các chi tiết. Có thể thấy ở nội dung chi tiết cũng rất nhiều và đặc sắc. Từ chi tiết Mị vào rừng tìm lá ngón để tự tử nhưng không đành lòng chết vì thương bố, đến chi tiết Mị nổi loạn trong đêm tình mùa xuân và sau nữa là chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ. Có thể nói, nhà văn đã rất thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật Mỵ để nói lên sự trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát khao hạnh phúc ở nhân vật này. 19 Chi tiết Mỵ cởi trói cho A Phủ đã được nhiều người phân tích rạch ròi, bởi vì nó là đỉnh cao của sự trỗi dậy ở Mỵ, là hành động tất yếu không thể khác hơn. Có điều nhà văn đã khéo léo trong việc dẫn dắt, miêu tả diễn biến phức tạp tâm trạng của nhân vật và chi tiết “tiếng sáo gọi bạn tình” chính là bước dẫn dắt đó. Đây là chi tiết được Tô Hoài miêu tả rất tinh tế để thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt trong tâm hồn của Mỵ. Thật vậy, đọc truyện chúng ta ai cũng biết, lúc đầu sống trong cảnh nô lệ ở nhà Thống Lý Pá Tra, Mỵ đã định tự tử bằng lá ngón, nhưng vì thuơng cha nên Mỵ đã không thực hiện. Dần dẫn Mỵ đã bị tê liệt sức phản kháng đó: “Ở lâu trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi. Bây giờ thì Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa... Mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” . Tuy nhiên đó chỉ là cái bên ngoài, ngòi bút của nhà văn đã đi sâu vào ngõ ngách tâm hồn của nhân vật để khám phá và khơi dậy cái sức sống mãnh liệt ở Mỵ. Chi tiết “tiếng sáo gọi bạn mùa xuân” chính là sự biểu tượng của sự trỗi dậy đó. Phần sáng của truyện cũng bắt đầu bằng chi tiết này. Trong truyện tiếng sáo gọi bạn đã theo sát diễn biến tâm trạng của Mỵ. Lúc đầu, khi mùa xuân đến có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi, nghe tiếng sáo Mỵ đã thiết tha, bồi hồi, nhẩm thầm lời bài hát, Mỵ uống rượu say và Mỵ quyết định đi chơi Tết như mọi thanh niên khác. Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng ngoài đường. Khi bị A Sử ngăn cản trói tàn bạo vào cột nhà thì Mỵ vẫn nghe tiếng sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi, những đám cưới mà ngày nào Mỵ từng được diện kiến. Quả thực, tiếng sáo đã làm Mị quên đi hiện tại mà nhớ về quá khứ, để thấy “trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Bốn lần tiếng sáo xuất hiện trong tâm hồn Mỵ dù nghe hay không nghe, tiếng sáo đã làm thay đổi lớn, đã thức dậy ở Mỵ lòng ham sống mãnh liệt, lòng khát khao hạnh phúc mà bấy lâu nay những tưởng Mỵ đã bị tê liệt quên lãng. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng