Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn giáo viên chủ nhiệm trong việc quản lí lớp học bằng các biện pháp giáo dục ...

Tài liệu Skkn giáo viên chủ nhiệm trong việc quản lí lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực

.DOC
27
117
144

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: "GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG VIỆC QUẢN LÍ LỚP HỌC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰC" 1 1. Đặt vấn đề Như chúng ta đã biết sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mở cửa để hội nhập cộng đồng thế giới trong nền kinh tế cạnh tranh quyết liệt, đòi hỏi công tác giáo dục ở nước ta phải có những đổi mới sâu sắc và toàn diện nhằm đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, vừa có khả năng tư duy sáng tạo, có tình cảm và thái độ của con người mới xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên bên cạnh đó thì ngày càng bộc lộ những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống tinh thần, sự cảm thụ văn hóa - nghệ thuật cũng như trong tâm lý - đạo đức của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Những ảnh hưởng tiêu cực đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ xã hội, làm sai lệch các chuẩn mực giá trị, dẫn tới sự suy thoái về đạo đức ở một bộ phận xã hội, ảnh hưởng xấu tới thế hệ trẻ, đáng chú ý là ở lứa tuổi học sinh phổ thông của chúng ta. Vậy thì chúng ta có thể ngăn chặng việc suy thoái về đạo đức đó được không? Nếu có sự cộng tác thật chặt chẽ giữa Gia đình- Nhà trường- xã hội để thực hiện giáo dục đạo đức, để bảo vệ sự trong sạch, lành mạnh của đời sống đạo đức cho thế hệ trẻ được hay không? Phải chăng đẩy mạnh giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông là góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa? Như thế, giáo dục 2 đạo đức cho học sinh phổ thông gắn liền với mục tiêu và nhiệm vụ chính trị, với cuộc đấu tranh ý thức của thế hệ hiện nay. Có thể nói, chưa bao giờ, vấn đề giáo dục đạo đức được đặt ra với tầm quan trọng, tính cấp thiết và ý nghĩa xã hội rộng lớn như lúc này. Chăm lo cho sự phát triển đạo đức và đời sống tinh thần lành mạnh của cộng đồng xã hội là chăm lo tới tiềm lực phát triển lâu bền của cả một dân tộc. Phát triển cho thế hệ trẻ không chỉ vững về kiến thức mà còn phải đảm bảo về đạo đức. Vì vậy đối với chúng ta là người giáo viên phải luôn tự hào trong sự nghiệp trồng người của mình nhưng cũng là nhiệm vụ hết sức nặng nề mà Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó. Trong đó giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bồi dưỡng đạo đức và hoàn thiện nhân cách của học sinh . Công tác này đòi hỏi sự khéo léo, linh hoạt và nhiệt tâm của mỗi giáo viên. Nhưng không phải giáo viên chủ nhiệm nào cũng có được một phương pháp tốt để quản lí lớp học của mình, thậm chí còn tỏ ra lúng túng trong một số tình huống sư phạm. Hơn nữa, nhìn lại chặng đường đã qua của công tác giáo dục, xã hội nói chung và các thầy cô giáo nói riêng không khỏi băn khoăn về một số phương pháp quản lí lớp học trước đây tỏ ra thiếu hiệu quả, thậm chí còn gây tổn hại lâu dài và nặng nề về thể chất cũng như tinh thần của học sinh. 3 Vì thế, đổi mới công tác chủ nhiệm lớp thực sự là mong mỏi và thu hút được sự quan tâm của xã hội và đặc biệt của những người đang đứng trên bục giảng. Bản thân tôi Trong quá trình công tác tại trường THCS Ba Xa tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nhỏ và mong muốn được đóng góp một vài ý kiến của mình về “ Giáo viên chủ nhiệm trong việc quản lí lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực ”, với hi vọng ý kiến đó sẽ phần nào góp ý cho những giáo viên chủ nhiệm làm tốt hơn công tác của mình hơn, góp phần vào sự phát triển cho học sinh cả tài và đức. 2. Giải quyết vấn đề 2.1 Cơ sở lí luận a. Khái niệm kỉ luật Theo từ điển tiếng Việt : kỉ luật là tổng thể những điều quy định có tính chất bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong một tổ chức để bảo đảm tính chặt chẽ của tổ chức, là hình thức phạt đối với người vi phạm kỉ luật. Theo quan điểm của Cambell – nhà tâm lí học người Anh: Kỉ luật có nghĩa là rèn luyện cho tâm trí và nhân cách của trẻ để giúp đỡ trẻ trở thành những người biết tự chủ và có ích cho xã hội, sự kỉ luật bao gồm : hướng dẫn trẻ bằng cách nêu gương, khuyên dạy bằng lời nói, bằng sách vở, dạy dỗ và giúp trẻ học thông qua kinh nghiệm vui tươi. 4 Và hình phạt chỉ là một trong số những biện pháp của việc kỉ luật, thậm chí còn là biện pháp kỉ luật tiêu cực nhất. Như vậy, theo hai cách hiểu trên ta thấy kỉ luật là những quy định và hình phạt, song trong giáo dục cần đưa ra những kỉ luật có tác dụng giáo dục tích cực đến người học. b. Khái niệm biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực Biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực là cách giáo dục dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của HS, không làm tổn hại đến thể xác và tinh thần của học sinh, có sự thỏa thuận giữa giáo viên - học sinh và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí học sinh. Theo như khái niệm trên cho ta hai cách hiểu về phương pháp quản lí lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực . Thứ nhất, đó là biện pháp giáo dục ý thức kỉ luật (ý thức tôn trọng nội quy trường lớp, đáp ứng các yêu cầu của chương trình giáo dục của nhà trường) ở học sinh một cách tích cực. Thứ hai, đó là biện pháp giáo dục bằng các hình thức kỉ luật có tác động một cách tích cực đến người học. 2.2. Cơ sở thực tiễn Chúng ta thấy được rằng hiện nay, không ít giáo viên có thói quen giáo dục học sinh bằng cách trừng phạt thể xác: đánh học sinh bằng tay hoặc roi, hoặc gõ vào tay, bắt học 5 sinh dán băng keo vào miệng, tự vả vào miệng mình khi mắc lỗi nói chuyện trong lớp, bắt học quỳ gối, úp mặt vào tường….Còn có giáo viên trừng phạt về tinh thần bằng cách xỉ nhục, hạ thấp nhân phẩm của học sinh như : chửi bới, xa lánh… Cụ thể như những cô bảo mẫu ở Đồng Nai, TPHCM,... Có nhiều giáo viên tỏ ra bất lực trong việc giáo dục những học sinh cá biệt, khó bảo, nên đã sử dụng bạo lực. Biện pháp này thiếu hiệu quả, thậm chí là biện pháp tiêu cực, phản giáo dục, chỉ có tác dụng trước mắt, gây thương tổn về lâu dài đến tinh thần của học sinh. Học sinh phát triển thái độ thù nghịch, về lâu dài các em trở nên chai lì với đòn roi, hung tợn và hiếu thắng. Cũng đã có những giáo viên phạt tiền cho mỗi lỗi vi phạm của học sinh. Mặc dù ở mức độ nào đó hình phạt này có thể hạn chế sự vi phạm của học sinh, được sự chấp thuận, đồng tình của tập thể lớp và phụ huynh học sinh nhưng sẽ tác động tiêu cực đến nhận thức của các em. Vô hình chung tạo nên ở học sinh nét suy nghĩ: mọi tội lỗi, sai phạm đều có thể mua chuộc được bằng đồng tiền. Có giáo viên phạt học sinh đứng trong góc lớp hoặc đuổi học sinh ra ngoài để các bạn khác trêu chọc vì lỗi không thuộc bài cũ, không làm bài tập . . . 2.3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề: 6 Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực trạng giáo dục với việc sử dụng các biện pháp giáo dục kỉ luật học sinh, tôi xin đưa ra một số các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực. Theo cách hiểu giáo dục kỉ luật tích cực là biện pháp giáo dục ý thức kỉ luật (ý thức tôn trọng nội quy trường lớp, đáp ứng các yêu cầu của chương trình giáo dục của nhà trường) ở học sinh một cách tích cực, có thể áp dụng một vài biện pháp để ngăn chặn việc học sinh vi phạm kỉ luật sau: Đầu năm học giáo viên chủ nhiệm và học sinh cùng tiến hành bàn bạc với nhau về nội qui của lớp ( dựa trên nội qui của nhà trường), hình thức kỷ luật đối với học sinh. Sau khi học sinh tự bàn bạc, thống nhất mọi điều, giáo viên chủ nhiệm sẽ tổng hợp thành một bản “ Nội qui lớp học” và “hình thức kỷ luật của lớp” phổ biến cho toàn học sinh trong lớp. Bản nội qui này có thể bổ sung hoặc sửa đổi tùy theo tình hình học tập của học sinh và tình hình cụ thể của từng lớp. Mỗi giáo viên chủ nhiệm sẽ căn cứ vào kinh nghiệm thực tế và tình hình cụ thể của lớp chủ nhiệm của mình mà đưa ra nội dung hoặc hình thức kỷ luật cho phù hợp, riêng cá nhân tôi thì tôi làm như sau: 2.3.1. Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục 7 - Nhà giáo dục vĩ đại Nga Usinxki nói rằng: “muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt” Giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu và nắm vững các đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý, tính cách, năng lực, sức khỏe, năng lực phát triển trí tuệ, sở thích, nguyện vọng, năng khiếu, phẩm chất đạo đức của học sinh. Về hoàn cảnh sống, mối quan hệ với tập thể, bạn bè .... Qua đó để thấy mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh, của tập thể lớp để phát huy và khắc phục. Trên cơ sở đó phát hiện những yếu tố mới, những mầm mống, những nhân tố tích cực để làm nòng cốt cho phong trào chung của lớp. Nếu như chúng ta không nắm rõ vấn đề này thì chúng ta không thể tìm được những phương pháp phù hớp. Để tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục, theo tôi thì có thể vận dụng những cách sau: a. Thông qua sổ điểm của năm trước, qua phiếu lý lịch đầu năm học, trong buổi đầu tiên lớp gặp Giáo viên chủ nhiệm trước khi bước vào năm học mới Từ sổ điểm năm trước, phiếu lý lịch, giáo viên chủ nhiệm sẽ sơ lược nắm bắt kịp thời đặc điểm của các em, đây cũng là cơ sở quan trọng để giáo viên chủ nhiệm lựa chọn Ban cán sự lớp – lực lượng nòng cốt và quan trọng hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong quá trình áp dụng biện pháp kỷ luật tích cực. 8 b. Thông qua, giấy tờ cá nhân của học sinh (khai sinh , hộ khẩu ...), phiếu học sinh do nhà trường chuẩn bị Từ giấy khai sinh hoặc hộ khẩu của học sinh chúng ta nắm bắt những thông tin chính xác hơn về học sinh, kịp thời sửa chữa những sai sót về lý lịch của các em. Kết hợp với tư liệu từ phiếu học sinh, chúng ta tổng kết những thông tin cần thiết về học sinh về mọi mặt, để từ đó có biện pháp giáo dục thích hợp với từng đối tượng. c. Thông qua giấy tờ, hồ sơ, sổ sách của lớp . Ban cán sự lớp được giáo viên chủ nhiệm trích quĩ lớp để mua bút, vở và có nhiệm vụ ghi chép các hoạt động của lớp, đồng thời theo dõi việc thực hiện nhiệm vụ của các thành viên trong lớp tuỳ theo chức trách, nhiệm vụ mà giáo viên chủ nhiệm đã giao. 2.3.2. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa Giáo viên chủ nhiệm và học sinh – nền tảng quan trọng của phương pháp quản lý lớp học bằng các biện pháp kỷ luật tích cực Quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa người với người ở đất nước ta hiện nay là điều kiện thuận lợi để hình thành quan hệ tốt đẹp giữa người lớn và tuổi mới lớn. Đặc biệt chúng ta đang thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Tuy vậy khó tránh khỏi những xung đột nhỏ giữa thanh thiếu niên và người lớn, hay giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh. Điều đó một phần do học sinh và giáo viên chủ nhiệm sống 9 và phát triển ở hai giai đoạn khác nhau. Mặt khác nó phụ thuộc nhiều vào thái độ của hai phía đối với nhau, quan điểm của hai phía về nhau. Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh có thể tốt đẹp nếu giáo viên chủ nhiệm thực sự tin tưởng vào học sinh, tạo điều kiện để các em được thỏa mãn tính tích cực, độc lập trong hoạt động, tạo điều kiện để nâng cao tinh thần trách nhiệm của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm không được quyết định thay, làm thay cho học sinh, như vậy các em sẽ mất hứng thú và cảm thấy phiền toái. Mặt khác , thái độ “đỡ đầu” quá cặn kẽ của giáo viên chủ nhiệm sẽ củng cố ở học sinh tính trẻ con, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu quen với cảm giác “đỡ đầu” đó các em sẽ rụt rè, không dám quyết định khi cần thiết. Giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức lớp tích cực, tự quản nhưng không phải thờ ơ, để mặc lớp làm gì thì làm, phải lôi kéo tất cả học sinh vào hoạt động chung, kích thích được tinh thần trách nhiệm, sự tự giáo dục và giáo dục lẫn nhau của các em. Về điều này tôi đã tiến hành khảo sát và tìm ra được những điều học sinh cần và chưa đồng ý về giáo viên chủ nhiệm, để từ đó giáo viên chủ nhiệm rút kinh nghiệm để xây dựng được mối quan hệ tốt và nhận được sự ủng hộ của học sinh trong quá trình quản lý lớp 2.3.3. Quản lí lớp học bằng biện pháp giáo dục ý thức tôn trọng nội qui, kỉ luật của học sinh 10 a. Sự cần thiết của kỉ luật trong nhà trường và thực trạng “nhờn” kỉ luật, coi thường nội qui của học sinh Để điều chỉnh hành vi của người công dân, Nhà nước phải có pháp luật; để buộc mọi người tôn trong pháp luật, cần phải có những thiết chế ,công cụ như tòa án, nhà tù… Tương tự như thế, Nhà trường cũng cần có nội qui, điều lệ để điều chỉnh hành vi của học sinh; cần các biện pháp kỉ luật để buộc học sinh phải tôn trọng nội qui. Nội qui không chặt chẽ, kỉ luật không nghiêm thì học sinh sẽ “nhờn”. Học sinh “nhờn” kỉ luật thì kỉ cương, nền nếp của nhà trường sụp đổ, việc dạy và học sẽ không có chất lượng. Thực tế hiện nay có một số học sinh hư hỏng, đến trường không phải để học tập mà để tụ tập chơi bời, quậy phá, cúp tiết để đi chơi. Do nhiều nguyên nhân như ảo tưởng về khả năng giáo dục, cảm hóa của nhà trường với đối tượng này; sự vô trách nhiệm của cha mẹ học sinh, các qui định về mức độ kỉ luật quá mềm; sự e ngại ảnh hưởng đến thành tích của nhà trường, sự nể nang về phụ huynh… nên số học sinh này vẫn ngang nhiên tồn tại. Điều nguy hiểm là những tấm gương xấu này lại có khả năng lây lan, lôi kéo một bộ phận học sinh cùng tham gia và lây lan rất nhanh. Vì vậy nếu thấy kỉ luật của nhà trường nghiêm thì số học sinh này sẽ khép mình trong khuôn khổ. Nhưng khi thấy những học sinh quậy phá mà chẳng bị nghiêm trị thì các học sinh này sẽ đua đòi, bắt chước để cuối cùng trở 11 thành những học sinh hư. Do vậy, kỉ luật nghiêm khắc thì chỉ loại ra một số học sinh hư hỏng; kỉ luật không nghiêm thì sẽ làm hư luôn những học sinh chưa hư. b. Làm thế nào để học sinh “tự giác” chấp hành nội qui, kỉ luật? Thuyết phục, cảm hóa, tác động bằng tình cảm… để học sinh tự giác chấp hành nội qui thì nghe rất hay nhưng không thực tế. Với những học sinh chăm ngoan, có ý thức học tập thì chẳng cần ai thuyết phục, cảm hóa cả; các em rất tự giác chấp hành nội qui. Nhưng với đa số học sinh việc chấp hành nội qui là do “sợ” bị kỉ luật. Muốn học sinh chấp hành nội qui trước tiên các em phải hiểu nội qui; phải biết điều gì được làm, điều gì không được làm; vi phạm mức độ nào là bị phê bình, kiểm điểm trước lớp, bị hạ hạnh kiểm; vi phạm mức độ nào là bị đưa ra Hội đồng kỉ luật… Tất cả đều có trong Điều lệ, qui định của nhà trường nhưng học sinh lại không nhớ. Phải có những qui định thật rõ ràng, cụ thể và bắt học sinh học thuộc ( giáo viên chủ nhiệm ở những buổi đầu năm học có thể kiểm tra học sinh và cũng có thể đưa vào một trong những tiêu chí đánh giá về mặt hạnh kiểm của lớp) .Để học sinh chấp hành tốt nội qui thì trách nhiệm không chỉ ở giáo viên chủ nhiệm; đó còn là sự cộng đồng trách nhiệm của lãnh đạo nhà trường, giáo viên bộ môn, phụ trách đội, phụ huynh học sinh…Tất nhiên giáo viên chủ nhiệm phải chịu trách nhiệm chính nhưng như thế không có nghĩa là lãnh đạo trường, liên đội trường không chịu trách nhiệm gì. 12 c. Các phương pháp quản lí lớp học bằng biện pháp giáo dục học sinh ý thức kỉ luật Thứ nhất là vai trò chỉ đạo, hướng dẫn của Giáo viên chủ nhiệm : Trước tiên giáo viên chủ nhiệm phải tâm huyết. Nhưng do Giáo viên chủ nhiệm không phải lúc nào cũng có mặt ở trường và nếu đến trường thì còn phải thực hiện nhiệm vụ giảng dạy ở các lớp khác nên việc quản lí lớp phải giao cho ban cán bộ lớp. Giáo viên chủ nhiệm tổ chức, giao nhiệm vụ và hướng dẫn cách quản lí lớp cho ban cán bộ lớp. Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên kiểm tra, uốn nắn để cho bộ máy quản lí lớp chạy đều. Trong giờ sinh hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm nên để cho ban cán bộ lớp điều hành và chỉ tham gia ý kiến chỉ đạo khi có những sự việc ban cán bộ lớp không giải quyết được hoặc phổ biến những chỉ đạo của ban giám hiệu. Thứ hai là phát huy vai trò tích cực, chủ động của ban cán bộ lớp : Phải làm cho ban cán bộ lớp thấy rằng mình không phải là kẻ thừa hành, chỉ làm những công việc mà giáo viên chủ nhiệm sai bảo. Ban cán bộ lớp phải có những quyền hành nhất định, phải có “tiếng nói” trong việc khen thưởng, xử lí kỉ luật và xếp loại hạnh kiểm học sinh. Giáo viên chủ nhiệm nên động viên ban cán bộ lớp đề xuất những biện pháp đưa lớp tiến bộ. Qua sự theo dõi của mình, ban cán bộ lớp có quyền yêu cầu các học sinh vi phạm nội qui hoặc lơ là học tập phải tự phê bình, kiểm điểm trước lớp… Tóm lại, vai trò của ban cán 13 bộ lớp là hết sức quan trọng. Nó đòi hỏi cao tính gương mẫu, tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, không vị nể và nhiệt tình cao của người cán bộ lớp. Do đó việc chọn được một ban cán bộ lớp tốt là yếu tố tiên quyết để quản lí lớp thành công. Kinh nghiệm cho thấy không phải việc để cho tập thể lớp bầu ban cán bộ lớp bao giờ cũng tốt. Tuy phát huy dân chủ là cần thiết nhưng thực tế học sinh thường ưa bầu những bạn vui vẻ, dễ dãi và sẵn lòng bao che cho những khuyết điểm của mình trước giáo viên chủ nhiệm làm cán bộ lớp. Vì vậy, Giáo viên chủ nhiệm nên hướng cho lớp bầu những học sinh có phẩm chất mà mình đã lựa chọn. Nếu cần, Giáo viên chủ nhiệm trực tiếp chỉ định các học sinh làm cán bộ lớp thì vẫn tốt hơn so với bầu cử dân chủ nhưng vẫn không chọn được học sinh xứng đáng. Thứ ba là phát huy yếu tố “cộng đồng trách nhiệm”: Phát huy tính cộng đồng trách nhiệm tức là làm cho những học sinh tốt hiểu rằng chỉ mình tốt là chưa đủ mà phải giúp cho bạn mình cùng tốt và làm cho những học sinh chưa tốt hiểu rằng việc mình vi phạm nội qui, lười học… không chỉ mình chịu hậu quả mà còn làm cho các bạn khác cũng bị “vạ lây”. Muốn vậy, Giáo viên chủ nhiệm phải xây dựng nội dung và biểu điểm thi đua giữa các tổ để khen thưởng các tổ thi đua tốt và lấy kết quả thi đua tổ để định mức tỉ lệ phần trăm các xếp loại hạnh kiểm của những thành viên trong tổ. Ví dụ tổ xếp hạng 14 nhất thì định mức là 80% học sinh được xếp loại hạnh kiểm tốt, hạng nhì định mức là 60%, hạng ba định mức là 40%, hạng chót định mức là 20%... Thứ tư là phối hợp với Phụ huynh học sinh như thế nào để vừa tiết kiệm thời gian vừa có hiệu quả? Cách làm truyền thống là giáo viên chủ nhiệm mời phụ huynh của học sinh vi phạm đến trường để trao đổi biện pháp giáo dục học sinh hoặc tìm đến nhà học sinh để gặp cha mẹ các em. Cách làm này tốn nhiều thời gian của cả hai bên do đó chỉ nên áp dụng khi thật cần thiết. Cách thứ hai là liên lạc bằng điện thoại. Cách này tiện lợi nhưng tốn kém và đôi khi hiệu quả không cao (chẳng hạn như Phụ huynh học sinh gọi điện xin phép cho con nghỉ học…). Cách thứ ba: Giáo viên chủ nhiệm lấy chữ kí mẫu của Phụ huynh học sinh vào đầu năm ( sổ liên lạc). Đơn xin phép nghỉ học của Phụ huynh học sinh phải có chữ kí xác nhận đúng mẫu của Phụ huynh. Những học sinh vi phạm nội qui, không thuộc bài… đều phải làm bản tự kiểm trước lớp. Bản tự kiểm đó phải có ý kiến và chữ kí đúng mẫu của phụ huynh học sinh . Như vậy học sinh sẽ không giả mạo được và Phụ huynh sẽ nhận được các thông tin về việc học tập cũng như hạnh kiểm của con em mình. 2.3.4. Quản lí lớp học để nâng cao chất lượng học tập của học sinh 15 a. Chất lượng, hiệu quả của một giờ học nhìn từ phía học sinh Một tiết học có chất lượng và hiệu quả thì bên cạnh vai trò của giáo viên còn có vai trò của học sinh bởi chính học sinh sẽ tạo tâm thế và cảm hứng cho tiết dạy của giáo viên. Một lớp học mà học sinh không thuộc bài cũ, không chuẩn bị bài mới, không tập trung nghe giảng, không đưa tay phát biểu…thì giáo viên có kinh nghiệm, nhiệt tình bao nhiêu cũng đành bất lực. Với những lớp mà học sinh thông minh, chăm học thì tự nó đã có “không khí” để tạo tâm thế và cảm hứng cho giáo viên. Nhưng với các lớp học sinh vừa yếu vừa lười học thì các biện pháp quản lí của giáo viên chủ nhiệm để tạo “không khí” lớp học là rất cần thiết. b. Các biện pháp quản lí Một là phát huy vai trò của cán bộ lớp và cán sự bộ môn: Có những tiết học do giáo viên bộ môn bao quát lớp tốt nên học sinh học tập nghiêm túc nhưng cũng có những tiết học giáo viên bộ môn “thoải mái”, học sinh thừa cơ hội nói chuyện riêng gây mất trật tự. Ở những tiết này, vai trò và khả năng quản lí lớp của ban cán bộ lớp sẽ được phát huy. Bằng các biện pháp như nhắc nhở, ghi tên các học sinh làm mất trật tự để phê bình, kiểm điểm trước lớp, ban cán bộ lớp có thể giúp lớp học ổn định. Ban cán bộ lớp theo dõi, ghi nhận việc soạn bài, học bài cũ và phát biểu xây dựng bài của học sinh để làm căn cứ xếp loại thi đua giữa các tổ và để biểu dương những học sinh học tốt, phê bình kiểm điểm 16 những học sinh không soạn bài, làm bài tập ở nhà , không thuộc bài cũ…Ban cán bộ lớp tổ chức, phân công cho các cán sự bộ môn giúp các bạn giải những bài tập khó và quản lí lớp để việc tự học ở 15 phút đầu giờ có hiệu quả. Hai là các hình thức khen thưởng và khiển trách học sinh trong học tập: Những học sinh không soạn bài, làm bài tập, không thuộc bài cũ…đều phải làm phê bình, kiểm điểm trước lớp. Cần phải đưa việc học tập vào xếp loại hạnh kiểm học sinh. Số lần làm phê bình, kiểm điểm về học tập cũng như về thực hiện nội qui càng nhiều thì xếp loại hạnh kiểm càng thấp. Tuy nhiên cũng nên tạo cơ hội cho học sinh phấn đấu trong học tập. Chẳng hạn một học sinh kiểm tra bài cũ môn này bị điểm 2 nhưng nếu đạt được điểm 8 kiểm tra miệng môn khác thì sẽ được xóa một lần kiểm điểm trong tuần đó. Việc khen thưởng học sinh cũng cần có hình thức riêng. Thông thường chỉ có những học sinh Giỏi, Khá được khen thưởng. Một học sinh học lực yếu mà phấn đấu lên Trung bình thì không được khen mặc dù với học sinh đó việc đạt được loại Trung bình là một cố gắng lớn. Bởi vậy, Giáo viên chủ cũng đừng quyên tuyên dương cho các học sinh có tiến bộ trong học tập như từ Trung bình lên Khá, Yếu lên Trung bình…Để việc học tập của mỗi học sinh trở thành phong trào, Giáo viên chủ nhiệm cần cụ thể hóa các khâu học bài cũ, chuẩn bị bài mới, phát biểu xây dựng bài thành các chỉ tiêu cụ thể trong thi đua giữa các tổ. 17 2.3.5. Thay đổi cách cư xử trong lớp học là dựa trên cơ sở động viên, khuyến khích, nêu gương, tìm hiểu nhằm thúc đẩy học sinh có thái độ và hành vi đúng. Giáo viên cần nắm bắt được tình hình, đặc điểm lớp học từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Giáo viên không nên cầu toàn, đặt quá nhiều kì vọng vào học sinh, không nên yêu cầu quá cao ở học trò. Giáo viên cần ghi nhận những cố gắng và kết quả mà các em đạt được về mọi mặt học tập, nề nếp hay tham gia các hoạt động văn thể mĩ của trường. Đồng thời khuyến khích các em phát huy thế mạnh của mình, kích thích sự tích cực của mỗi cá nhân trong lớp học. Giáo viên cần tuyên dương học sinh có tiến bộ trong mỗi tuần. Sự động viên, khích lệ kịp thời của giáo viên sẽ có sức mạnh cổ vũ sự tự ý thức của học sinh. Giáo viên nhận xét, góp ý một cách khéo léo về những điều mà các em chưa làm được hoặc làm chưa tốt, không nên chê bai, chỉ trích vì điều đó sẽ làm thui chột đi sự tích cực chủ động ở các em. Hãy để học sinh cảm nhận được sự tin tưởng của thầy cô dành cho chúng. Mỗi lời nói, mỗi hành động, tác phong cũng như cách cư xử của giáo viên trên lớp sẽ có tác động không nhỏ đến nhận thức và tình cảm của học trò. Giáo viên sẽ không thuyết phục được học sinh nghe theo sự chỉ dạy của mình nếu như bản thân không chuẩn mực 18 và thiếu đi sự chân thành. Cho nên, mỗi giáo viên phải là một tấm gương sáng về nhân cách để học sinh noi theo. 2.3.6. Quan tâm đến những khó khăn của học sinh Mỗi học sinh đến trường với những hoàn cảnh và điều kiện khác nhau cả về vật chất lẫn tinh thần ( sức khỏe, nhận thức, tâm lí…). Những điều kiện đó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập và rèn luyện đạo đức của các em trên lớp. Vì vậy, quan tâm đến những khó khăn của học sinh là việc làm vô cùng cần thiết. Giáo viên nên tìm hiểu kĩ về hoàn cảnh của từng học sinh và đặc biệt chú ý đến những học sinh có hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn tình cảm do cha hoặc mẹ mất sớm, cha mẹ li hôn, gia đình bất hòa, cha mẹ thiếu sự quan tâm. Những học sinh có hoàn cảnh này thường dễ có thái độ sống buông thả, bất cần; vi phạm nội quy lớp học. Giáo viên lúc này không chỉ đóng vai trò là người thầy mà còn là người bạn gần gũi, thân thiện, được học sinh tin tưởng tâm sự, sẻ chia những khó khăn, vướng mắc của mình. Giáo viên cần lắng nghe và gợi ý, định hướng cho học sinh giải quyết những khó khăn của mình. Nếu mỗi giáo viên gần gũi và tạo được sự tin tưởng ở học trò thì chắc chắn sẽ có ít hơn trường hợp vì giận gia đình, vì đổ vỡ trong chuyện tình cảm mà tìm đến những cái chết thương tâm. 19 Giáo viên liên hệ, trao đổi qua điện thoại hoặc tìm đến gia đình những học sinh có hoàn cảnh khó khăn để hiểu và có sự cảm thông đối với các em. Giáo viên có thể thông qua trước lớp việc miễn lao động, đối với những học sinh nhà xa, thể chất yếu. Cuối mỗi học kì, giáo viên gợi ý lớp trích quỹ để khen thưởng, động viên những học sinh vượt khó vươn lên trong học tập. 2.3.7. Tổ chức các hoạt động xây dựng tập thể lớp Một tập thể lớp tốt là một tập thể đoàn kết, thân ái, thân thiện, cởi mở, tôn trọng nhau. Để xây dựng tập thể đó giáo viên cần tăng cường tổ chức các hoạt động nhóm, tổ chức trò chơi hoặc hướng dẫn học sinh tự tổ chức trò chơi trong các giờ sinh hoạt lớp. Thiết nghĩ những giờ sinh hoạt vui chơi như vậy sẽ giúp học sinh mạnh dạn hơn, tăng cường sự gắn bó đoàn kết trong lớp học. Giáo viên chia lớp thành 4 tổ, mỗi tổ sẽ đảm nhận nhiệm vụ tổ chức trò chơi trong giờ sinh hoạt của từng tuần. Có phần thưởng dành cho các nhóm. Mỗi tháng hoặc vào những dịp đặc biệt như: 20/10, 20/11, 22/12, tết,… giáo viên có thể thiết kế trò chơi (có thể mô phỏng hoặc dựa vào những trò chơi truyền hình như: Đường lên đỉnh Olimpia, đố vui để học... Biện pháp này đã kích thích được sự chủ động, tinh thần tham gia vào hoạt động tập thể của các em. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan